Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.29 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG THỤY
(QUA OXFORD THƯƠNG YÊU, CUNG ĐƯỜNG
VÀNG NẮNG, NHẮM MẮT THẤY PARIS)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÀNH VĂN HỌC


Thừa Thiên Huế, 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

LÊ THỊ MAI HƯƠNG

CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG THỤY
(QUA OXFORD THƯƠNG YÊU, CUNG ĐƯỜNG
VÀNG NẮNG, NHẮM MẮT THẤY PARIS)
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 8220120

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN THÀNH


Thừa Thiên Huế, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các tài lệu và kết
quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho phép sử
dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Học viên
Lê Thị Mai Hương

i


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô giáo Khoa Ngữ
văn, Phòng Đào tạo Sau đại học – Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế đã giảng
dạy và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo
PGS.TS Nguyễn Thành - người đã trực tiếp hướng dẫn, góp ý, giúp đỡ tận tình và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Bên cạnh đó, tôi xin trân trọng cảm ơn cô giáo TS.Võ Thị Ngọc Thuý và Sư Cô
Hiền Diệu – đã giúp đỡ, cung cấp những tài liệu quan trọng, đặc biệt là những người
luôn bên tôi cổ vũ - động viên và khích lệ tôi trong suốt thời gian học tập cũng như
nghiên cứu tại trường và hoàn thành tốt luận văn.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn và ghi nhận những đóng góp và giúp đỡ của các cán

bộ ở Phòng tư liệu khoa Ngữ văn, Thư viện Tổng hợp Quảng Bình và những người
thân yêu nhất đã tạo điều kiện thuận lợi giúp tôi trong quá trình nghiên cứu.
Huế, tháng 11 năm 2019
Tác giả
Lê Thị Mai Hương

ii


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN..................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN......................................................................................................ii
MỤC LỤC...........................................................................................................iii
A. MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề....................................................................................................1
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về tiểu thuyết Dương Thụy.....................1
2.2. Những công trình đề cập đến chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương
Thụy qua Oxford thương yêu, Cung đường vàng nắng, Nhắm mắt thấy Paris.........3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................6
3.1. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................6
3.2. Phạm vi nghiên cứu.........................................................................................7
4. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................7
5. Đóng góp của luận văn.......................................................................................8
6. Cấu trúc luận văn................................................................................................8
B. NỘI DUNG.......................................................................................................9
CHƯƠNG 1: TÌNH YÊU TRONG QUAN NIỆM CỦA PHÂN TÂM HỌC VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA DƯƠNG THỤY................9
1.1. Tình yêu trong quan niệm lý thuyết của phân tâm học.....................................9

1.1.1. Tình yêu trong quan niệm của S.Freud........................................................10
1.1.2. Tình yêu trong quan niệm của E.Fromm.....................................................12
1.2. Đề tài tình yêu trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại........................................15
1.2.1. Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.................................................15
1.2.2. Tình yêu trong tiểu thuyết Việt Nam sau năm 1975.....................................19
1.3. Hành trình sáng tạo nghệ thuật và quan niệm văn chương của Dương Thụy...23
1.3.1. Hành trình sáng tạo nghệ thuật của Dương Thụy.........................................23
1.3.2. Quan niệm văn chương của Dương Thụy....................................................24
CHƯƠNG 2: CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG
THỤY - NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG............................................29
iii


2.1. Ca ngợi tình yêu tự do và giá trị của tình dục.................................................29
2.1.1. Tình yêu và tiếng gọi con tim......................................................................29
2.1.2. Tình yêu và tình dục...................................................................................32
2.2. Ý thức bảo vệ tình yêu và hạnh phúc.............................................................39
2.2.1. Biến cố và sự ngăn trở................................................................................39
2.2.2. Vượt qua khó khăn......................................................................................43
2.2.3. Khát khao hạnh phúc..................................................................................49
CHƯƠNG 3: CHỦ ĐỀ TÌNH YÊU TRONG TIỂU THUYẾT CỦA DƯƠNG
THỤY NHÌN TỪ PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN.............................................59
3.1. Sự dung hợp thể loại......................................................................................59
3.1.1. Dung hợp tùy bút, bút ký............................................................................59
3.1.2. Dung hợp kịch và các loại hình nghệ thuật..................................................61
3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu.................................................................................64
3.2.1. Ngôn ngữ....................................................................................................64
3.2.1.1. Sử dụng khẩu ngữ và từ ngữ nghề nghiệp................................................64
3.2.1.2. Kết hợp ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ thi ca..........................................68
3.2.2. Giọng điệu..................................................................................................71

3.2.2.1. Giọng hài hước, dí dỏm............................................................................72
3.2.2.2. Giọng triết lý, chiêm nghiệm...................................................................74
3.3. Không gian và thời gian nghệ thuật................................................................78
3.3.1. Không gian nghệ thuật................................................................................78
3.3.1.1. Không gian bối cảnh................................................................................78
3.3.1.2. Không gian sự kiện..................................................................................85
3.3.2. Thời gian nghệ thuật...................................................................................89
3.3.2.1. Thời gian tuyến tính.................................................................................89
3.3.2.2. Thời gian tâm lí........................................................................................92
C. KẾT LUẬN....................................................................................................93
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................98

iv


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tình yêu là một đề tài muôn thuở của văn chương. Nhưng ở những thời kỳ lịch
sử khác nhau, tương ứng với những điều kiện văn hóa – xã hội, tư tưởng nhân sinh,
thẩm mỹ nhất định, các nhà văn có những quan niệm và cách thể hiện riêng về tình
yêu. Trong văn học dân gian Việt Nam, đề tài tình yêu được thể hiện khá phong phú
qua các câu ca dao, điệu hò, những câu hát trao duyên… Trong văn học trung đại, đề
tài này được đề cập khá dè dặt. Tình yêu thường được gắn với tình cảm vợ chồng, với
những khuôn mẫu của lễ giáo phong kiến. Đến thời hiện đại, với sự trỗi dậy của cái tôi
cá nhân, đề tài tình yêu được thể hiện mạnh mẽ, nồng nhiệt. Phong trào Thơ mới 1932
-1945 tạo bước đột phá cho đề tài tình yêu theo quan điểm hiện đại. Trong giai đoạn
kháng chiến chống Pháp, và sau đó là chống Mỹ, ở miền Bắc đề tài tình yêu và các đề
tài khác nhường chỗ cho đề tài chiến tranh, lao động sản xuất. Trong lúc đó ở miền
Nam, tình yêu trở thành một đề tài chính và thường được gắn với tính dục trong
những tiểu thuyết, truyện ngắn viết theo khuynh hướng hiện sinh. Từ đổi mới đến nay,

