Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện long thành, tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.55 KB, 92 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng kết quả nghiên cứu trong luận là hoàn toàn trung
thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Tác giả luận văn

Phan Thị Ngân


LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này, em đã nhận
được sự hỗ trợ, giúp đỡ cũng như là quan tâm, động viên từ các thầy cô, bạn
học và gia đình. Nghiên cứu khoa học cũng được hoàn thành dựa trên sự tham
khảo, học tập kinh nghiệm từ các kết quả nghiên cứu liên quan, các sách, báo
chuyên ngành của nhiều tác giả ở các trường Đại học.
Trước hết, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Đinh Văn Minh –
người trực tiếp hướng dẫn khoa học đã luôn dành nhiều thời gian, công sức
hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu và hoàn thành đề tài
nghiên cứu khoa học.
Em xin trân trọng cám ơn Ban giám hiệu Trường học viện hành chính
Quốc gia cùng toàn thể các thầy cô giáo công tác trong trường đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu, giúp đỡ em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong đề tài nghiên cứu khoa học này
không tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong Quý thầy cô, các chuyên
gia, những người quan tâm đến đề tài, đồng nghiệp, gia đình và bạn bè tiếp
tục có những ý kiến đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cám ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 8 năm 2019
Tác giả


Phan Thị Ngân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ
DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI
NGHIỆN BẮT BUỘC................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc......................................................................... 7
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc................................................................................................................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc................................................................................................................................................... 8
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc............................................................................................................................ 9
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở

cai nghiện bắt buộc...................................................................................................................... 12
1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc............................................ 13
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc......................................................................................................................... 13
1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc............................................................................................................ 16
1.3.3. Thẩm quyền quyết áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc............................................................................................................ 18
1.4. Trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc......................................................................................................... 21
1.5. Các yếu tố ảnh hƣởng đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành

chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc...................................................................... 30
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................................. 32


CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI
HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI............................................................ 33
2.1. Khái quát chung về tình hình nghiện ma túy tại huyện Long
Thành.................................................................................................................................................... 33
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành........................................................................ .36
2.2.1.Thực trạng lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc................................................................................................... 36
2.2.2. Trong giai đoạn xem xét hồ sơ và đề nghị áp dụng biện pháp xử
lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc........................................................... 42
2.2.3. Trong giai đoạn ban hành quyết định áp dụng................................... 47
2.3. Đánh giá chung về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai........52
2.3.1. Kết quả đạt được trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai 52

2.3.2. Khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn
vướng mắc trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai..................................... .56
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................................. 66
CHƢƠNG 3. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ BẢO ĐẢM ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI NGHIỆN BẮT BUỘC TẠI HUYỆN LONG
THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI.................................................................................................. 67
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc............................................ 67
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc...................................................................... 68


3.2.1. Quy định để xác định thống nhất “nơi cư trú”, vấn đề liên quan
đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc........................................................................................................................................................ 68
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu sử dụng trong áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.................................................... 72
3.2.3. Quy định bổ sung về thủ tục, trình tự xác định tình trạng nghiện
73
3.2.4. Quy định rút gọn trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc........................................................................... .74
3.2.5. Nhóm giải pháp khác....................................................................................... 75
3.3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp đƣa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành.......................................................................... 75
3.3.1. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo việc áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.................................................... 75
3.3.2. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và xử lý các hành vi vi
phạm trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc................................................................................................................................. 76
3.3.3. Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.............................. 77
3.3.4. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao nhận thức
của người dân về công tác cai nghiện ma túy................................................................... 78
3.3.5. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.............................. 79
Tiểu kết chƣơng 3............................................................................................................. 80
Kết luận.................................................................................................................................... 81

Tài liệu tham khảo............................................................................................................ 82


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
XLVPHC: xử lý vi phạm hành chính
UBND: Ủy ban nhân dân
TAND: Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ
Số hiệu đồ thị
1

Tên đồ thị
Thống kê tình hình áp dụng biện pháp xử lý

Trang
34

hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc trong cả nước của Bộ Tư pháp
2

