Tải bản đầy đủ (.docx) (157 trang)

Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong trường hợp phát hành thư tín dụng theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.27 KB, 157 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THÙY LINH

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG TRƯỜNG HỢP PHÁT HÀNH THƯ TÍN DỤNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ THÙY LINH

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TRONG TRƯỜNG HỢP PHÁT HÀNH THƯ TÍN DỤNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Thị Thanh Thủy


HÀ NỘI - 2013

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công
trình

nghiên

cứu

khoa

học

của

riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo
độ

tin

cậy,

chính


xác



trung

thực. Những kết luận khoa học của
luận văn cha từng đợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Thùy Linh

3


4


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THƯ TÍN DỤN
PHÁP LÝ LIÊN QUAN


1.1.

Khái quát những vấn đề cơ bản về thư

1.1.1.

Lịch sử ra đời của thư tín dụng

1.1.2.

Khái niệm, vai trò và đặc điểm pháp l

1.1.3.

Nội dung và tính chất của thư tín dụn

1.2.

Phân loại thư tín dụng

1.2.1.

Theo tính chất có thể hủy ngang

1.2.2.

Theo cách thức thực hiện thanh toán

1.2.3.


Theo thời hạn thanh toán của thư tín d

1.3.

Quyền, nghĩa vụ của ngân hàng thươn
pháp luật liên quan đến phát hành thư

1.3.1.

Ngân hàng thương mại và các chủ thể
thanh toán thư tín dụng

1.3.2.

Quyền, nghĩa vụ của ngân hàng thươn
phát hành thư tín dụng

1.4.

Khuôn khổ pháp lý liên quan đến Thư

1.4.1.

Tập quán quốc tế

1.4.2.

Pháp luật quốc gia

5



1.4.3.

Mối quan hệ giữa tập quán quốc tế v

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ N

HÀNG THƯƠNG MẠI TRO

TÍN DỤNG VÀ THỰC TRẠ
DỤNG THEO PHÁP LUẬT

2.1.

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
trong việc phát hành thư tín dụng the

2.1.1.

Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng p
trường hợp phát hành thư tín dụng

2.1.2.

Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng p
trong trường hợp phát hành thư tín d

2.2.


Thực trạng phát hành thư tín dụng th

2.2.1.

Hạn chế của ngân hàng thương mại
nghiệp vụ thanh toán quốc tế

2.2.2.

Rủi ro mà ngân hàng thương mại gặ
phát hành thư tín dụng

2.2.3.

Tranh chấp mà ngân hàng thương m
trình phát hành thư tín dụng

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC G

PHÁP LUẬT VỀ PHÁT HÀN

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠ

3.1.

Phương hướng hoàn thiện pháp luật
của ngân hàng thương mại Việt Nam

3.1.1.


Khắc phục các hạn chế trong quy địn
hành thư tín dụng

3.1.2.

Chú trọng vấn đề phòng ngừa rủi ro

3.2.

Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp
dụng của ngân hàng thương mại Việ
quả việc thực thi pháp luật
6


3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phát hành thư tín dụng
3.2.2. Giải pháp phòng ngừa rủi ro
3.2.3. Giải pháp hạn chế tranh chấp
3.2.4. Các giải pháp hỗ trợ khác để nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

7


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Ngân hàng, với chức năng và nhiệm vụ của mình đóng một vai trò rất
quan trọng và không thể thiếu được đối với sự phát triển kinh tế của đất nước.
Các ngân hàng, nhất là ngân hàng thương mại ở nước ta hiện nay đang trong
quá trình thực hiện chiến lược nâng cao khả năng cạnh tranh trước yêu cầu mở
cửa thị trường dịch vụ tài chính, hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết trong
khuôn khổ Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Trọng tâm của chiến lược
này là hiện đại hóa công nghệ, phát triển dịch vụ, nâng cao trình độ quan hệ
điều hành theo chuẩn mực quốc tế. Bởi vậy, phát triển và đa dạng hóa dịch vụ
ngân hàng trở thành vấn đề tất yếu khách quan, là vấn đề cấp bách đối với tất
cả các ngân hàng thương mại trong nước. Các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp
hiện nay cũng đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của xã hội cũng như của
ngân hàng.
Phát hành thư tín dụng là một trong những dịch vụ mà các ngân hàng
thương mại đang hướng tới, là một dạng dịch vụ ngân hàng hiện đại. Dạng
dịch vụ này xuất hiện khi các bên tham gia thương mại, đặc biệt là ngân hàng
đã phát triển các kĩ thuật nghiệp vụ và các phương pháp sử dụng thư tín dụng
trong tài chính, thương mại quốc tế và đã được Phòng Thương mại Quốc tế
(ICC) tiêu chuẩn hóa thông qua việc xuất bản "Quy tắc thực hành thống nhất
về tín dụng chứng từ" (UCP) 1933 và tiếp theo đó là cập nhật nó qua các năm.
Đến nay với khả năng ứng dụng rộng rãi trong các loại giao dịch (tài chính lẫn
phi tài chính, thương mại lẫn phi thương mại), vị trí của thư tín dụng ngày càng
được củng cố một cách chắc chắn.
Phát hành thư tín dụng không chỉ đem lại nguồn thu ngày càng lớn cho
các tổ chức tín dụng mà hoạt động này còn đem lại sự tin tưởng cho các chủ
thể khi tham gia giao kết hợp đồng, là chất xúc tác thúc đẩy các hoạt động