đề tài trong văn học không bị giới hạn, các nhà văn có thể chọn bất kỳ đề tài nào để
viết. Tình yêu không còn là đề tài trung tâm trong văn học đương đại, tuy nhiên, khi
nhà văn tiếp tục chọn tình yêu làm đề tài thì nó trở thành của hiếm, rất đáng trân trọng.
Dương Thụy là một trong ít những nhà văn đương đại theo đuổi đề tài tình yêu, và tất
nhiên, với một lối viết mới.
Cùng với Dương Thụy, một số tác phẩm khác như Dị bản của Keng (Đỗ Thị
Thùy Linh), Tuyết đen của Giao Chi, Chuyện tình New York của Hà Kin,… đã để lại
những dâú ấn sâu sắc cho độc giả với con số phát hành khiến nhiều người ghen tỵ. Đề
tài tình yêu không mất mà nó còn có vị trí quan trọng trong văn học hiện nay.
Với ý thức đánh giá những đóng gớp mới của Dương Thụy trong tiểu thuyết về
đề tài tình yêu, bước đầu gợi mở những vấn đề có tính lý luận về vị trí của đề tài này
trong lịch sử văn học hiện đại và đương đại, chúng tôi chọn đề tài “Chủ đề tình yêu
trong tiểu thuyết của Dương Thụy (qua Oxford thương yêu, Cung đường vàng nắng,
Nhắm mắt thấy Paris).
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về tiểu thuyết Dương Thụy
Có thể nói, ngay từ khi ra mắt bạn đọc, những đứa con tinh thần của chị đã thu
1


hút nhiều độc giả và cũng nhận được sự đánh giá tích cực từ phía độc giả, đồng nghiệp
và giới phê bình. Tuy nhiên, do là tác giả trẻ, vừa mới có vị thế trên văn đàn, nên công
trình nghiên cứu về tác phẩm của Dương Thụy còn khá thưa thớt. Cho đến nay đã có
một số bài trả lời phỏng vấn của các nhà văn, nhà báo với những nhận xét khá hay, thú
vị.
Nhà văn Phan Hồn Nhiên nhận xét khá tinh tế và sâu sắc về Dương Thụy cũng
như về tác phẩm của chị: “Dương Thụy giữ một thái độ sáng suốt, soi chiếu nhân vật
một cách công bằng và chẳng ngại ngần mà không nói thẳng tận cùng bản chất. Từ
một anh sếp Tây biết làm việc, biết hưởng thụ, biết cách tranh thủ tình cảm các nhân
viên Việt một cách láu lỉnh, cho đến cô gái trẻ lãng mạn, xao lòng nhưng luôn cố gắng

“bóp thắng” đúng lúc đều hiện ra rất chân thật. Ngay cả vấn đề chừng như khá nhạy
cảm là sex, Dương Thụy cũng có cách đề cập độc đáo: hài hước, không che đậy úp mở
và không tránh né. Đọc những truyện như thế, không những chẳng thấy rợn bởi sự
dung tục, người đọc còn được chia sẻ với Dương Thụy đôi mắt nhìn tươi tắn và trong
trẻo” [68]. Tác phẩm của Dương Thụy nói chung mà điển hình là Oxford thương yêu
đã làm nền chung cho hầu hết các tác phẩm của chị.
Trong bài trả lời phỏng vấn báo Phụ nữ online tháng 3 năm 2012 do Thanh
Phúc thực hiện, với nhan đề: “Nhà văn Dương Thụy – văn chương không phải để
đánh đố độc giả”, liên quan đến tiểu thuyết Cung đường vàng nắng, nhà văn đã chia
sẻ: “Thế mạnh của tôi là những năm tháng du học nước ngoài, tôi nghĩ bạn đọc rất
muốn biết về những khó khăn, trở ngại của một du học sinh cũng như những nỗ lực
của họ ra sao để đạt được kết quả tốt” [70]. Bài phỏng vấn của nhà báo Phong Điệp
với tác giả có nhan đề “Cây bút trẻ Dương Thụy - “Tôi viết hồn nhiên như tôi sống”,
nhà văn đã khẳng định: “Nhiều độc giả trách tôi hay viết truyện kết thúc có hậu,
nhưng tôi thích những kết thúc như thế vì tôi cho rằng cuộc sống vốn tốt đẹp nếu
chúng ta làm chủ được cuộc đời mình. Tôi không thay đổi nếu viết lại vì mạch truyện
đã tự nó tạo nên một kết thúc như thế” [60]. Những lời tâm sự của chính tác giả khi
nói về những tác phẩm của mình là những điều chính xác nhất về các tác phẩm ấy.
Dương Thụy đã cho người đọc biết những lợi thế, những cách suy nghĩ của mình trong
quá trình sáng tạo nên tác phẩm nghệ thuật.
Một tác phẩm thật sự có giá trị khi đã được tôi luyện dưới ngọn lửa của thời
gian. Qua thời gian, những lời nhận xét khen chê sẽ được trả lời rõ rệt. Tác phẩm
2


Dương Thụy có phải chỉ là một phút nhất thời huy hoàng hay không vẫn còn quá sớm
để khẳng định được. Văn chương dưới cảm nhận của từng người sẽ có những nhận xét
khác nhau. Các tác phẩm của Dương Thụy được khen khá nhiều mà bị chê cũng không
ít. Nhưng tác giả vẫn không nản chí, vẫn không ngừng viết cho dù “chỉ còn một người
đón đọc”. Đó mới chính là tinh thần của những nhà văn yêu văn chương và xem văn

chương như một niềm đam mê không thể chối bỏ. Những điều mà Dương Thụy chia sẻ
là vô cùng bổ ích cho chúng tôi khi nghiên cứu chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết
Dương Thụy qua các tiểu thuyết Nhắm mắt thấy Paris, Cung đường vàng nắng,
Oxford thương yêu.
2.2. Những công trình đề cập đến chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của
Dương Thụy qua Oxford thương yêu, Cung đường vàng nắng, Nhắm mắt thấy
Paris
Trong một bài viết của tác giả Nguyễn Thị Nam Hoàng với nhan đề “Tiểu
thuyết và những ngã đường của khát vọng trẻ (qua trường hợp Dương Thụy)” đăng
trên báo Văn nghệ trẻ với chủ điểm “Tiểu thuyết 10 năm đầu thế kỷ XXI” đã có những
nhận định khái quát về tác phẩm của Dương Thụy: “Nếu như Oxford thương yêu có
những đoạn người kể chuyện nói thay nhân vật quá nhiều khiến người đọc không khỏi
có cảm giác về sự lộ liễu của ý tưởng và sự giản đơn trong trần thuật, thì đến Nhắm
mắt thấy Paris, tác giả đã dụng công hơn rất nhiều trong kỹ năng tiểu thuyết. Tư thế
“biết tuốt” của người kể chuyện từ ngôi thứ ba đã bị phủ định, câu chuyện được tái
hiện từ nhiều điểm nhìn, nhiều giọng kể khác nhau. Đặc biệt, những dòng email của
các nhân vật được đặt cuối mỗi chương đã tạo ra hàng loạt các tấm gương phản chiếu
tâm lý để qua đó nhân vật hiện lên sinh động hơn, đa dạng hơn và cũng hấp dẫn hơn.
Diện mạo của cốn tiểu thuyết vì thế cũng mang một dáng vẻ hiện đại và để lại nhiều
dư vị” [61].
Một bài nghiên cứu khác về tiểu thuyết Oxford thương yêu với tiêu đề: “Đi tìm
sự lãng mạn đã từng bị lãng quên từ Oxford thương yêu”. Một lần nữa khẳng định:
“Oxford thương yêu đơn giản chỉ là tiểu thuyết tình yêu lãng mạn được thể hiện bằng
bút pháp trong trẻo, dễ thương” [69]. Đúng thực như thế, chuyện tình yêu của cô sinh
viên du học, Thiên Kim với chàng trai Bồ Đào Nha, Fernando Carvalho mới nghe qua
tưởng chừng không có gì để nói. Tuy nhiên, bằng ngòi bút chắc, khỏe, pha chút hồn
nhiên , Dương Thụy đã xây dựng được nhiều tình huống vô cùng hấp dẫn, sinh động,
3