Thống kê lập hồ sơ cai nghiện công an
huyện Long Thành

37


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Ma túy là hiểm họa khôn lường của toàn nhân loại, là nguyên nhân dẫn
đến tội phạm, tệ nạn xã hội và lây nhiễm HIV/AIDS, số người nghiện ma túy
ngày càng tăng theo sự tăng trưởng của nền kinh tế. Trong những năm gần
đây cả thế giới chung tay vào công cuộc phòng, chống ma túy; Ở nước ta,
cuộc chiến chống ma túy cũng đã được Đảng và nhà nước tiến hành trong
nhiều năm bằng những biện pháp khác nhau và cũng đã đạt được những thành
tựu nhất định, tuy nhiên, trong sự phát triển của nền kinh tế vấn nạn ma túy
diễn biến rất phức tạp, số lượng người nghiện ma túy còn cao. Để hạn chế
những ảnh hưởng của ma túy đến cuộc sống, xã hội thì những người nghiện
ma túy sau khi được cai nghiện tại cộng đồng, gia đình hoặc người nghiện ma
túy không có nơi cư trú ổn định sẽ được đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Theo thống kê đến tháng 12/2017 cả nước có trên 222.000 người nghiện ma
túy có hồ sơ quản lý (tăng gần 12.000 người so với cùng kỳ năm 2016); trong
đó, trên 67,5% người đang sinh sống ngoài xã hội; 13,5% người trong cơ sở
cai nghiện, 19% người đang trong trại tạm giam, tạm giữ, cơ sở giáo dục,
trường giáo dưỡng. Theo báo cáo của Cục Phòng chống tệ nạn xã hội tại tổ
chức Hội thảo báo chí “Tư vấn, điều trị cai nghiện ma túy trong tình hình
mới” ngày 15 tháng 6 năm 2018 thì đến tháng 6 năm 2018, cả nước còn 120
cơ sở cai nghiện giảm được 25 cơ sở so với năm 2014 với tổng số người đang
được điều trị cai nghiện tại các cơ sở là 34.620 học viên mặc dù giảm về cơ sở
nhưng số người nghiện vẫn tăng chứ không giảm.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp
xử lý vi phạm hành chính được quy định trong Luật xử lý vi phạm hành
chính, được áp dụng với người nghiện ma túy. Mục đích của biện pháp này là
bắt buộc cai nghiện, để chữa bệnh giúp người bị nghiện lao động, học nghề,
học văn hóa dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt buộc, giúp họ sớm gia

1



nhập cộng đồng và có thể sử dụng những nghề được học để phát triển bản
thân. Biện pháp này suy cho cùng có bản chất là hạn chế quyền tự do của
công dân do Tòa án nhân dân cấp huyện, cụ thể là một Thẩm phán xem xét ra
quyết định. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính này trong
thời gian qua còn tồn tại vướng mắc, thiếu sót trong quá trình lập hồ sơ, xem
xét, áp dụng, một mặt các văn bản áp dụng còn nhiều bất cập chưa sát với tình
hình thực tế của mỗi địa phương, mặt khác tình hình người nghiện và đặc
điểm của mỗi địa phương khác nhau nên việc thực hiện pháp luật về biện
pháp này còn gặp nhiều vướng mắc.
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn cũng như hiệu quả của việc áp dụng
các biện pháp xử lý vi phạm hành chính thì việc tăng cường nghiên cứu lý
luận và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc để hạn chế các thiếu sót là hết sức cần thiết. Do đó, tác giả
chọn đề tài “Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai” để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
là vấn đề không chỉ Đảng, Nhà nước mà cả xã hội quan tâm. Cũng đã có một
số công trình khoa học về đề tài này. Khi tham khảo nội dung các công trình
khoa học, bài nghiên cứu liên quan tác giả luận văn nhận thấy người viết chủ
yếu đang trao đổi vướng mắc, điều luật áp dụng chứ chưa phân tích sâu về bản
chất của vấn đề. Có luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về biện pháp này, cũng đã
phân tích nguyên nhân, thực trạng và có những kiến nghị, giải pháp, tuy nhiên
để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp hiện nay và nhằm đi sâu nghiên cứu hơn
nữa để đánh giá hoàn thiện và đưa vào áp dụng một cách có hiệu quả biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian tới. Liên quan đến đề
tài này có một số công trình nghiên cứu nổi bật sau:

2



Luận văn thạc sĩ “Biện pháp đưa ngư ời nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc từ thực tiễn thành phố Đà Nẵng” (năm 2017) của tác giải Lê Thị Lan
Phương, bảo vệ thành công tại Học viện khoa học xã hội. Đây là đề tài có tính
khái quát cao, Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả thực
hiện các biện với luận văn này tác giải đã phân tích được bản chất của vấn đề
áp dụng biện pháp đưa người nghiện vào cơ sở cai nghiện bắt buộc từ thực
tiễn Thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên, chưa đi sâu vào nghiên cứu những
vướng mắc về quy định pháp luật khi các cơ quan thực hiện hoạt động áp
dụng pháp luật đối với biện pháp trên.
Luận văn thạc sĩ “Từ biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa
bệnh đến biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc”năm 2004 của tác giả
Phạm Tiến Thành tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội. Với luận văn này
tác giả đã làm rõ được các biện pháp xử lý hành chính và sự cần thiết và
chuyển hóa như thế nào từ biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh sang đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc; tuy nhiên, nội dung của luận văn chưa nêu lên
được điểm nổi bật khi áp dụng biện pháp và việc áp dụng có phù hợp hay
không và các giải pháp để áp dụng biện pháp này có hiệu quả hơn.
Luận văn thạc sĩ “Đảm bảo quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt
buộc qua thực tiễn thành phố Hải Phòng” năm 2016 của tác giải Nguyễn
Quốc Hiệu tại Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội; Với luận văn này tác giả
đã đánh giá tổng quan về quyền con người trong cơ sở cai nghiện nhưng lại
chưa làm rõ quyền con người trong cơ sở cai nghiện bắt buộc bị vi phạm như
thế nào và vì sao việc đưa người vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thì quyền con
người sẽ bị hạn chế.
Luận văn thạc sĩ “Áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
tại tỉnh Sóc Trăng” năm 2018 của tác giả Lưu Hồng Ngọc Hiền tại Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh; đây là luận văn thuộc loại ứng dụng, tác giả đi
sâu vào phân tích các quy định và vướng mắc trong quá trình áp dụng biện


3


pháp này ở giai đoạn lập hồ sơ và xem xét hồ sơ; luận văn nghiên cứu về các
bất cập của quy định pháp luật nhưng lại chưa đi vào nghiên cứu các yếu tố
khác ảnh hưởng đến quá trình áp dụng biện pháp.
Ngoài ra, còn một số các đề tài và bài viết trên các tạp chí về vấn đề này.
Như vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào về áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ cở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai. Đối với các công trình, bài viết đã được công bố, người viết đã tham
khảo được các vấn đề lý luận và thực tiễn để tiếp tục hoàn thiện trong đề tài
của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích
Khi nghiên cứu đề tài áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc phải nhận thức các vấn đề từ khía cạnh lý luận đến thực
tiễn từ đó mới có thể nhận thức đầy đủ yêu cầu đặt ra và định hướng việc
hoàn thiện. Luận văn nhằm đạt được mục đích sau:Trên cơ sở nghiên cứu làm
rõ vấn đề lý luận chung và thực tiễn của quá trình áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, luận văn đề xuất các giải pháp
nhằm đảm bảo hiệu quả áp dụng biện pháp này.
- Nhiệm vụ
+ Nghiên cứu hệ thống và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản, pháp luật
trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
+ Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long
+ Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chung và riêng cho địa phương
để đảm bảo việc thực hiện pháp luật về biện pháp trên.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

4


- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Khảo sát thực tiễn việc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai.
+ Về thời gian: Từ năm 2014 đến nay.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp luận: Với phạm vi nghiên cứu như trên,việc nghiên cứu
và hoàn thành luận văn trước hết dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lê
Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà Nước, nghị
quyết của Bộ chính trị về cải cách tư pháp.
- Phương pháp nghiên cứu: Người viết sử dụng phương pháp nghiên
cứu như sau:
+Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này được sử dụng hầu hết trong toàn bộ các chương của
luận văn và tập trung nhất trong chương 1 trong việc trình bày các khái niệm
cơ bản về áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
+ Phương pháp so sánh, liệt kê được sử dụng làm sáng tỏ những khác
biệt của vấn đề từ đó rút ra được những ưu điểm, hạn chế, bất cập, phương
pháp này được sử dụng trong chương 2 nhằm khái quát hóa thực trạng pháp
luật về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn: Được sử dụng trong việc
hoàn thiện khung pháp lý để việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào

cơ sở cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn, phương pháp này được sử dụng chủ
yếu ở chương 2.

5


+ Phương pháp phân tích vụ việc điển hình được sử dụng thông qua việc
đưa ra các vụ việc trên thực tế minh chứng cho việc áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thể hiện ở Chương 2 của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về ý nghĩa lý luận: Luận văn làm rõ các vấn đề liên quan đến quá trình
áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại
huyện Long Thành thông qua việc dẫn chứng các quy phạm pháp luật hiện
hành quy định về biện pháp này, từ đó góp phần làm rõ lý luận khoa học cơ sở
pháp lý về biện pháp trên đồng thời có những đóng góp cụ thể góp một phần
nhỏ vào việc hoàn thiện về khoa học pháp lý chuyên ngành.
Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn cung cấp các luận điểm có giá trị tham
khảo trong việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các quy định pháp luật để đảm
bảo việc áp dụng pháp luật đối với biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc hiệu quả hơn; đồng thời có thể làm tài liệu tham khảo cho
các đối tượng quan tâm đến Biện pháp trên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại huyện

Long Thành, tỉnh Đồng Nai.

