Tải bản đầy đủ (.docx) (108 trang)

Bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.64 KB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ THANH HÀ

BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn
đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất
cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Lê Thanh Hà


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG
QUA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN HẠN CHẾ QUYỀN
TỰ DO THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ VIỆT NAM........................................................................................................... 7
1.1.

Khái niệm, nội dung quyền con người............................................................... 7

1.1.1. Khái niệm quyền con người................................................................................... 7
1.1.2. Nội dung quyền con người..................................................................................... 8
1.2.

Khái niệm, nội dung các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền
tự do theo quy định của luật tố tụng hình sự................................................. 12

1.2.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn theo quy định của luật tố tụng
hình sự.......................................................................................................................... 12
1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do.......................................................................... 17

1.3.

Nội dung bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự............................................................................................................... 33

1.4.

Chủ thể, biện pháp bảo vệ quyền con người thông qua các
biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự........................................................................................... 36


1.4.1. Chủ thể bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn
chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 36
1.4.2. Các biện pháp bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự
1.5.

39

Tham khảo việc bảo vệ quyền con người thông qua các biện
pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do trong luật tố tụng hình
sự của một số nước trên thế giới 42

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1...................................................................................................... 47
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
THÔNG QUA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN HẠN CHẾ
QUYỀN TỰ DO THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM
2.1.

Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

2.2.

48
48

Thực trạng bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự 49

2.2.1. Những ưu điểm......................................................................................................... 49
2.2.2. Một số hạn chế, bất cập......................................................................................... 53
2.3.

Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập...................................................... 65

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2...................................................................................................... 71
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ QUYỀN
CON NGƯỜI THÔNG QUA CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM 72
3.1.

Giải pháp về việc hoàn thiện pháp luật............................................................ 74


3.1.1. Hoàn thiện các quy định của Luật tố tụng hình sự về các biện
pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do

74


3.1.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền
của những người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
3.2.

87

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng
hình sự Việt Nam

3.3.

87

Một số giải pháp khác............................................................................................ 92

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3...................................................................................................... 94
KẾT LUẬN................................................................................................................................ 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 98


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:


Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

BPNC:

Biện pháp ngăn chặn

CQĐT:

Cơ quan điều tra

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


VKSQS:

Viện kiểm sát quân sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình bắt, tạm giữ, xử lý hình sự

48

Bảng 2.2: Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam

49

Bảng 2.3: Số lượt quá hạn tạm giam

60

Bảng 2.4: Số bị can Viện kiểm sát không phê chuẩn lệnh giam và
bắt tạm giam

61



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật tố tụng hình sự là vấn đề được nhiều nước trên thế giới quan tâm và
coi trọng. Vấn đề này đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn nhân quyền thế giới
năm 1948 (UHDR), Công ước Liên hợp quốc về các quyền dân sự, chính trị
năm 1966 (ICCPR),…. Nước ta đang trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và cải cách tư pháp,
việc bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền con người bằng pháp
luật tố tụng hình sự nói riêng luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm và thể
hiện trong các văn bản của Đảng và Nhà nước ta. Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020” đã khẳng định:
Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày
càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh có hiệu quả với các loại tội phạm và vi phạm [4];
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đã đặt ra nhiệm vụ:
“Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy
mạnh việc thực hiện chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ
thống tư pháp trong sạch vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người” [9]…
Hoạt động tố tụng hình sự là một trong những hoạt động của Nhà nước
có liên quan chặt chẽ đến quyền con người. Hoạt động này là quá trình các cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng các
biện pháp nghiệp vụ theo luật định để điều tra, truy tố, xét xử đối
1