lôi cuốn,… và qua đó đã mang độc giả đến với bao cảm xúc mới mẻ trong tình yêu.
Bên cạnh đó, bài viết còn nói lên nhiều thứ mà cuốn tiểu thuyết này đã khiến nhiều
người tìm đọc như: “Người đọc đủ tỉnh táo để hiểu rằng Oxford thương yêu đang dẫn
dắt người đọc vào một thế giới nhiều mộng mơ, hoàn mỹ và khó xảy ra trong thực tế”
hay “bị thu hút bởi không gian, chi tiết, văn phong lãng mạn, trẻ trung của tác phẩm”
[69]. Những ai khi đã đọc xong tiểu thuyết Oxford thương yêu đều có được những cảm
giác này. Cái đẹp của Oxford được nhắc đến trong tác phẩm, vẻ đẹp của xứ sở sương
mù mang đến nó vẫn còn âm vang mãi trong lòng độc giả. Hay sự cổ kính của thành
phố Lisbon, đất nước Bồ Đào Nha luôn ám ảnh người đọc, họ luôn mong muốn một
lần được đặt chân đến đất nước có nhiều viện bảo tàng này. Hay một New York sôi
động đầy lôi cuốn. Không dừng lại ở đó, người đọc còn cảm nhận từ Oxford thương
yêu “sự tỉnh táo, tinh thần cầu thị, cởi mở và niềm đam mê đi khắp thế giới của giới
trẻ ngày nay”.
Tác giả Ánh Hường cũng đã ghi nhận và đánh giá cao lối viết của Dương Thụy
cụ thể như sau: “Cái hay của nhà văn trẻ Dương Thụy chính là cách viết nhẹ nhàng
nhưng hài hước, đối đáp thông minh, khiến người đọc không phải chỉ đọc tò mò, mà
hào hứng theo từng tình tiết của một cô gái Việt vừa thông minh vừa nhỏng nhẻo với
một anh chàng siêng năng, giỏi giang và hết sức tinh tế. Tình yêu không phân biệt
chủng tộc, đó cũng là sự nhận xét khác biệt của người trẻ với các bậc cha mẹ. Nhưng
đó không hoàn toàn là khó khăn để vượt qua khi mà cả hai con tim đều không thể rời
xa nhau” [62]. Đúng như Ánh Hường đã nhận định, tình yêu là một cái gì đó thiêng
kiêng mà chúng ta khó có thể cắt nghãi được. Dù biết chuyện tình mình sẽ gặp không
ít rào cản nhưng Thiên Kim và Fernando Carvalho đều không bỏ cuộc, họ không cho
đó là khó khăn, trở ngại mà chỉ xem đó như là thử thách của tình yêu mà hai người cần
phải cùng nhau vượt qua để có một kết thúc có hậu. Tình yêu, hôn nhân và gia đình là
việc trọng đại của đời người. Cuộc sống sau hôn nhân của Kim cũng là những ước mơ
của rất nhiều người. Tình yêu thật sự nó sẽ vượt qua tất cả để mang con người đến với
nhau, đưa họ đến với những bến bờ hạnh phúc.
Bên cạnh đó, Nguyễn Đông Thức cũng quan tâm nội dung tiểu thuyết Oxford
thương yêu của Dương Thụy. Trong bài “Dương Thụy và … một chuyện tình hiếm

hoi”, ông đánh giá đó là chuyện tình của một cô gái du học sinh Việt Nam tên Thiên
Kim với người ngoại quốc, anh chàng Bồ Đào Nha tên Fernando Carvalho. Tình yêu
4


của hai nhân vật trong quyển tiểu thuyết này không có gì là lạ lẫm nhưng chính rào cản
về định kiến đã khiến họ có những giây phút hồi hộp, lo âu,… Bên cạnh đó, họ cũng
gặp không ít những trắc trở để có thể đến được với nhau. Tác giả cho rằng đây là một
chuyện tình hiếm hoi, hiếm hoi là bởi vì cuộc tình này mang đến nhiều cách nhìn nhận
khác nhau từ họ. Hai người ở hai nơi hoàn toàn khác nhau, thế mà tình yêu đã kéo họ
về bên nhau, họ đã san lấp hết tất cả những rào cản, định kiến, ngôn ngữ, phong tục tập
quán, vị trí địa lý,… để xây dựng nên một tình yêu đẹp, một hạnh phúc vĩnh cữu.
“Chuyện tình xảy ra ở xứ sở sương mù này đầy chất sống động và ướt át, đặc biệt là
đầy nữ tính…” [77].
Trên Hotdeal tiểu thuyết Cung đường vàng nắng được tác giả bài báo ghi nhận
những xác cảm lãng mạn trong tác phẩm của nhà văn Dương Thụy: Nếu như “Oxford
thương yêu” là câu chuyện tình yêu ngọt ngào giữa Kim và Fernando, “Nhắm mắt
thấy Paris” là câu chuyện về tình yêu, cuộc sống, tham vọng của những con người trẻ
tuổi như Quỳnh Mai, Tuyết Hường, Louis, Daniel thì “Cung đường vàng nắng” lại là
những suy tư rất hiện đại về sự lựa chọn trong cuộc sống của cô gái tên Phương Vy.
Và mỗi câu chuyện lại đưa người ta đến một miền đất hứa, khi thì London cổ kính, lúc
thì Paris tráng lệ, khi lại Bruxelles xinh đẹp, trẻ trung” [69]. Tác phẩm sẽ đưa đến cho
bạn cảm giác vừa quen, vừa lạ. Quen vì những nhân vật của Dương Thụy luôn có điểm
chung đâu đó, vì cái cách tác giả kể chuyện, về kết cấu, lối viết của tác phẩm. Còn lạ
vì truyện của cô luôn có sức hút riêng, dẫu chỉ là nhan đề, là cách mở đầu hay những
suy nghĩ, chiêm nghiệm rút ra từ tác phẩm.
Còn nhà báo Hồng Ngọc sau khi đọc tác phẩm Cung đường vàng nắng có chia
sẽ: “Truyện của Dương Thụy đang ăn khách trên các tiệm sách ở Việt Nam có lẽ nhờ
viết về những chuyện tình có yếu tố nước ngoài của những thành phần có “chữ
nghĩa”, riêng “Cung đường vàng nắng” còn chia sẻ kinh nghiệm của một du học sinh

sau đại học, của một người làm việc trong một thời gian rồi mới đi học để có kiến thức
từ doanh nghiệp rồi quay lại giảng đường…” [67]. Cũng theo tác giả thì “Truyện của
Dương Thụy viết bằng một giọng văn tự nhiên, tưng tửng, từ lối kể chuyện đến ngôn
ngữ đối thoại của nhân vật, giúp người đọc tiếp thu dễ dàng, thích thú và tránh làm
đầu óc độc giả bận rộn để có thể cùng chia sẻ với tác giả những quan niệm sống,
những nhìn nhận về sự kiện, về con người” [67]. Nhìn chung các bài viết đều chỉ ra sự
thành công của Dương Thụy ở thể loại tiểu thuyết mặc dù chị vẫn viết về một đề tài
5


quen thuộc, đề tài sở trường của chị: cuộc sống của du học sinh Việt Nam ở nước
ngoài. Một vài yếu tố khiến cho tác phẩm của chị quen mà vẫn lạ chính là cách mở
đầu, cách đặt nhan đề truyện, nhan đề cho từng chương truyện… Đây cũng là điều làm
nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Bên cạnh những cảm nhận, đánh giá tích cực về tác phẩm của Dương Thụy thì
cũng có nhận xét khắt khe, đòi hỏi cao về những tiểu thuyết tình cảm của nhà văn trẻ.
Tiêu biểu là bài viết của Bùi Công Thuấn (trên trang Phongdiep.net). Trong bài, ông
không đánh giá cao về nghệ thuật tổ chức cốt truyện và kể cả những đoạn viết về tình
yêu của cô gái Việt với người đàn ông ngoại quốc trong Nhắm mắt thấy Paris: “Trước
hết, cách kể chuyện không mới nếu không nói là cấu trúc truyện khá đơn giản. Mạch
thời gian và những bước thăng tiến của Mai là mạch chính. Không có các mạch phụ,
không có nhiều tuyến đan xen nhau. Việc khai thác scandal tình dục như là cốt lõi của
truyện cũng không có gì mới. Louis vì tình dục mà bị đuổi việc. Lafatoine vì tình dục
mà thân bại danh liệt. Mai cũng vì tình dục mà mất đời con gái và bị tổn thương trầm
trọng. Điều đáng nói là tác giả đã cổ vũ thái quá cho tự do tình dục và lối sống thực
dụng phương Tây (đậm đặc ở chương 14,15) và nhất là ở nhân vật Pink lady (chương
16). Điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ với người đọc trẻ Việt Nam” [72]. Hàng loạt
các lỹ lẽ đưa ra với cái nhìn của một nhà phê bình như vậy có chính xác hay không?
Tác phẩm Nhắm mắt thấy Paris có thất sự là một tác phẩm thất bại hay không? Bài
phê bình quả rất bổ ích cho ta có cách đánh giá chính xác nhất sau khi nghiên cứu về