6


CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ ÁP
DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO CƠ SỞ CAI
NGHIỆN BẮT BUỘC
1.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.1.1. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một trong bốn biện pháp
xử lý hành chính. Cùng với biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn; đưa
vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về
an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm [11, khoản 3 Điều
2].
Về mặt nội dung, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy
định lần đầu tiên ở Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 (Điều 20 và
Điều 24); tuy nhiên ở Pháp lệnh này và các văn bản pháp luật trước Luật xử
lý vi phạm hành chính năm 2012 biện pháp có tên là đưa vào cơ sở chữa bệnh
áp dụng với hai đối tượng là người nghiện ma túy và người bán dâm với điều
kiện về độ tuổi nhất định.
Về mặt hình thức, như trên đã trình bày trước Luật năm 2012, không sử
dụng tên gọi “đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” mà sử dụng tên gọi “đưa
vào cơ sở chữa bệnh”. Đến Luật XLVPHC năm 2012, tên gọi “biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc” được quy định chính thức tại Điều 95 “Đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp xử lý hành chính áp dụng đối với
người có hành vi vi phạm quy định tại Điều 96 của Luật này để chữa bệnh,

lao động, học văn hóa, học nghề dưới sự quản lý của cơ sở cai nghiện bắt
buộc”. Như vậy, đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc chỉ còn là người
nghiện ma túy, còn người bán dâm không là đối tượng của biện pháp

7


này bởi lẽ mại dâm không còn được coi là “bệnh” mà là một vấn đề xã hội
nên chỉ là đối tượng của xử lý hành chính. Mục đích của biện pháp đưa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc là chữa bệnh, giáo dục tư tưởng cho người bị nghiện
nên biện pháp này có tính cưỡng chế chế cao khi nội dung của nó là tước bỏ
một số quyền nhân thân của người bị áp dụng trong một thời gian. Người bị
nghiện sẽ phải sinh sống, học tập, lao động, dưới sự quản lý nghiêm ngặt, điều
này đã hạn chế một phần quyền con người khi áp dụng biện pháp nên biện
pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được xem là biện pháp xử lý hành
chính nghiêm khắc nhất.
1.1.2. Đặc điểm biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một biện pháp xử lý hành
chính đặc biệt nhằm ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật; biện pháp này
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp có
tính cưỡng chế hành chính nhà nước; biện pháp này do cơ quan có thẩm
quyền thi hành bằng cưỡng chế nhà nước, từ giai đoạn lập hồ sơ đến giai đoạn
xem xét, đề nghị và giai đoạn áp dụng biện pháp trên là do các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện như công an xã, phòng Lao động thương binh xã hội và
Tòa án nhân dân cấp huyện và chỉ có những cơ quan được pháp luật quy định
mới được quyền áp dụng biện pháp này. Biện pháp xử lý hành chính đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc có tính pháp lý, bởi lẽ nó được quy định trong các
văn bản pháp quy như Luật của Quốc hội, Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ

Quốc hội, Nghị định của Chính Phủ… Tính cưỡng chế còn được thể hiện ở
hiện ở chỗ biện pháp này mang tính bắt buộc thực hiện đối với người bị áp
dụng, đây cũng là biện pháp cưỡng chế mang tính nghiêm khắc nhất trong bốn
biện biện pháp xử lý hành chính vì nó hạn chế quyền tự do nhân thân của
người bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định.

8


Thứ hai là biện pháp chỉ áp dụng đối với cá nhân; đối tượng bị áp dụng
biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là cá nhân
(người nghiện ma túy từ 18 tuổi trở lên và có điều kiện như Điều 96 Luật
2012), vì bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do của đối tượng
trong một thời gian nhất định. Biện pháp này chỉ áp dụng đối với cá nhân mà
không áp dụng đối với tổ chức như các biện pháp xử phạt hành chính. Một
lưu ý, đối với trường hợp cá nhân thì phải là công dân Việt Nam, còn người
nước ngoài vi phạm tại lãnh thổ Việt Nam thì theo quy định tại khoản 7 Điều
21 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2013 về quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng,
chống tệ nạn xã hội; cháy, phòng và chữa; phòng, chống bạo lực gia đình thì
tùy theo mức độ vi phạm có thể bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất khỏi
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thứ ba, đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là người nghiện ma túy; cụ thể là người nghiện
ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường,
thị trấn mà vẫn còn nghiện hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không
có nơi cư trú nhất định. Việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc đối với nhóm đối tượng trên là một giải pháp để phòng ngừa những hành
vi nguy hiểm cho xã hội.
Thứ tư, trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp này rất chặt chẽ; bản chất của

biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do của đối
tượng bị áp dụng cho nên đối với việc áp dụng biện pháp này về trình tự, thủ
tục đã được quy định tương đối chặt chẽ; điều này đảm bảo hạn chế vi phạm
các quyền con người trong quá trình áp dụng của các cơ quan có thẩm quyền.
1.1.3. Nguyên tắc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.