với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong
BLHS. Cùng với việc áp dụng các biện pháp nghiệp vụ để giải quyết vụ án thì
các cơ quan và người tiến hành tố tụng theo thẩm quyền còn áp dụng các biện
pháp ngăn chặn đối với những người đang bị điều tra, truy tố, xét xử nhằm
ngăn chặn việc họ tiếp tục thực hiện tội phạm, bỏ trốn cản trở đến hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trên thực tế, việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn đã góp phần làm cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử có nhiều
thuận lợi, đảm bảo về thời gian, ngăn chặn việc các đối tượng bỏ trốn hoặc tiếp
tục thực hiện hành vi phạm tội gây thiệt hại cho xã hội và công dân. Tuy nhiên,
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do (bao gồm các biện
pháp: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú) theo quy định của
BLTTHS có liên quan chặt chẽ đến quyền con người và đây cũng là hoạt động
mà quyền con người dễ bị xâm hại nhất. Qua thực tiễn hoạt động tố tụng cho
thấy còn có sự lạm dụng việc áp dụng các biện pháp này trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự, cá biệt còn có trường hợp áp dụng không đúng quy định
(bắt oan người không có tội, bắt người một cách tùy tiện, tạm giữ, tạm giam
quá hạn luật định…) đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đồng thời gây dư luận xấu trong xã
hội, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với các cơ quan tiến hành tố
tụng. Việc xảy ra tình trạng nêu trên là do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác nhau, song sự hạn chế, thiếu đồng bộ của pháp luật và trách nhiệm
của những người tiến hành tố tụng trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn
chặn hạn chế quyền tự do cũng có tác động đáng kể.
Câu hỏi đặt ra là việc bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam được thực hiện như thế nào, những yếu tố nào ảnh hưởng đến thực trạng
bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự
2



do và cần phải có những giải pháp nào để nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con
người khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định
của Luật tố tụng hình sự.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự đã được nhiều tác
giả nghiên cứu như:
- Luận án Tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động
tư pháp ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Huy Hoàn.
- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình
sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quang Hiền.
- Luận án tiến sĩ luật học “Bảo đảm quyền con người của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Lại Văn Trình.
- Các bài báo của GS.TSKH Lê Văn Cảm “Những vấn đề lý luận về bảo
vệ quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự”.
- Đề tài khoa học cấp Đại học quốc gia Hà Nội - Khoa Luật năm 2006
“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH. Lê
Văn Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ biên.
- Chuyên khảo “Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của TS. Trần Quang Tiệp.
- “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” của
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí (Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà Nội, Kinh
tế - Luật 23 (2007))….
Các công trình này, các tác giả đã nghiên cứu bảo vệ quyền con người từ
góc độ tư pháp hình sự, phạm vi nghiên cứu chủ yếu xuất phát từ phân tích quyền
và nghĩa vụ tố tụng của người tham gia tố tụng. Tuy nhiên các tác giả chưa đi sâu
nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người thông qua BPNC hạn chế quyền tự do
cũng như chưa đi sâu nghiên cứu các chế định BPNC hạn chế quyền
3



tự do theo quy định của BLTTHS liên quan đến việc bảo vệ quyền con người từ
đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người thông
qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS Việt Nam.

Trong thực tiễn điều tra, xử lý các vụ án hình sự vẫn còn những vi phạm
nhân quyền khi áp dụng các BPNC. Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của
BLTTHS từ góc độ lập pháp và thực tiễn áp dụng pháp luật có vai trò rất quan
trọng trong quá trình thực hiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh hội nhập quốc tế cũng như công cuộc cải cách tư pháp ở nước
ta. Đây là lý do tôi quyết định chọn đề tài: “Bảo vệ quyền con người thông qua
các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng
hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người
thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS đồng
thời nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về các biện pháp này và thực
tiễn áp dụng các biện pháp này để làm rõ những vấn đề còn bất cập, hạn chế
ảnh hưởng đến quyền con người, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tăng
cường bảo vệ quyền con người khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn này.
- Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu thì nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
+ Làm rõ vấn đề bảo vệ quyền con người và bảo vệ quyền con người
thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS.
+ Phân tích các quy định của luật TTHS về các BPNC hạn chế quyền tự
do, chỉ ra những vấn đề còn hạn chế của các biện pháp này liên quan đến việc
bảo vệ quyền con người.