tác phẩm này để tìm ra được cái hay cái dở trong quyển tiểu thuyết của nhà văn Dương
Thụy.
Nhìn chung, đã có khá nhiều cảm nhận, đánh giá bước đầu về các tiểu thuyết
tiêu biểu về đề tài tình yêu của Dương Thụy từ cả hai góc độ nội dung và hình thức thể
hiện. Tuy nhiên, do khuôn khổ những bài báo ngắn hoặc trả lời phỏng vấn báo chí,
những bài viết trên chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính hoặc tổng quát. Vẫn chưa có những
nghiên cứu chuyên sâu về tiểu thuyết của Dương Thụy. Luận văn của người viết sẽ
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về “Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương
Thụy qua Oxford thương yêu, Cung đường vàng nắng, Nhắm mắt thấy Paris”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn khảo sát ba tiểu thuyết: Oxford thương yêu, Cung đường vàng
6


nắng, Nhắm mắt thấy Paris là ba tiểu thuyết tiêu biểu về chủ đề tình yêu của nhà văn
Dương Thụy. Qua việc khảo sát ba tác phẩm này, người viết tập trung nghiên cứu,
phân tích, đánh giá về các chủ đề về tình yêu theo quan niệm của nhà văn và việc thể
hiện các chủ đề đó.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên nền tảng lý thuyết thi pháp học và qua ba cuốn tiểu thuyết Oxford thương
yêu, Cung đường vàng nắng, Nhắm mắt thấy Paris, chúng tôi tập trung nghiên cứu cả
hai bình diện nội dung lẫn phương thức thể hiện.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, người viết vận dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp cấu trúc, hệ thống: người viết chú trọng sử dụng phương pháp
cấu trúc - hệ thống như là một phương pháp quan trọng để hỗ trợ tổng hợp những chủ
đề tình yêu rõ nhất trong tiểu thuyết của Dương Thụy. Khi tiến hành cấu trúc các bình
diện nghiên cứu, người viết sử dụng phương pháp hệ thống để đảm bảo tính mạch lạc
và logic. Mặt khác, người viết còn đặt các dữ liệu vào một hệ thống cùng tiêu chí để

chứng minh và làm rõ các luận điểm.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Để làm sáng tỏ đặc điểm thi pháp và phong
cách của tiểu thuyết Dương Thụy, chúng tôi tiến hành so sánh chủ đề tình yêu trong
tiểu thuyết của Dương Thụy qua ba tác phẩm được chọn làm đối tượng khảo sát và
nghiên cứu với các tiểu thuyết khác của Dương Thụy và các tác phẩm cùng chủ đề của
các nhà văn khác cùng thời và trước đó.
- Phương pháp thống kê, phân tích: thống kê các yếu tố nổi bật nhằm hỗ trợ
việc chứng minh các luận điểm. Phân tích để thấy được được đặc điểm nghệ thuật đặc
sắc trong tiểu thuyết của Dương Thụy, từ đó rút ra những nhận định khái quát, kết luận
vấn đề.
- Phương pháp tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp học: Cơ sở lý thuyết
của luận văn là thi pháp học hiện đại. Luận văn tiếp cận tác phẩm theo hướng thi pháp
học giúp thâm nhập vào cấu trúc chỉnh thể nghệ thuật của tiểu thuyết Dương Thụy,
giải mã cụ thể các kí hiệu nghệ thuật của văn bản, làm cơ sở để đưa ra các đánh giá,
kết luận liên quan đến đối tượng nghiên cứu.

7


- Ngoài ra, người viết còn sử dụng các phương pháp, thao tác nghiên cứu như
phương pháp loại hình và các kiến thức liên ngành như văn hóa học, tâm lý học, phân
tâm học để phân tích, lý giải những vấn đề đặt ra từ đối tượng khảo sát.
5. Đóng góp của luận văn
Thông qua việc nghiên cứu đề tài: “Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của
Dương Thụy” (qua Oxford thương yêu, Cung đường vàng nắng, Nhắm mắt thấy
Paris), luận văn có những đóng góp chủ yếu sau đây:
- Cung cấp cái nhìn tương đối toàn diện về hành trình sáng tạo nghệ thuật của
Dương Thụy, ghi nhận một cách khách quan và chính xác về chủ đề tình yêu trong tiểu
thuyết của Dương Thụy nói riêng và trong nền văn học Việt Nam nói chung.
- Nghiên cứu chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy cũng là một

cách nghiên cứu toàn vẹn những giá trị nội dung và hình thức nghệ thuật trong tác
phẩm của nhà văn. Qua đó, khẳng định được vị trí, đóng góp của nhà văn Dương Thụy
trong nền văn học đương đại Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn
được triển khai theo 3 chương như sau:
Chương 1: Tình yêu trong quan niệm của phân tâm học và hành trình sáng tạo
nghệ thuật của Dương Thụy.
Chương 2: Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy – nhìn từ phương
diện nội dung.
Chương 3: Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy – nhìn từ phương
thức thể hiện.

8


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TÌNH YÊU TRONG QUAN NIỆM CỦA PHÂN TÂM HỌC VÀ
HÀNH TRÌNH SÁNG TẠO NGHỆ THUẬT CỦA DƯƠNG THỤY
1.1. Tình yêu trong quan niệm lý thuyết của phân tâm học
Theo Bách khoa toàn thư, Phân tâm học là tập hợp những lý thuyết và phương
pháp tâm lý học có mục đích tìm hiểu những mối quan hệ vô thức của con người qua
tiến trình liên tưởng. Cũng theo giới nghiên cứu, thuật ngữ “phân tâm học” do
Sigmund Freud - một bác sĩ người Áo đặt ra vào năm 1896. Phân tâm học chuyên sâu
nghiên cứu về con người. Phân tâm học chia bản năng con người ra làm ba phần bao
gồm: cái ấy, cái tôi và cái siêu tôi. Theo Freud thì tâm lý con người xét về mặt cấu trúc
gồm có:
Cái ấy (Id) là tất cả những gì mà chúng ta mang theo khi ra đời, tất cả những gì
được quy định về mặt cấu tạo và vì vậy đó là những xung lực phát ra từ thể chất và tìm
thấy ở “cái ấy” phương thức biểu hiện tâm thần đầu tiên, dưới những hình thức mà

con người chưa biết được. Cái tôi (Ego) với Freud là nói đến trong quá trình phát triển
của cá thể do sự va chạm liên tục với thế giới bên ngoài, một phần của “cái ấy” trải
qua một sự biến đổi mạnh mẽ nhằm thích nghi với thế giới bên ngoài mà Freud gọi là
“cái tôi”. Cái siêu tôi (Superego), theo quan niệm của Freud vì cá nhân sống trong
cộng đồng nên buộc phải dồn nén nhiều xung năng mà “cái ấy” muốn thực hiện và
“cái tôi” ngăn cản.
Bộ máy tâm thần như vậy theo cách nhìn của Freud thì nó luôn gắn chặt chẽ với
vô thức. Cả “cái ấy” và “cái siêu tôi” đều có một điểm chung, đó là nằm ngoài tầm
kiểm soát của “cái tôi” và xét về bản chất thì “cái ấy” mang tính di truyền còn “cái
siêu tôi” thể hiện vai trò của người khác. Và “cái tôi” xét cho cùng cũng chỉ là sản
phẩm lâu dài của sự đấu tranh để chế ngự “cái ấy” vô thức và chịu sự chi phối của
“cái siêu tôi”.
Như các học thuyết khác, phân tâm học có mặt tích cực nhưng cũng có những
hạn chế cần bổ khuyết. Song sự xuất hiện của phân tâm học cũng đã đóng góp phần
giải quyết nhiều vấn đề của đời sống xã hội, trong đó có tâm lý sáng tạo văn học và
khoa học nghiên cứu văn học. Có thể nói việc ứng dụng phân tâm học vào phê bình
văn học là cánh cửa mở ra những chân trời mới cho phê bình văn học. Những kiến giải