9


Nguyên tắc là những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo làm nền tảng tư tưởng
cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Về bản chất, biện pháp xử lý
hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt, do vậy quá trình xem xét, áp dụng cần tuân thủ một số nguyên
tắc dưới đây:
Một là cá nhân chỉ bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc nếu thuộc đối tượng được quy định tại Điều 96 Luật
XLVPHC năm 2012. Điều này thể hiện chỉ khi một người có hành vi sử dụng
trái phép chất ma túy thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 96 thì
mới bị áp dụng biện pháp trên. Tuân thủ nguyên tắc này sẽ giúp các cơ quan
có thẩm quyền dễ dàng xác định được đối tượng áp dụng của biện pháp, hạn
chế sự tùy tiện áp dụng và hạn chế được việc xâm phạm các quyền cơ bản của
công dân.
Hai là áp dụng nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền,
đúng quy định của pháp luật; mục đích của nguyên tắc là để việc áp dụng biện
pháp một cách thống nhất, đúng trình tự thủ tục. Việc tuân thủ nguyên tắc này
sẽ giúp cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ việc nhanh chóng, tránh việc kéo
dài ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân cũng như hạn chế tình trạng ban
hành quyết định không đúng, không có căn cứ pháp luật. Áp dụng biện pháp
xử lý hành chính được hiểu là toàn bộ quá trình lập hồ sơ, xem xét hồ sơ vụ

việc và ra quyết định áp dụng. Yêu cầu “nhanh chóng” đòi hỏi mọi hoạt động
từ lúc lập hồ sơ đến giai đoạn tư vấn, xem xét, đề nghị và áp dụng đều phải
tiến hành nhanh, trong hoặc trước thời hạn luật định; điều này đòi hỏi, mỗi
chủ thể với thẩm quyền riêng phải nhanh chóng hoàn thành được nhiệm vụ
được phân công. Yêu cầu “công khai” là việc đảm bảo cho quá trình xem xét,
áp dụng có của những người tham gia tiến hành việc xem xét, áp dụng và đối
tượng bị áp dụng; việc xác minh, thu thập chứng cứ phải tiến hành công khai.
Yêu cầu “khách quan” đòi hỏi các chứng cứ trong hồ sơ phải được xem xét

10


một cách toàn diện, đầy đủ; đồng thời việc áp dụng biện pháp phải trên cơ sở
vô tư, không thiên vị, không vì vụ lợi cá nhân. Đúng thẩm quyền là việc các
cơ quan đã được pháp luật quy định tham gia vào quá trình xây dựng hồ sơ và
áp dụng biện pháp thì chỉ được làm những gì pháp luật quy định về thẩm
quyền của mình. Bảo đảm công bằng là làm sao cho thời hạn đối tượng bị áp
dụng biện pháp phải tương xứng với tính chất, mức độ vi phạm. Đúng quy
định của pháp luật là việc xử lý đúng hành vi, áp dụng đúng quy định của
pháp luật và đúng trình tự thủ tục luật định. Đảm bảo được nguyên tắc này khi
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là một nguyên tắc mang
tính “bắt buộc”, bởi lẽ bản chất của biện pháp này là hạn chế quyền tự do,
danh sự, nhân phẩm của công dân, vì thế, trong quá trình giải quyết đòi hỏi
các cơ quan chức năng phải thận trọng, khách quan, công bằng, phù hợp với
các chủ trương, chính sách cải cách của Đảng và Nhà nước; với luật pháp
quốc tế, đặc biệt là các công ước quốc tế về quyền con người.
Ba là, việc quyết định thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc phải căn cứ vào tính chất, mức độ, hậu quả vi phạm, nhân
thân người vi phạm và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng. Nguyên tắc này
đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải đánh giá được tính chất, mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi mà đối tượng thực hiện, xác định hành vi ấy là vi
phạm hành chính hay hình sự để có chế tài xử lý, tránh gây oan sai. Đặc điểm
nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đều được quy định trong pháp
luật hành chính; những đặc điểm trên có ảnh hưởng đến khả năng cải tạo, giáo
dục, vì thế, khi áp dụng các cơ quan có thẩm quyền phải xem xét để áp dụng,
tránh tình trạng đối tượng có nhân thân tốt, vi phạm lần đầu lại được áp dụng
thời hạn như người có nhân thân xấu, có nhiều tình tiết tăng nặng.
Bốn là người có thẩm quyền áp dụng biện pháp xử lý hành chính có
trách nhiệm chứng minh vi phạm hành chính. Cá nhân bị áp dụng biện pháp
xử lý hành chính có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp

11


chứng minh mình không vi phạm hành chính. Trên thực tế, không ít những
trường hợp xem xét, quyết định áp dụng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
còn có sự chủ quan, áp đặt của chủ thể có thẩm quyền; việc xem xét thường
chủ yếu dựa vào hồ sơ, chứng cứ do cơ quan có thẩm quyền thu thập, xây
dựng. Tuy nhiên, trong trường hợp hồ sơ được xây dựng không đảm bảo tính
khách quan, công bằng, không có căn cứ pháp lý rõ ràng thì quyết định áp
dụng biện pháp của cơ quan có thẩm quyền (Tòa án) sẽ không đúng và xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Với nguyên tắc này, tính
dân chủ, bình đẳng trong mối quan hệ pháp luật giữa một bên là chủ thể nhân
danh Nhà nước, một bên là công dân có hành vi vi phạm. Trách nhiệm chứng
minh hành vi vi phạm thuộc về Nhà nước, tránh tình trạng các chủ thể có
thẩm quyền dùng quyền lực để áp đặt lên đối tượng.
1.2. Mục đích, ý nghĩa của biện pháp xử lý hành chính đƣa vào cơ
sở cai nghiện bắt buộc.
Các biện pháp xử lý hành chính có vai trò rất to lớn trong việc giáo dục,
cảm hóa, chữa bệnh và tạo điều kiện cho người vi phạm pháp luật trở thành

công dân lương thiện, có ích cho xã hội, góp phần ổn định an ninh, trật tự, an
toàn xã hội.
Biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có mục đích sau:
Thứ nhất, giáo dục tư tưởng người bị nghiện, chữa bệnh cho các đối
tượng để họ được lao động, học văn hóa trong cơ sở cai nghiện. Có thể nói
đây là mục đích quan trọng đầu tiên của biện pháp này; bắt nguồn từ tính nhân
đạo sâu sắc của pháp luật nước ta. Các đối tượng bị áp dụng biện pháp đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc sẽ được cai nghiện ma túy, được học văn hóa và
được giáo dục ý thức chấp hành pháp luật. Mục đích giáo dục còn ở chỗ cảm
hóa, giáo dục về đạo đức, tư tưởng, lối sống cũng như phục hồi sức khỏe tạo
điều kiện để họ trở thành công dân có ích và sớm tái hòa nhập cộng đồng.

12


Thứ hai, nhằm trừng phạt đối với người vi phạm; bản chất của biện pháp
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là hạn chế quyền tự do cá nhân của đối
tượng bị áp dụng trong một thời gian nhất định. Vì thế, chủ thể bị nghiện thỏa
mãn các điều kiện tại Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 thì họ phải gánh chịu
hậu quả bất lợi là hạn chế một phần quyền tự do và chịu sự quản lý, giám sát
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
Thứ ba, nhằm mục đích phòng ngừa khả năng tái phạm ở các đối tượng
bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Đối với mục đích
phòng ngừa, ở đây tác giả đề cập đến cả mục đích phòng ngừa chung và
phòng ngừa riêng. Khi áp dụng biện pháp trên sẽ cách ly người vi phạm ra
khỏi xã hội một thời gian, sẽ tác động tới ý thức của những chủ thể khác trong
xã hội, răn đe các chủ thể khác khi có ý định thực hiện hành vi vi phạm; mặt
khác, đối với đối tượng bị áp dụng sẽ hạn chế được việc họ tái phạm vì đã bị
cách ly ra khỏi xã hội một thời gian và được giáo dục về ý thức chấp hành
pháp luật.

1.3. Đối tƣợng, thời hiệu, thời hạn, thẩm quyền áp dụng biện pháp
xử lý hành chính đƣa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
1.3.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc.
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được
quy định cụ thể tại Điều 96 Luật năm 2012, Điều 3 Nghị định số
221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013. Như vậy, đối tượng áp dụng là người
nghiện ma túy thỏa mãn các điều kiện quy định. Theo đó, đối tượng áp dụng
biện pháp trên được phân thành hai nhóm sau:
Nhóm thứ nhất là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú
ổn định, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện
ma túy mà vẫn còn nghiện.