4


+ Xây dựng các giải pháp nhằm tăng cường bảo vệ quyền con người
thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật TTHS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ
quyền con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của
pháp luật TTHS. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do
được tiến hành trên phạm vi toàn quốc trong thời điểm từ năm 2009 đến năm
2013.
- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là vấn đề bảo vệ quyền con người thông
qua các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của luật
TTHS. Cụ thể:
- Nghiên cứu các văn bản pháp luật, tài liệu liên quan đến quyền con
người và chế định các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của luật
TTHS Việt Nam.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy
định của luật TTHS trong thời điểm từ năm 2009 đến năm 2013 liên quan đến
vấn đề bảo vệ quyền con người.
- Nghiên cứu kinh nghiệm bảo vệ quyền con người thông qua các
BPNC hạn chế quyền tự do ở một số quốc gia trên thế giới.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy
vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền, về chính sách hình sự, về vấn đề cải cách tư pháp được thể

hiện trong các Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết

5


số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là:
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương
pháp thống kê, phương pháp chuyên gia,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương
diện lý luận và thực tiễn, góp phần làm rõ thêm những vấn đề về bảo vệ quyền
con người thông qua các BPNC hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố
tụng hình sự.
- Đề tài là một tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp về TTHS, tài
liệu tham khảo trong các trường chuyên ngành Luật và trong hoạt động thực
tiễn giải quyết vụ án hình sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1. Lý luận về bảo vệ quyền con người thông qua các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
- Chương 2. Thực trạng bảo vệ quyền con người thông qua các biện
pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
- Chương 3. Một số giải pháp bảo vệ quyền con người thông qua các
biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do theo quy định của Luật tố tụng hình
sự Việt Nam.


6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI THÔNG QUA CÁC BIỆN
PHÁP NGĂN CHẶN HẠN CHẾ QUYỀN TỰ DO THEO QUY ĐỊNH CỦA
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, nội dung quyền con người
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính lịch sử hình
thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các thời đại khác
nhau. Hiện nay, có nhiều định nghĩa về quyền con người, theo Văn phòng Cao
ủy Liên Hợp Quốc thì: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý phổ quát
có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự
bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép hoặc tự do cơ bản
của con người” [17, tr.21]. Hay quyền con người còn được định nghĩa một
cách khái quát là những quyền bẩm sinh, vốn có của con người mà nếu không
được hưởng thì chúng ta sẽ không thể sống như một con người [17, tr.21].
Ở Việt Nam, quyền con người (hay nhân quyền) đã được đề cập từ Bộ luật
Hồng Đức (Quốc Triều Hình Luật, 1470 - 1497) và hiện nay cũng đã có nhiều tác
giả nghiên cứu về quyền con người đưa ra các khái niệm, nhận xét về quyền con
người. Về mặt luật học, GS.TS Trần Ngọc Đường đã viết: “Quan niệm quyền con
người vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và giá trị nhân loại của quyền, đồng thời
cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính trị và lịch sử cụ thể của quyền con người
thuộc một quốc gia, một dân tộc” [12, tr.21]. PGS.TS Nguyễn Văn Động đã đưa
ra một số nhận xét chung về quyền con người như sau:

a/ Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bởi toàn
thế giới, đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của

mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cộng đồng quốc tế; b/

7


Trực tiếp liên quan đến các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần
của con người (từ ăn, ở, nghỉ ngơi, vui chơi, giải trí,…) và góp phần
quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách, tính nhân đạo
và nhân văn của con người; c/ Các quyền con người tạo thành hệ
thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau,
đồng thời vừa là tiền đề, điều kiện của nhau, vừa là hệ quả của nhau
[11, tr. 52-53].
Hay theo TS Trần Quang Tiệp thì: “Quyền con người là những đặc lợi
vốn có tự nhiên mà chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định” [33, tr. 14].
Với những định nghĩa, nhận xét về quyền con người như trên, cho thấy:
Quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và
khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia
và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. [20, tr.41].
1.1.2. Nội dung quyền con người
Quyền con người vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội nên nó vừa
mang tính phổ biến lại vừa có tính đặc thù gắn liền với lịch sử, truyền thống và
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi nước.