9


của phân tâm học giúp con người am hiểu hơn về tâm lý con người trong đó có tâm lý
tình yêu.
1.1.1. Tình yêu trong quan niệm của S.Freud
S.Freud (1856 - 1939), người Áo gốc Do Thái, một nhà tâm lý học xuất chúng.
Ông đã từng nói rằng: “Các nhà thơ và các nhà tiểu thuyết là những đồng minh quý
báu của chúng ta và các bằng chứng của họ phải được đánh giá thật cao, bởi lẽ giữa
lưng chừng thinh không họ biết được nhiều điều mà túi khôn học đường của chúng ta
còn chưa dám mơ tới. Về kiến thức tâm lý, họ là bậc thầy của chúng ta và những kẻ
tầm thường, bởi họ đã đắm mình trong những mạch nguồn nơi chúng ta còn chưa đưa

khoa học lại gần được” [20, tr.127]. Freud đã buộc con người phải thừa nhận rằng
hành tinh nhỏ bé của nó không còn là trung tâm của thế giới nữa, bản thân Freud đã
chứng minh rằng: “cái tôi không phải là chủ nhân trong chính ngôi nhà của nó” [20,
tr.146]. Sức mạnh của những xung năng khoái lạc trong ta lớn đến mức ta không thể
tính đến chuyện thuần hóa chúng hoàn toàn và chẳng hơn gì ý chí, trí năng của ta cũng
không giữ vai trò thống trị, bởi vì một bộ phận đáng kể những hoạt động tinh thần của
con người thoát khỏi sự canh chừng của ý thức.
Freud đã gây chấn động không nhỏ trong giới nghiên cứu khi quy toàn bộ hành
động, tâm lý người vào vấn đề tính dục. Ông đã từng viết cuốn Ba tiểu luận về lý
thuyết tính dục nổi tiếng. Trong tiểu luận này, Freud đã xây dựng những cơ sở cho lý
thuyết về chứng nhiễu tâm, về sự dồn nén cũng như “nguồn năng lượng xúc cảm nằm
bên dưới những vận động và những ứng xử có ý thức và vô thức, mà Freud gọi năng
lượng ấy là libido” [21, tr.122]. Đồng thời, Ba tiểu luận về lý thuyết tính dục lần lượt
bàn về lệch lạc tính dục, tính dục trẻ con, về biến đổi tuổi dậy thì. Từ khám phá về vô
thức, về giấc mơ, Freud cho rằng giấc mơ có ẩn ức về tính dục. Tính dục chính là
nguyên nhân gây nên những hành vi, xung đột trong tâm lý người.
Ông đã phân ra ba cấp độ hoạt động tinh thần của con người: tự ngã (Id, soi), bản
ngã (ego) và siêu ngã (superego). Trong đó, Freud cho rằng Id là quan trọng nhất.
“Phạm vi của Id là phần nhân cách tối tăm và không thể đi đến được của chúng ta.
Bản thân ta chỉ biết chút ít về cái Id qua nghiên cứu các giấc mộng và qua sự biểu
hiện các triệu chứng bên ngoài của bệnh tâm thần. Id là nơi trú ngụ các bản năng
nguyên thủy và các xúc cảm đi ngược lên tới cái quá khứ xa xưa khi mà con người còn
là một con thú. Id có tính chất như vậy và bản chất của nó thuộc về tính dục (sexual in
10


nature), nó vốn vô thức” [20, tr.10]. Theo Freud, Id vốn mù quáng, mục đích của nó là
thỏa mãn các ham muốn bản năng và khoái cảm, thậm chí không cần biết đến những
giá trị, chuẩn mực hay đạo đức... lý thuyết về tính dục là một khái niệm được ghép
chung với Id, được Freud gọi tên. “Tất cả những xúc cảm của Id đều là hình thức thể

hiện của “năng lượng tính dục” [20, tr.11].
Thuyết tình dục được xem như cái lõi của phân tâm học. Phân tâm học phân tích
trạng thái tinh thần của sự khát thèm tính dục, cũng như sự ảnh hưởng của trạng thái
tinh thần. Đời sống tính dục là một nhu cầu tự nhiên tất yếu của con người nên bất kỳ
sự dồn nén tính dục cũng như sự khao khát giải tỏa dồn nén cũng dẫn đến sự rối loạn
trong tâm lý người. Là một bác sỹ tâm thần, Freud cũng đã nhận thấy rằng sự rối loạn
đời sống sinh lý của con người là nguyên nhân gây ra bệnh tâm thần, hành vi sai lạc,
sự khủng hoảng tinh thần cũng như chất xúc tác của nguồn sáng tạo vĩ đại. Khái niệm
bản năng tính dục của Freud là một khái niệm rộng, không chỉ dừng lại ở việc con
người tìm sự kích thích của bộ máy sinh dục để sinh ra khoái lạc mà còn chỉ hoạt động
của các bộ máy khác trên cơ thể. “Ông cho rằng, sự phát triển tính dục của cá thể trải
qua các thời kỳ khác nhau, có tác dụng khác nhau trong phát triển nhân cách” [35,
tr.239]. Freud đã nâng bản năng tính dục thành nguồn gốc của mọi công trình sáng tạo
vĩ đại, thậm chí mọi sáng tạo văn hóa của con người từ nghệ thuật, luật pháp hay tôn
giáo... đều liên quan đến phát triển của tính dục. Sự thăng hoa trong cảm xúc là chất
xúc tác để tạo nên những hưng phấn sáng tạo đặc biệt. Bản năng tính dục có ảnh
hưởng đến quá trình hình thành nhân cách con người, ảnh hưởng đến những hành vi,
cách sống của con người. Có thể thấy, thuyết tính dục là một phát hiện có phần táo bạo
của Freud trong việc nghiên cứu về con người. Freud luôn bảo vệ quan niệm về thuyết
tính dục của mình. Điều này vấp phải sự bất đồng ý kiến của một số người, trong đó có
nhiều vấn đề quan trọng hơn nhiều. “Ở bất cứ nơi đâu, trong một con người hay trong
một tác phẩm nghệ thuật, một sự biểu hiện của tinh thần (theo nghĩa trí tuệ, không
theo nghĩa siêu nhiên) xuất hiện, ông nghi ngờ chúng và ám chỉ rằng đó là bản năng
tính dục bị dồn nén. Bất kỳ cái gì không thể được diễn giải trực tiếp như là bản năng
tính dục ông đều nói tới nó như là tâm lý tình dục” [9, tr.40]. Jung cho rằng bản thân
mình không phủ nhận tầm quan trọng của tính dục trong đời sống tinh thần con người,
nhưng ông muốn đặt nó vào đúng vị trí của nó. Có lẽ, chính những quan niệm khác
nhau về tâm lý học mà về sau, Freud và Jung đã không thể cùng bước chung trên một
11