8


thương mại, dân sự trong nước và quốc tế đang ngày càng phát triển. Tuy

nhiên, là nhà cung cấp dịch vụ phát hành thư tín dụng, các ngân hàng thương
mại cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro và tranh chấp khi thực hiện các quyền
và nghĩa vụ của mình. Nghiệp vụ phát hành thư tín dụng của các ngân hàng
thương mại còn yếu kém, thiếu cán bộ ngân hàng có chuyên môn để có thể
tham gia vào các giao dịch nói trên, đặc biệt là trong các quan hệ thanh toán
quốc tế. Hệ thống pháp luật mặc dù đã có quy định nhưng cũng mới chỉ là
những quy định cơ bản, còn thiếu tính đồng bộ và chi tiết.
Đề tài "Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong trường
hợp phát hành thư tín dụng theo pháp luật Việt Nam" là cần thiết để có được
cách hiểu rõ nét nhất (cả về lý luận và thực tiễn) về dịch vụ phát hành thư tín
dụng - là nghiệp vụ khá mới mẻ và đầy tiềm năng, từ đó, có thể hoàn thiện hơn
nữa quy định của pháp luật về lĩnh vực này, phát triển dịch vụ và tăng cường
thu hút đầu tư. Hơn nữa bất kì chủ thể nào khi tham gia vào một quan hệ pháp
luật nhất định cũng đều có những quyền và nghĩa vụ nhất định của mình.
Quyền là những gì được hưởng và nghĩa vụ là những gì phải thực hiện. Quyền
không thể tách dời nghĩa vụ. Ngân hàng thương mại khi cung cấp dịch vụ phát
hành thư tín dụng cũng được hưởng những quyền và phải thực hiện một số
nghĩa vụ nhất định.
Vì vậy, nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong
trường hợp phát hành thư tín dụng cũng để có cái nhìn đầy đủ nhất về những
việc mà ngân hàng thương mại được hưởng cũng như phải thực hiện khi tham
gia vào quan hệ pháp luật là phát hành thư tín dụng cũng như thấy được những
rủi ro, tranh chấp mà các ngân hàng này phải đối mặt trong quá trình hưởng
quyền và thực hiện nghĩa vụ của mình, từ đó có những giải pháp để ngân hàng
thương mại có thể phát huy tối đa năng lực của mình trong việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ, hạn chế những rủi ro, tranh chấp và phát triển dịch vụ phát
hành thư tín dụng cho hoàn thiện nhằm phục vụ không những nhu cầu của
khách hàng trong nước mà còn đáp ứng được đòi hỏi của thị trường quốc

9



tế, tăng uy tín của ngân hàng thương mại trong nước nói riêng, phát triển kinh
tế nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Việt Nam, cho đến nay, thanh toán bằng thư tín dụng vẫn là một đề

tài thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều tác giả, có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu như sau:
-

"Vận dụng UCP 500 để giải quyết các tranh chấp trong thanh toán

xuất nhập khẩu bằng phương thức tín dụng chứng từ", của Nguyễn Xuân Thu,
Luận văn thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Ngoại thương, 1998. Với đề tài này,
tác giả đi sâu vào phân tích những tranh chấp có thể có trong hoạt động thanh
toán quốc tế bằng tín dụng chứng từ theo UCP và vận dụng những quy định
của UCP để giải quyết những tranh chấp đó.
-

"Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam và thực tiễn

áp dụng", của Đỗ Văn Sử, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2004. Trong đề tài này, tác giả đã tìm hiểu các quy định hiện
hành về thanh toán bằng thư tín dụng, so sánh, đối chiếu với thông lệ quốc tế
và tìm kiếm giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thanh toán
bằng tín dụng chứng từ.
-


"Pháp luật về thanh toán bằng thư tín dụng ở Việt Nam trong điều

kiện hội nhập kinh tế quốc tế", của Cao Xuân Quảng, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008. Tác giả đã nghiên cứu bản
chất của thư tín dụng, thực tiễn các tranh chấp phát sinh phổ biến, từ đó đề ra
phương hướng về việc xây dựng một văn bản có tính pháp lý cao điều chỉnh
hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ.
Các đề tài trên đã đóng góp những kết luận khoa học có giá trị trong
quá trình tìm hiểu phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, tuy nhiên, vẫn
chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại
trong trường hợp phát hành thư tín dụng. Vì vậy, đề tài "Quyền và nghĩa

10


vụ của ngân hàng thương mại trong trường hợp phát hành thư tín dụng theo
pháp luật Việt Nam" không có sự trùng lặp so với những đề tài khác đã được
đưa ra cho tới thời điểm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá những quy định của luật Việt Nam (chủ
yếu là luật ngân hàng) hiện hành về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương
mại trong trường hợp phát hành thư tín dụng theo pháp luật Việt Nam, thực
tiễn áp dụng những quy định này từ đó đề xuất ý kiến để hoàn thiện những quy
định đó, góp phần nâng cao vai trò của ngân hàng thương mại cũng như hiệu
quả của dịch vụ phát hành thư tín dụng.
Làm rõ hơn những vấn đề lí luận chung về phát hành thư tín dụng;
phân tích nội dung của quy định: Quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương
mại trong trường hợp phát hành thư tín dụng theo pháp luật Việt Nam; Nghiên
cứu, đánh giá thực tiễn, đề xuất giải pháp.