Trong số các quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
được hưởng tự do và độc lập là quyền cơ bản, quan trọng nhất. Tại Bản tuyên
ngôn độc lập ngày 02/9/1945 được Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố trước quốc
dân đồng bào và toàn thế giới đã thể hiện: “Nước Việt Nam có quyền được
hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của

cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy” [13, tr.4]. Đó cũng chính là tuyên
ngôn nhân quyền của người Việt Nam [1, tr.90]. Trong Hiến pháp năm 1946,
những quyền con người cơ bản nhất với tính chất là quyền công dân đã

8


chính thức được ghi nhận tạo thành nội dung chủ yếu của quyền con người
như: quyền bình đẳng; quyền tự do ngôn luận, xuất bản, tổ chức và hội họp; tự
do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại; quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở;
quyền tư hữu tài sản,… Cùng với sự phát triển của đất nước, nội dung các
quyền con người ở nước ta ngày càng được nhận thức đầy đủ hơn, được ghi
nhận về mặt pháp lý và được đảm bảo thực hiện trên thực tế. Tại Hiến pháp các
năm 1959, 1980 và 1992 đều đã thể chế hóa và từng bước mở rộng quyền con
người. Đặc biệt tại Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định:
1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và
pháp luật; 2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế
theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc
phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe cộng đồng [31].
Việc hạn chế quyền con người, quyền công dân không thể tùy tiện mà
phải theo “quy định của luật”. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công
dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện quyền
con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc,
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; Theo đó, quyền con người, quyền
cơ bản của công dân ở nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm:
Quyền sống, quyền hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghiên cứu và hưởng thụ các

kết quả khoa học, quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ để,
tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, quyền được sống trong môi trường trong
lành,…. Mọi công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng, không bị phân biệt

9


trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội; được Nhà nước bảo
hộ, không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác.
Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo
lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Không ai bị
bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết định hoặc phê
chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang.
Việc bắt, giam, giữ người do luật định [31, Điều 20, Khoản 1, 2].

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Mọi công
dân có quyền có nơi ở hợp pháp, có quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở và việc
khám xét chỗ ở do luật định; có quyền tự do đi lại, cư trú ở trong nước và có
quyền ra nước ngoài, từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật; có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ
quan, tổ chức, cá nhân; cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp
nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường
về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định pháp luật. Người bị
buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và phải được
Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Người bị

bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa,
nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt,
giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người
khác phải bị xử lý theo pháp luật.
Mọi người có quyền sở hữu tư nhân về thu nhập hợp pháp, nhà ở, tư

10


liệu sinh hoạt và sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ
chức kinh tế khác và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ; Trong những
trường hợp cần thiết, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài
sản của tổ chức, các nhân theo giá thị trường. Người sử dụng đất hợp pháp
được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất và được chuyển quyền sử dụng
đất, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo luật định. Quyền sử dụng đất được
pháp luật bảo hộ.
Mọi người có quyền tự do kinh doanh theo quy định. Công dân có quyền
được bảo đảm an sinh xã hội, có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc
làm và nơi làm việc. Nghiêm cấm việc phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động,
sử dụng nhân công dưới tuổi lao động tối thiểu.
Mọi người có quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bình đẳng trong
việc sử dụng các dịch vụ y tế và có nghĩa vụ thực hiện các quy định về phòng
bệnh, khám bệnh và chữa bệnh. Công dân có quyền học tập, nghiên cứu khoa
học, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó.
Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. Công dân có
trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. Việc thực hiện
quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân
tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác [31].
Quyền con người được ghi nhận trong Hiến pháp và được bảo vệ, bảo
đảm thực hiện bởi hệ thống các cơ quan Nhà nước. Điều 6 Hiến pháp 2013 quy

định: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước” [31]. Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất do
nhân dân bầu ra, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân thông
qua việc: xây dựng Hiến pháp và luật, ghi nhận ý chí và nguyện vọng của nhân
dân, thể chế hóa các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,

11


giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Hội đồng nhân dân là cơ
quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và
quyền làm chủ của nhân dân địa phương, giám sát hoạt động của các cơ quan
nhà nước ở địa phương. Quyền con người còn được bảo vệ, bảo đảm thực hiện
bởi: hệ thống các cơ quan hành pháp (Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp)
- đây là các chủ thể có trách nhiệm đưa pháp luật đi vào cuộc sống, làm cho
quyền và nghĩa vụ công dân trở thành hiện thực, là cơ quan trực tiếp quản lý
nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; hệ thống Cơ quan Tòa án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân - là các cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân.
Một trong những đảm bảo quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người là
ban hành văn bản pháp luật, tuyên truyền giáo dục để mọi người hiểu biết pháp
luật, không xâm phạm quyền con người. Trường hợp đã vi phạm thì phải kịp thời
phát hiện và xử lý nghiêm minh. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm quyền con
người, pháp luật nước ta đã quy định các biện pháp pháp lý tương ứng như xử lý
kỷ luật, xử phạt hành chính, buộc phải bồi thường và cao nhất là truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người vi phạm. Như tại BLHS đã quy định một chương
riêng xử lý đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự
con người, quy định các tội xâm phạm quyền con người.