con đường. Hai người đã theo hai ngã rẽ khác nhau. Freud quan tâm nhiều hơn vấn đề
về con người, về nhiễu tâm, về dồn nén, về bí mật của nhân cách tâm lý,... điều này có
sự chi phối không nhỏ của vấn đề tính dục, còn Jung thì lại nghiên cứu vấn đề về tâm
thức xã hội, cộng đồng. Nhưng dù thế nào, khi nói đến phân tâm học, người ta vẫn lập
tức nghĩ nhiều về vấn đề tính dục như một vấn đề không thể không nhắc đến.
S. Freud cũng đưa ra quan niệm về tình yêu. Ông cho rằng toàn bộ những tình
cảm và những trải nghiệm của tình yêu chẳng qua là thượng tầng tâm lý mà hạ tầng
của nó là ham muốn tình dục (libido). Trong cuốn Tâm lý học quần chúng và sự phân
tích cái tôi ông viết: “hạt nhân của cái mà ta gọi là tình yêu, đó là tình yêu tính dục,
có mục đích là hai giới gần nhau. Tình yêu là cơ sở cho cả những tình cảm là phi tính
dục - tình yêu bản thân, tình yêu cha mẹ và con cái, tình bạn, lòng nhân ái nói chung.
Tất cả những tình cảm đó theo S.Freud là sự thể hiện của cùng nhu cầu bản năng. Đi
theo quan điểm này, S.Freud đã coi thường, phủ nhận bản chất xã hội - lịch sử của
tình yêu trai gái” [20, tr.4].
Tóm lại, phân tâm học luôn quan tâm đến những vấn đề thuộc về sâu kín trong
vô thức của con người, để tìm ra dồn nén, phức cảm và cội nguồn của dồn nén. Một
trong những vấn đề có tính chất khám phá của phân tâm học là vấn đề tính dục, ẩn ức
và phức cảm. Sự giày vò của bản thân con người cũng từ đấy mà ra. Nếu giả thiết giữa
cuộc đời này, không tồn tại lo âu, sợ hãi, con người không phải đối diện với quá trình
dằn vặt chính mình trong sự đòi hỏi, bứt phá và thỏa mãn thì có lẽ sẽ không tồn tại khổ
đau và bi kịch. Bóc trần cốt lõi những vấn đề cơ bản của con người, các nhà phân tâm
học đã chạm được vào cõi thẳm sâu mà ngay chính con người nhiều khi vẫn chưa hiểu
hết về mình.
1.1.2. Tình yêu trong quan niệm của E.Fromm
Erich Fromm sinh vào 23 tháng 3 năm 1900 tại Frankfurt am Main (tên đầy đủ là
Frankfurt on the Main), là con một trong gia đình Do Thái chính thống.
Erich Fromm được coi như một trong những nhà phân tâm học lớn nhất thế kỷ
XX, là một trong những người sáng lập Tân phái Freud với những luận điểm phê phán
một số lý thuyết của Freud. Ông phê phán quan điểm của Freud về mặc cảm Oedipe,

về bản năng sống và bản năng chết (bản năng hủy hoại) và cả quan điểm về libido (dục
năng) vì tin rằng xã hội và văn hóa cũng đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát
triển nhân cách. Ông cho rằng cuộc sống tự nó đã hàm chứa mâu thuẫn vì con người
12


vừa là một phần của tự nhiên, vừa tách biệt với tự nhiên và từ mâu thuẫn này đã phát
sinh những nhu cầu thiết yếu như nhu cầu sáng tạo, nhu cầu định ra khuôn khổ phát
triển, nhu cầu nhận dạng cá tính và định hướng. Ông đã giải thích quan điểm của
mình: “Tôi muốn hiểu rõ những quy luật chi phối cuộc sống của mỗi cá nhân và
những quy luật chi phối đời sống xã hội. Tôi cố gắng chứng minh rằng những khái
niệm của Freud cần phải được xem xét lại và tôi cũng làm điều tương tự với chủ nghĩa
Marx và cuối cùng đạt tới một sự tổng hợp xuất phát từ việc tìm hiểu và phê phán
những lý thuyết của hai nhà tư tưởng này” [22, tr.6].
Trong The Art of Loving in vào năm 1956, Erich Fromm đã triển khai quan điểm
về bản tính con người từng được ông trình bày trong những tác phẩm trước đó như
Escape from freedom và Man for himself, coi tình yêu như một kỹ năng mà con người
có thể học và phát triển. Ông phủ nhận quan điểm coi tình yêu như một cái gì mầu
nhiệm và kỳ bí không thể phân tích được hay không thể lý giải được nên rất nghi ngờ
điều mà người ta thường gọi là “phải lòng” (fall in love) hay tình trạng bất lực khi đối
mặt với tình yêu. Từ trong bản chất, con người đã trở nên xa lạ với người khác và xa lạ
với tự nhiên nên luôn cố gắng vượt qua tình trạng biệt lập, khắc phục cảm giác cô đơn
bằng một tình yêu lãng mạn hay bằng một cuộc hôn nhân. Tuy nhiên ông nhấn mạnh
rằng tình yêu đích thực không phải là điều có thể tìm thấy ở tất cả mọi người: chỉ khi
nào phát triển nhân cách và khả năng yêu thương đồng loại với “sự khiêm cung thật
sự, sự dũng cảm, niềm tin và kỷ luật”, người ta mới có được khả năng trải nghiệm một
tình yêu đích thực. Trải nghiệm này là một điều thật sự hiếm hoi. Từ đó, ông khẳng
định rằng tình yêu đích thực bao gồm bốn yếu tố căn bản là sự chăm lo, trách nhiệm,
sự tôn trọng và sự hiểu biết. Mỗi yếu tố này rất khó xác định và có thể rất khác tuỳ
theo tâm tính và hoàn cảnh của mỗi người. Nói như vậy có nghĩa là tình yêu là một

việc gian nan nhưng cũng là việc mang lại phần thưởng quý giá nhất: “Con người [...]
chịu đựng nổi [...]. Tình yêu giúp con người vượt qua cảm giác lẻ loi và tình trạng biệt
lập, nhưng khác với sự hợp nhất bằng việc cộng sinh, tình yêu đích thực là sự hợp
nhất trong đó người ta vẫn giữ vẹn tính cách và cá tính của mình. Tình yêu là một
năng lực mạnh mẽ có thể phá đổ những bức tường ngăn cách chúng ta với những
người khác, giúp chúng ta hợp nhất với họ, vượt qua được tình trạng biệt lập, khắc
phục cảm giác cô đơn để trở thành chính mình. Trong tình yêu, có điều nghịch lý là
hai người là một và là một nhưng vẫn là hai…” [22, tr.7-17].
13


Fromm là một nhà Phân tâm học có tư tưởng triết lý, ông nhấn mạnh vào những
tiềm năng của con người bị dồn nén. Như vậy, điểm chính yếu của phương pháp trị
bệnh bằng Phân tâm học là tìm ra cái gì là chân thực của người bệnh. Nhưng với xã
hội thì ý thức về sự tự do luôn luôn làm cho con người cảm nhận sự bất an trong tâm
lý. Đây là nội dung mà Fromm trình bày trong tác phẩm“Thoát khỏi sự tự do” (Escape
from Freedom) và phương pháp trị liệu của Fromm là “tâm hóa chủ nghĩa nhân đạo”
[20, tr.32]. Ông đã góp phần đề cao giá trị của sự tự do và tình yêu góp phần hình
thành nhân cách con người. Fromm cho rằng: “Tình yêu của người mẹ là yên bình. Nó
không cần bạn phải đạt được, nó không cần bạn phải xứng đáng” [20, tr.66]. Đối với
Fromm, hiện hữu con người thường gắn liền với “sự chia cắt” và cuộc đời con người
là một chuỗi những chia ly. Khái niệm tự do là yếu tố nền tảng để ông xây dựng lý
thuyết về tâm lý xã hội và tìm hiểu nhân cách con người sinh trưởng trong môi trường
gia đình và xã hội đó. Ông cũng là người đề cao giá trị của tình yêu và tự do trong việc
hình thành nhân cách của con người.
E.Fromm cho rằng: “Tình yêu, đó là cách hiểu thế giới một cách đặc thù trong
lĩnh tư duy. Ở bình diện hành động, tình yêu được biểu hiện dưới dạng sáng tạo và sự
tự thể hiện, ở bình diện tình cảm, là cảm giác hợp nhất với người khác và thế giới”. [9,
tr. 287]. E.Fromm lấy các mối quan hệ nảy sinh giữa cha mẹ và con cái, sự gắn bó vô
tư làm chuẩn mực cho tình yêu. Theo ông chỉ trong tình yêu con người mới có thể bộc