13


Nhóm thứ hai là người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên chưa bị áp
dụng biện pháp giáo dục tại phường, xã, thị trấn do nghiện ma túy nhưng
không có nơi cư trú ổn định.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định số 136/2016/NĐ-CP ngày 09/9/2016
thì đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được cụ
thể hóa hơn rất nhiều, nhằm tạo điều kiện cho quá trình áp dụng của cơ quan
có thẩm quyền, cụ thể như sau:
1. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định,
trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy hoặc trong thời hạn
01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.
2. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định, bị
chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma

túy.
3. Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn
định.
Theo quy định tại khoản 16 Điều 2 Luật XLVPHC năm 2012 thì người
nghiện ma túy được hiểu là “người sử dụng chất ma túy, thuốc gây
nghiện,thuốc hướng thần và bị lệ thuộc vào các chất này”; còn theo Tổ chức y
tế thế giới (WHO), nghiện ma túy là tình trạng lệ thuộc về mặt tâm thần hoặc
thể chất hoặc cả hai khi một người sử dụng ma túy lặp đi lặp lại theo chu kỳ
hoăch dùng kéo dài liên tục kéo dài một thứ ma túy. Tình trạng lệ thuộc này
làm thay đổi cách cư xử, bắt buộc đương sự luôn cảm thấy bức bách phải
dùng ma túy để thoát khỏi sự vật vã, khó chịu do thiếu ma túy [5, tr 537]; điều
này có nghĩa, nghiện ma túy là một bệnh lý. Người nghiện trong xã hội thuộc
nhiều thành phần và nhiều độ tuổi khác nhau; tuy nhiên, người nghiện ma túy
là đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc là những

14


người từ đủ 18 tuổi trở lên. Luật XLVPHC quy định thêm ngoài yếu tố về độ
tuổi phải dựa vào yếu tố đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn và có nơi cư trú ổn định; hoặc trường hợp chưa bị áp dụng biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn nhưng không có nơi cư trú ổn định. Theo quy định
tại Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 quy định chế độ áp dụng
biện pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc của Chính phủ thì “nơi cư
trú ổn định là nơi người vi phạm thường trú hoặc tạm trú, nhưng phải là nơi
người đó hiện đang thường xuyên sinh sống”. Nghị định 221/2013/NĐ-CP đã
xác định nơi cư trú ổn định phù hợp với Luật cư trú năm 2006, sửa đổi, bổ
sung năm 2013 là dựa vào hai tiêu chí: 1. Nơi đăng ký thường trú hoặc tạm trú
và 2. Nơi thường xuyên sinh sống. Như vậy, để được xem là có nơi cư trú ổn
định thì phải thỏa mãn cả hai điều kiện trên, nếu thiếu một trong hai thì được

xem như không có nơi cư trú ổn định dẫn đến việc có thể bị áp dụng biện
pháp XLHC đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc mặc dù chưa bị áp dụng biện
pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn.
Điều 96 Luật XLVPHC năm 2012 còn quy định những trường hợp không
áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đối với các trường hợp
sau đây:
Thứ nhất, người không có năng lực trách nhiệm hành chính;
Thứ hai, người đang mang thai có chứng nhận của bệnh viện;

Thứ ba, phụ nữ hoặc người duy nhất đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng
tuổi được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận.
Điều này thể hiện tính nhân văn và mục đích nhân đạo của pháp luật;
mặc dù, các đối tượng này không bị cách ly ra khỏi xã hội nhưng vẫn phải
chịu sự quản lý nghiêm ngặt của cơ quan có chức năng tại địa phương.
Ngoài ra, Điều 5 Nghị định 221/2013/NĐ-CP ngày 30/12/2013 của
Chính phủ quy định chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở
cai nghiện bắt buộc quy định các trường hợp không lập hồ sơ đề nghị áp dụng

15


biện pháp trên, ngoài các trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 96 Luật
XLVPHC năm 2012 thì còn có các trường hợp sau:
1. Người đang tham gia chương trình cai nghiện ma túy tại cộng đồng
theo quy định tại khoản 3 Điều 16 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày
19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành
Luật xử lý vi phạm hành chính.
2. Người đang tham gia điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện được quy
định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số 96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của
Chính phủ quy định về điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc

thay thế.
Nhà nước luôn khuyến khích người nghiện cai nghiện tại gia đình hoặc
cộng đồng vì nếu cai nghiện tại đây giúp người nghiện có cảm giác gần gũi,
thường xuyên được động viên được động viên, hỗ trợ kịp thời khi người
nghiện lên cơn, giúp người nghiện có nghị lực để vượt qua; hoặc các trường
hợp đang được điều trị nghiện chất dạng thuộc phiện. Chính vì vậy, pháp luật
quy định không lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện
bắt buộc đối với những đối tượng trên, nghĩa là không áp dụng biện pháp đối
với các đối tượng đã nêu. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp trên thực tế người
nghiện đã cai nghiện tại gia đình, cộng đồng nhưng vẫn còn nghiện, đối với
những trường hợp này các cơ quan có thẩm quyền vướng mắc, không biết xử
lý như thế nảo; vì thế, tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 136/2016/NĐ-CP ngày
09 tháng 9 năm 2016 đã bãi bỏ quy định tại Điều 5 của Nghị định
221/2013/NĐ-CP.
1.3.2. Thời hiệu, thời hạn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa
vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Thời hiệu, thời hạn là nội dung quan trọng trong pháp luật xử lý vi phạm
hành chính, là cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm công tác xử lý vi phạm hành
chính được tiến hành nhanh chóng, công minh, triệt để.