1.2. Khái niệm, nội dung các biện pháp ngăn chặn hạn chế quyền tự do
theo quy định của luật tố tụng hình sự
1.2.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn theo quy định của luật tố
tụng hình sự
BLTTHS là văn bản pháp lý quy định hoạt động của các cơ quan THTT,
người THTT và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ
án hình sự khách quan, toàn diện, nhanh chóng và đúng pháp luật.
Như vậy, TTHS chính là các trình tự, thủ tục, biện pháp được Nhà nước

12


quy định để các cơ quan THTT (CQĐT, Viện kiểm sát, Tòa án, Thi hành án) và
những người THTT (Thủ trưởng, Phó thủ trưởng CQĐT, Điều tra viên; Viện
trưởng, Phó viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên; Chánh án, Phó chánh án
Tòa án, Thẩm phán) có thẩm quyền khởi tố điều tra, đưa một người ra xử lý
trước pháp luật khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
trong BLHS và nó luôn thể hiện tính quyền lực với sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước. Những BPNC là một trong những nhóm của biện pháp cưỡng chế,
nó mang tính nghiêm khắc để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa
bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố,
xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án. Tuy nhiên khi áp dụng các BPNC sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến các quyền con người, quyền cơ bản của công dân được
ghi nhận trong Hiến pháp. Vì vậy BLTTHS đã quy định thành một chương
riêng về các BPNC.
Hiện nay đã có nhiều công trình, tài liệu đưa ra khái niệm về các BPNC,
như: Theo giáo trình Luật TTHS Việt Nam của khoa Luật, Đại học quốc gia Hà
Nội thì:
BPNC là biện pháp cưỡng chế TTHS được quy định trong
pháp luật TTHS, do người có thẩm quyền ở các cơ quan THTT hoặc

các cơ quan khác được giao một số hoạt động tố tụng áp dụng, công
dân đối với với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang, người có
lệnh truy nã hoặc người bị nghi là phạm tội, nhằm ngăn chặn kịp
thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố, xét
xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như nhằm đảm bảo cho việc thi
hành án [7, tr.248 -249].
Còn theo tác giả Nguyễn Trọng Phúc thì quan niệm:
Các BPNC là biện pháp cưỡng chế Nhà nước mang tính
phong ngừa do người có quyền hạn được quy định trong BLTTHS

13


áp dụng đối với người liên quan đến tội phạm chưa bị khởi tố, bị
can, bị cáo, khi có căn cứ cụ thể nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm
cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự [23].
Trên cơ sở những quy định của BLTTHS về các BPNC và những khái
niệm nêu trên, theo chúng tôi: BPNC là một trong những biện pháp cưỡng chế
trong TTHS do người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS áp dụng đối
với bị can, bị cáo, người phạm tội quả tang hoặc đối với những người bị nghi
là phạm tội khi có một trong các căn cứ theo quy định của BLTTHS nhằm
ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội, không để họ cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc sẽ tiếp tục thực hiện tội phạm cũng như đảm bảo việc thi hành án.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú, tự do đi lại là
một trong các quyền con người được quy định trong Hiến pháp và các quyền
này chỉ bị hạn chế theo trình tự, thủ tục do luật định. Trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự, để đạt được nhiệm vụ của BLTTHS, trong những trường
hợp cần thiết các cơ quan THTT cần phải áp dụng một số BPNC để hạn chế sự
tự do đi lại, tự do cư trú đối với những người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong BLHS. Vì vậy, các BPNC hạn chế quyền tự do

là các BPNC được quy định trong BLTTHS để hạn chế quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền tự do đi lại và tự do cư trú đối với những người bị áp
dụng nhằm đạt được mục đích của việc áp dụng các BPNC.
Khái quát các quy định pháp luật về các biện pháp ngăn chặn trước khi
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 được ban hành
BPNC là một chế định pháp lý quan trọng của luật TTHS. Ngay từ khi
Cách mạng tháng 8 thành công và nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
Nhà nước đã sớm ban hành các quy định về TTHS trong đó có các BPNC.
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, các quy định của pháp luật
TTHS cũng được sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của đất nước và
pháp luật quốc tế.
14


* Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1988
Trước khi BLTTHS năm 1988 được ban hành, các BPNC trong TTHS
được quy định tại các văn bản như:
Điều 11 Hiến pháp năm 1946 quy định: Công dân không bị bắt giam khi
chưa có quyết định của Tòa án [24].
Sắc lệnh số 40 ngày 29/3/1946 của Chính phủ lâm thời đã quy định:
ngoài trường hợp phạm pháp quả tang về khinh tội hay trọng tội, việc bắt
người bao giờ cũng phải có lệnh bằng văn bản của Thẩm phán viên; việc giam
cứu, gia hạn giam cứu người phạm tội do cơ quan tư pháp (Tòa án) quyết định;
quy định về thời hạn giam cứu và thời hạn gia hạn giam cứu,…
Tại Luật số 103-SL/005 ngày 20/5/1957 của Quốc hội nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa đã quy định đảm bảo quyền tự do thân thể và quyền bất khả
xâm phạm đối với nhà ở, đồ vật, thư tín của nhân dân. Cùng với việc quy định
nguyên tắc chung trong việc bắt người, tạm giữ, tạm giam. Khám xét… Luật
này còn quy định trình tự thủ tục để tiến hành các hoạt động trên. Đặc biệt Luật
quy định: Việc bắt người phạm pháp đến pháp luật Nhà nước trừ trường hợp

phạm pháp quả tang và khẩn cấp phải có lệnh viết của cơ quan tư pháp (Tòa
án) từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên nếu là thường dân phạm pháp hoặc của
Tòa án binh nếu là quân nhân phạm pháp hay thường dân phạm pháp có liên
quan đến quân đội nhân dân (Điều 3). Việc tạm giam phải do cơ quan tư pháp
từ cấp tỉnh hoặc thành phố trở lên hoặc tòa án binh quyết định với thời hạn cụ
thể (Điều 6, 7); quy định việc tạm tha trong trường hợp không cần thiết hoặc
đối với các đối tượng đặc biệt là người già yếu, có bệnh nặng hoặc phụ nữ có
thai hoặc đang cho con bú (Điều 8)…
* Quy định của BLTTHS năm 1988 về các BPNC
Ngày 28/6/1988, BLTTHS đầu tiên của nước ta được thông qua và có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. BLTTHS năm 1988 đã quy định cụ thể

15


về mục đích, căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng đối với
các BPNC, như: bắt người (từ Điều 62 đến Điều 65), tạm giữ (Điều 68 - 69),
tạm giam (Điều 70)… đồng thời cũng quy định việc hủy bỏ hoặc thay thế các
BPNC (Điều 77). Cụ thể:
+ Biện pháp bắt người: Trong BLTTHS năm 1988, các trường hợp bắt
bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp,
bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, đồng thời cũng đã quy định
tương đối cụ thể các vấn đề về thẩm quyền, đối tượng, thủ tục áp dụng trong
từng trường hợp cụ thể nhằm đảm bảo việc bắt đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
+ Biện pháp tạm giữ: Trong BLTTHS năm 1988, chế định về tạm giữ
được quy định tại các Điều: 68, 69, 72, 73. Ngoài ra, việc tạm giữ đối với
người chưa thành niên phạm tội được quy định tại Điều 273. Bộ luật đã quy
định đối tượng bị tạm giữ, thẩm quyền tạm giữ, thời hạn tạm giữ và gia hạn
tạm giữ, những trường hợp có thể tạm giữ đối với người chưa thành niên phạm

tội, kiểm sát việc tạm giữ,…
- Biện pháp tạm giam: Chế định về tạm giam được quy định tại các Điều
70, 71, 72, 73 của BLTTHS năm 1988 trong đó quy định khá cụ thể về các
trường hợp áp dụng, thẩm quyền áp dụng, đối tượng bị áp dụng, thời hạn tạm
giam, chế độ tạm giam, việc phê chuẩn lệnh tạm giam, việc hủy bỏ hoặc thay
thế biện pháp tạm giam,…
So với các văn bản pháp luật TTHS trước đây thì BLTTHS năm 1988 đã
có bước tiến lớn trong vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân được
thể hiện thông qua các chế định của Bộ luật này, nó đã góp phần quan trọng
vào sự nghiệp bảo vệ những thành tựu cách mạng, bảo vệ chế độ XHCN, giữ
vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, phục vụ tích cực công cuộc
đổi mới, đấu tranh phòng và chống tội phạm.
16