lộ hết chiều sâu của bản thân mình. Tình yêu là tình cảm thiêng liêng và cao thượng,
khi yêu con người có thể hy sinh cá nhân cho người mình yêu dù dôi lúc kết quả thu
lại chỉ là những trái đắng. Nhà tâm lý học người Đan Mạch Kierkeraard lại cho rằng:
“tình yêu là một tổng hợp tâm lý nhạy cảm” [58, tr.86], nó là sự liên kết tâm lý thể
chất thực sự đặc biệt. Song trong tình yêu tính chất tâm lý bao giờ cũng quan trọng
hơn, nói như cách của Nietzche: “trong một tình yêu đích thực, chính tâm hồn bao bọc
lấy thân thể” [58, tr.89]. Các quan niệm trên đều đồng quy ở một điểm: đó chính là
cảm xúc do tình yêu mang lại, đó là những cảm xúc ngọt ngào, nồng nhiệt và say đắm,
nó có thể khiến người ta hy sinh bản thân vì người mình yêu.
Trong các mối quan hệ giữa tình yêu và tình dục như tình yêu triệt tiêu nhục dục
hoặc tình dục không tình yêu... thì sự hòa hợp giữa tình yêu và tình dục là mối quan hệ
lý tưởng nhất. Chỉ trong sự kết hợp hài hòa giữa thể xác và linh hồn thì con người mới
đạt đến cảnh giới tự ngã ý thức, nhận thức được giá trị và sự tồn tại của bản thân. Nếu
14


tình dục trong các nền tín ngưỡng xa xưa được xem như là một trong những cách thoát
ly linh hồn khỏi thể xác, tiếp cận với thần linh thì trong quan niệm hiện đại, những
phút giây cực cảm của tình dục do tình yêu chân chính mang lại bao giờ cũng giúp con
người có suy ngfhĩ tích cực hơn. Nó giúp con người sản sinh ra các chất nội tiết có lợi
cho cơ thể và tinh thần.
Nhà hiền triết của thế giới hiện đại Osho đã khẳng định: “tình dục là điểm đầu
cho mọi cuộc hành trình của tình yêu” [38, tr.26]. Vì ông cho rằng sinh lực tình dục sẽ
chuyển hóa thành sinh lực tình yêu, chính sự chuyển hóa này giúp con người giác ngộ
và đạt được sự nhận thức về chân lý. Tình yêu nếu thiếu đi tình dục sẽ ngày càng biến
dạng, chỉ khi kết hợp hài hòa với tình dục thì tình yêu mới thật sự thăng hoa thành
những phút giây vĩnh cữu của đời người.
Trên đây là hai lý thuyết của hai nhà khoa học về tâm lý con người và tình yêu
trong quan niệm của phân tâm học. Đây được xem là một lý thuyết mà người viết lấy
đó làm kim chỉ nam để đi sâu phân tích mạch ngầm tâm lý con người và cách thể hiện

các chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy.
1.2. Đề tài tình yêu trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thi ca. Nhưng ở mỗi thời kỳ lịch sử có sự
khác nhau, bởi vì ứng với những điều kiện văn hóa - xã hội, tư tưởng nhân sinh, thẩm
mỹ nhất định thì các nhà văn có những quan niệm và cách thể hiện riêng về tình yêu.
Đến với đề tài Chủ đề tình yêu trong tiểu thuyết của Dương Thụy người viết chỉ tập
trung làm rõ cơ sở lý thuyết của đề tài tình yêu trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam ở
hai đối tượng đó là: tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn và tình yêu trong văn
xuôi Việt Nam sau 1975 để làm tiền đề cho người viết triển khai và có sự đối sánh với
các chủ đề tình yêu trong các tác phẩm của nhà văn Dương Thụy.
1.2.1. Tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn
Tám mươi năm từ khi Tự lực văn đoàn xuất hiện trên văn đàn, những sáng tác
văn chương của nhóm vẫn luôn là đề tài thu hút sự quan tâm của rất nhiều người.
Nhóm tự đề ra tôn chỉ, đường lối hoạt động riêng cho chính mình. Nhờ tinh thần đoàn
kết, niềm say mê văn chương, Tự lực văn đoàn đã gặt hái được nhiều thành công, các
hoạt động của nhóm có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền văn học hiện đại Việt Nam đầu
thế kỷ XX.

15


Mảng nổi trội nhất của Tự lực văn đoàn lúc bấy giờ là tiểu thuyết. Thông qua thể
loại này, nhóm đã thể hiện một cách sống động sự xung đột giữa cái cũ và cái mới,
giữa tình yêu tự do của con người và những lễ giáo phong kiến trói buộc, tước đoạt
hạnh phúc của con người. Nhóm đã tạo ra dòng văn học lãng mạn 1930 - 1945. Như
tôn chỉ của nhóm, họ có ý thức chống lại những lễ giáo đã đặt ra trước đó và xã hội
phong kiến. Trước đó, quan niệm “cái tôi cá nhân” chưa hề được một nhà văn nào đặt
ra và nhắc đến một cách nghiêm túc. Tự lực văn đoàn đã khơi gợi và làm sống dậy cái
tôi cá nhân ấy trong lòng mỗi người. Trong chuyên luận Tự lực văn đoàn - con người
và văn chương, Phạn Cự Đệ nhấn mạnh: “Tự lực văn đoàn không đặt vấn đề giải

phóng xã hội nhưng đã đấu tranh đòi giải phóng cá nhân, giải phóng bản ngã, đặc
biệt đấu tranh cho tự do hôn nhân, cho quyền sống của người phụ nữ chống lại sự
ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến, của đại gia đình phong kiến” [17, tr.298].
Vào đầu những năm 30 của thế kỷ XX, văn chương Việt Nam bước vào một
chặng đường lịch sử mới với những khởi sắc đáng chú ý. Vượt qua ảnh hưởng của văn
học Trung Quốc, nền văn học nước ta có sự bừng tỉnh của ý thức cá nhân sâu sắc. Để
đạt được những bứt phá đó, bản thân đời sống xã hội và đời sống văn học đã có những
ảnh hưởng vô cùng to lớn. Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ do tác động của cuộc
khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. Đô thị mới mọc lên theo đà của kinh tế tư bản
chủ nghĩa. Các giai cấp mới với những lối sống mới xuất hiện ở nhiều nơi. Họ muốn
và đặt ra yêu cầu sống và giải trí trong môi trường mới lạ. Ý thức cá nhân nảy nở lấn át
ý thức cộng đồng xưa cũ. Những khó khăn trong cuộc sống thường nhật khiến họ tìm
đến văn học như đi tìm một tâm hồn đồng điệu. Và nhu cầu cá nhân là muốn được bộc
lộ, muốn được yêu và bảo vệ tình yêu.
Sự xâm nhập của văn hóa phương Tây theo con đường “vừa tự nguyện vừa
cưỡng bức” làm nảy sinh những mâu thuẫn giai cấp và dân tộc. Đồng thời, nó như một
cơn gió lạ thổi vào cuộc sống đơn điệu của con người và bức tranh văn học cũ cần có
sự thay đổi. Sự ra đời của chữ Quốc ngữ cùng với sự phát triển của báo chí, dịch thuật
đã tác động và làm thay đổi thị hiếu của độc giả lúc bấy giờ. Song song với những tiền
đề khách quan, bản thân đời sống văn học có những đổi thay. Bước vào giai đoạn 1930
-1945, xuất hiện một lớp nhà văn mới với quan niệm “viết văn là một nghề”. Họ là
những trí thức Tây học chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của nền giáo dục phương Tây.
Những sáng tác giai đoạn này có sự cách tân về hình thức và nội dung, đồng thời cũng
16