16


Với ý nghĩa đó, pháp luật xử lý vi phạm hành chính quy định về thời
hiệu, thời hạn của biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc như sau:
- Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thời hiệu là thời hạn do pháp luật quy định mà khi kết thúc thời hạn đó
chủ thể được miễn trừ thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm hành chính [1, tr 23].
Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc được quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 6 Luật XLVPHC năm 2012, theo đó, thời hiệu áp

dụng của biện pháp này là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối
hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 96 luật này. Tuy nhiên, trong luật
lại không giải thích rõ là hành vi vi phạm gì. Để làm rõ vấn đề này, Điều 4
Nghị định 221/2013/NĐ-CP quy định “Thời hiệu áp dụng biện pháp đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc là 03 tháng, kể từ ngày cá nhân thực hiện hành vi
sử dụng ma túy trái phép lần cuối bị phát hiện và lập biên bản theo quy định
tại Điều 8 của Nghị định này”. Mặc dù, Nghị định 221/2013/NĐ-CP đã quy
định rõ hành vi vi phạm là hành vi sử dụng ma tuý trái phép nhưng vẫn chưa
chỉ ra được mốc cuối cùng của thời điểm 03 tháng quy định trong thời hiệu là
lúc nào. Để khắc phục vấn đề này, khoản 1 Điều 9 Nghị quyết số
04/2015/NQ-HĐTP ngày 24/12/2015 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân
dân Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của pháp luật về xem xét,
quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân quy
định “ thời hiệu áp dụng biện pháp xử lý hành chính được tính từ ngày cá
nhân thực hiện hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 92 hoặc
kể từ ngày cá nhân thực hiện lần cuối một trong những hành vi vi phạm quy
định tại khoản 4 Điều 92; khoản 1 Điều 94 hoặc khoản 1 Điều 96 của Luật xử
lý vi phạm hành chính cho đến ngày Tòa án ra quyết định áp dụng biện pháp
xử lý hành chính”. Việc quy định thời hiệu ngắn nhằm tránh kéo dài thời gian
xử lý vi phạm dẫn đến không đảm bảo được tính răn đe, giáo dục.
- Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

17


Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến
một thời điểm khác [12, Điều 44]. Tại khoản 2 Điều 95 Luật XLVPHC năm
2012 quy định “Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc là 12 đến 24 tháng”; việc quy định thời hạn áp dụng như trên là hoàn
toàn hợp lý, mặc dù, thực tế nhiều năm áp dụng cho thấy hiệu quả mà nó

mang lại chưa cao, bởi lẽ, việc đưa các đối tượng vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội. Tuy nhiên, mục đích chữa bệnh,
giúp họ tái hòa nhập cộng đồng dễ hơn lại chưa đạt hiệu quả cao, tỷ lệ tái
nghiện sau khi đi cai nghiện còn cao, mặt khác, cơ sở vật chất, trang thiết bị
của các cơ sở cai nghiện còn hạn chế, chưa chú trọng đến các chương trình tái
hòa nhập cộng đồng nên áp dụng thời hạn trên là đủ sức răn đe, giáo dục các
đối tượng.
1.3.3. Thẩm quyền quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
Trong giai đoạn hội nhập và phát triển, việc quy định chế tài cho những
đối tượng có hành vi buôn bán, tàng trữ và những người nghiện ma túy được
cụ thể hóa rõ ràng. Việc phân định thẩm quyền xử lý của các cơ quan trong
quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc là một vấn đề hết sức quan trọng; các cơ quan có thực hiện đúng, đầy đủ
nhiệm vụ của mình trong một trình tự, thủ tục chung thì quyết định áp dụng
mới đúng quy định của pháp luật được. Thẩm quyền trong từng giai đoạn của
trự, thủ tục được cụ thể hóa như sau:
1.3.3.1. Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc
Thẩm quyền lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc được quy định tại Điều 103 Luật XLVPHC năm 2012, theo
đó, đối với người nghiện ma túy có nơi cư trú ổn định thì Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa

18


×