1.2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về các biện pháp
ngăn chặn hạn chế quyền tự do
Trước những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
và những đòi hỏi của việc bảo vệ quyền con người trong xã hội nói chung và
trong TTHS nói riêng, BLTTHS năm 2003 đã được Quốc hội thông qua ngày
26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 trên cơ sở kế thừa những thành
tựu của BLTTHS năm 1988.
Các BPNC được quy định tại Chương VI và các Điều 120, 121, 166,
177, 228, 243, 250, 287 và 303 của Bộ luật này trong đó các BPNC bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú là các BPNC hạn chế quyền tự do đi lại
và tự do cư trú cùng một số quyền khác của người bị áp dụng.
Khi áp dụng các biện pháp này là trực tiếp ảnh hưởng đến quyền tự do
của con người được ghi nhận trong Hiến pháp, vì vậy BLTTHS năm 2003 đã
quy định chặt chẽ mục đích, căn cứ, thẩm quyền và thủ tục áp dụng đối với các

biện pháp này nhằm tránh việc lợi dụng của các cơ quan THTT và người
THTT khi áp dụng các biện pháp này xâm phạm đến quyền con người. Việc
quy định các BPNC trong TTHS có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và
phòng ngừa tội phạm, đảm bảo cho hoạt động này đạt hiệu quả cao, bảo đảm
cho hoạt động của các cơ quan THTT được thuận lợi, đồng thời bảo đảm sự
dân chủ, tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp quy định.
- Mục đích áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS năm 2003 thì áp dụng các BPNC
với hai mục đích: ngăn chặn không cho tội phạm tiếp tục xảy ra gây thiệt hại
cho xã hội, không để người phạm tội tiếp tục thực hiện tội phạm hoặc cản trở
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, đồng thời để tạo điều kiện
thuận lợi để các cơ quan THTT giải quyết vụ án như không để người phạm tội
có thể xóa bỏ dấu vết tội phạm, tiêu hủy chứng cứ, thông cung giữa những

17


người phạm tội hoặc với người làm chứng, đảm bảo sự có mặt của bị can, bị
cáo, bị án khi có yêu cầu của cơ quan THTT [6, tr.71].
- Căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn
Để đảm bảo đạt được mục đích đặt ra của các BPNC, đồng thời bảo vệ
các quyền con người không bị xâm hại, tránh việc áp dụng các BPNC tràn lan
và không có căn cứ, xâm phạm đến quyền con người, BLTTHS năm 2003 đã
quy định căn cứ để áp dụng các BPNC, đó là khi có một trong các căn cứ sau:
+ Để kịp thời ngăn chặn tội phạm;
+ Khi có căn cứ cho rằng bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều
tra, truy tố, xét xử;
+ Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội;
+ Để bảo đảm thi hành án.
Các căn cứ này phải được thể hiện bằng các tài liệu do các cơ quan

THTT thu thập theo đúng trình tự luật định đồng thời phải được xem xét, đánh
giá một cách khách quan, toàn diện.
1.2.2.1. Biện pháp bắt người
Bắt người là BPNC trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo,
người bị tình nghi thực hiện tội phạm hoặc người phạm tội quả tang hoặc đang
có lệnh truy nã nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn ngừa phạm tội, tạo
điều kiện thuận lợi cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành bản án hình
sự [7, tr.258].
Nhằm mục đích tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm các quyền tự do
dân chủ của công dân, BLTTHS năm 2003 quy định các trường hợp bắt gồm:
bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy
nã và bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam (Điều 80 BLTTHS)
Là bắt người có quyết định khởi tố với tư cách bị can hoặc người đã có

18


×