sáng tác với nhiều thể loại mới xuất hiện đáp ứng nhu cầu phản ánh đời sống xã hội.
Trào lưu văn học lãng mạn ra đời trong hoàn cảnh và nhu cầu ấy đã được rất nhiều độc
giả đón nhận, đề cao. Và đề tài trung tâm của văn học lãng mạn chính là viết về tình
yêu. Có thể nói, đề tài tình yêu chiếm một vị trí quan trọng trong văn học lãng mạn

1930 -1945. Đó không phải là đề tài duy nhất nhưng là đề tài trọng tâm của giai đoạn
và đã gặt hái được nhiều thành công cả về phương diện nội dung và nghệ thuật. Nổi
bật nhất là tiểu thuyết Tự lực văn đoàn với chủ đề chính là chủ đề tình yêu, hôn nhân
và gia đình.
Trong các tác phẩm viết về đề tài tình yêu, các nhà văn đã đưa ra một quan niệm
mới mẽ về hạnh phúc cá nhân, về tình yêu, xem đó là lẽ sống duy nhất của con người.
Tìm hiểu về góc độ tiếp cận và thể hiện của đề tài trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn,
người viết thấy, tình yêu trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn gắn với luận đề về văn hóa,
xã hội đó là chống lại những tư tưởng cổ hủ, lạc hậu của chế độ phong kiến lúc bấy
giờ. Bên cạnh đó tình yêu còn gắn với sự hưởng thụ cá nhân, đó là khát vọng, bản
năng, bản ngã... Đây chính là mảnh đất của phân tâm học được ươm mầm và nở hoa
kết trái trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Thực ra khát vọng về tình yêu do không
phải đến Tự lực văn đoàn mới được phản ánh mà nó đã xuất hiện trong văn học trung
đại từ cuối thế kỷ XVIII, đã thế kỷ XIX với các tác giả như Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Dữ,... và đặc biệt các sáng tác của phong trào Thơ mới... Nhưng có
thể thấy, chỉ đến Tự lực văn đoàn chủ đề tình yêu mới trở thành chủ đề lớn với nhiều
tác phẩm có giá trị phản ánh sâu sắc cuộc đấu tranh giải phóng cá nhân, đề cao khát
vọng cá nhân, thể hiện bản năng, bản ngã của chính mình.
Chủ đề tình yêu xuất hiện với tần số lớn trong các sáng tác của các nhà văn Tự
lực văn đoàn như: Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Đời mưa gió, Nửa chừng
xuân, Gánh hàng hoa, Trống mái,.. Ở các tiểu thuyết này, các nhà văn Nhất Linh và
Khái Hưng có khi kết hợp tình yêu với luận đề, có khi đã đặt tình yêu như một vị trí
độc lập để nhìn nhận và khẳng định nhu cầu, khát vọng của giới trẻ về tự do và hạnh
phúc trong tình yêu, hôn nhân gia đình. Trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, ta bắt gặp
những đôi lứa đắm say trong tình yêu chân thật, ngập tràn những giây phút hạnh phúc
và thăng hoa trong tình yêu cùng những ước mơ tốt đẹp về một tương lai trọng vẹn.
Đó là sự kín đáo nhưng sâu sắc, nhẹ nhàng trong tình yêu của Ngọc và Lan trong Hồn
bướm mơ tiên, là Lộc và Mai trong Nửa chừng xuân, Dũng và Loan trong Đoạn tuyệt,
17



Liên và Minh trong Gánh hàng hoa,... Các nhà văn Tự lực văn đoàn đã thành công khi
miêu tả về tình yêu mang nhiều cung bậc cảm xúc. Đó là tình yêu còn mang dáng dấp
e ấp được che dưới bóng dáng tôn giáo của Ngọc và Lan trong Hồn bướm mơ tiên, hay
tình yêu trong sáng đầy hy sinh, nhẫn nại của Liên trong Gánh hàng hoa, có lúc là tình
yêu phóng khoáng, thanh thoát của Hiền trong Trống Mái. Rồi đến Tuyết trong Đời
mưa gió đầy liều lĩnh và mạnh mẽ với quan niệm “không tình, không cảm” chỉ coi
“lạc thú ở đời, là vị thuốc trường sinh”. Với Tuyết tình yêu gắn với lối sống thực
dụng, phóng đãng, buông thả chứ không còn thuần khiết, trong sáng. Vì thế ở Tuyết
không chỉ dừng lại ở lời nói, hành động không dứt khoát như Lan trong Hồn bướm mơ
tiên, Nhung trong Lạnh lùng... mà ở Tuyết ta luôn bắt gặp những hành động khác lạ,
liều lĩnh và kiên quyết vùng vẫy vượt qua rào cản của lễ giáo và lương tri thỏa mãn
khát khao của bản năng. Từ cuốn tiểu thuyết mở đầu cho chủ đề tình yêu là Hồn bướm
mơ tiên nhà văn Khái Hưng còn e dè, né tránh, khi viết về câu chuyện tình yêu của Lan
và Ngọc, nhưng đến tiểu thuyết Lạnh lùng, Đoạn tuyệt,... thì vấn đề tình yêu đã được
công khai rõ ràng. Rồi đến Đời mưa gió,Bướm trắng thì vấn đề tình yêu cònđược gắn
liền với tình dục.
Qua chủ đề tình yêu và hôn nhân gia đình đặt ra trong các tiểu thuyết, có thể thấy
Tự lực văn đoàn đã góp công đầu vào việc đấu tranh giải phóng cá nhân ra khỏi mọi
kiềm tỏa của lễ giáo và ý thức hệ phong kiến đè nặng lên đời sống tinh thần của dân
tộc trong hàng ngàn năm. Đặt vào bối cảnh xã hội trước 1945, đương nhiên nhu cầu
khẩn thiết nhất của dân tộc là đấu tranh chống chế độ đế quốc - phong kiến; nhưng nhu
cầu giải phóng cá nhân cũng cần được lưu ý, khi những chuyển động trong đời sống
kinh tế - xã hội đã làm nảy sinh những giai tầng mới trong đời sống đô thị; khi những
ảnh hưởng của văn hóa - văn minh phương Tây trong thời đại tư bản chủ nghĩa đã có
con đường thâm nhập vào một tầng lớp trí thức mới, với những nhu cầu mới, từng
bước làm rạn vỡ những nề nếp ý thức, tâm lý, luân lý, đạo đức cổ truyền. Việc cổ
động, tuyên truyền tinh thần yêu nước tự nhiên là đứng ở hàng đầu, nhưng việc quan
tâm chú ý đến những nhu cầu khác của con người như: quyền bình đẳng nam nữ;
quyền được yêu và sự gắn bó hôn nhân với tình yêu để phản đối và loại bỏ sự áp đặt

của chế độ đại gia đình, quyền được có một cuộc sống ý nghĩa, dẫu là trong khuôn khổ
chế độ thuộc địa; quyền được sống với những khát vọng chính đáng của con người...
cũng rất cần được khẳng định. Và đây cũng là lý do để giải thích sự hoan nghênh, đón
18


×