4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
-

Có cái nhìn cơ bản nhất về dịch vụ phát hành thư tín dụng mà ngân

hàng thương mại cung cấp, phục vụ.
-

Nghiên cứu quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong

trường hợp phát hành thư tín dụng theo pháp luật Việt Nam.
-

Đề xuất những giải pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, hạn chế tranh chấp

trong quá trình ngân hàng thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình khi phát hành
thư tín dụng, từ đó hoàn thiện các quy định của pháp luật về lĩnh vực này.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Dựa trên những quy định của pháp luật Việt Nam, đề tài nghiên cứu
quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại trong trường hợp phát hành thư
tín dụng theo pháp luật Việt Nam.

11


- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu đề tài dưới góc độ pháp luật ngân hàng, chủ yếu
trên cơ sở các quy định của luật ngân hàng Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của
ngân hàng thương mại phục vụ bên trả tiền và ngân hàng thương mại phục vụ

bên thụ hưởng khi phát hành thư tín dụng; đề tài cũng tập trung làm rõ một số
rủi ro, tranh chấp mà ngân hàng thương mại thường gặp trong quá trình thực
hiện quyền và nghĩa vụ đó. Các rủi ro, tranh chấp phát sinh giữa bên mua - bên
bán trong quá trình mua bán và cách giải quyết sẽ không thuộc phạm vi nghiên
cứu của luận văn này.
6. Phương pháp nghiên cứu
Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài
chính, ngân hàng, đề tài nghiên cứu đã được học viên sử dụng các phương
pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích, đánh giá tình trạng pháp lý của
các ngân hàng thương mại, các lợi ích cũng như rủi ro của việc cung cấp dịch
vụ phát hành thư tín dụng cho khách hàng của ngân hàng thương mại và đưa ra
giải pháp nhằm hạn chế rủi ro từ đó nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát về thư tín dụng và những vấn đề pháp lý liên quan.

Chương 2: Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của ngân hàng thương mại
trong việc phát hành thư tín dụng và thực trạng phát hành thư tín dụng theo
pháp luật Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phát
hành thư tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam.

12


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THƯ TÍN DỤNG
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ LIÊN QUAN


1.1. KHÁI QUÁT NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯ TÍN DỤNG

1.1.1. Lịch sử ra đời của thư tín dụng
Kinh tế hàng hóa phát triển, nhu cầu mở rộng thị trường đã làm cho các
quan hệ mua bán không còn giới hạn trong phạm vi không gian nhỏ hẹp của
từng khu vực như trước. Chính trong quá trình tiến hành các hoạt động mua
bán đã dẫn đến việc chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở những khu vực địa lý
cách xa nhau. Tuy nhiên, khoảng cách về địa điểm gây nhiều trở ngại, tốn kém
chi phí đi lại khi đôi bên mua bán trực tiếp thanh toán tiền hàng cho nhau. Xuất
phát từ nhu cầu này, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các ngân
hàng với mạng lưới chi nhánh và hệ thống ngân hàng đại lý rộng khắp đã trở
thành cầu nối trung gian thanh toán giữa các bên mua bán, từ đó hình thành và
phát triển các dịch vụ thanh toán, đặc biệt là trong lĩnh vực thanh toán quốc tế.
Thanh toán là một khâu quan trọng trong quá trình mua bán hàng hóa, dịch vụ
giữa các tổ chức, cá nhân. Bởi lẽ, khi hoạt động thanh toán được nhanh chóng,
an toàn, chính xác sẽ giải quyết được mối quan hệ lưu thông hàng hóa - tiền tệ
giữa người mua - người bán một cách trôi chảy, hiệu quả, góp phần thúc đẩy và
tăng cường sự hợp tác giao thương giữa đôi bên. Có nhiều phương thức và với
mỗi phương thức có phương tiện tương ứng để thực hiện thanh toán. Nhưng
với những ưu điểm vượt trội thì phương thức tín dụng chứng từ với phương
tiện là thư tín dụng được sử dụng thông dụng và phổ biến hơn cả so với các
phương thức còn lại. Như vậy, phương thức tín dụng chứng từ gắn với thư tín
dụng đã ra đời là một sáng tạo trong cung ứng dịch vụ thanh toán nhằm mục
tiêu đảm bảo thực hiện hoạt động thanh toán một cách thuận tiện, hiệu quả.

13


1.1.2. Khái niệm, vai trò và đặc điểm pháp lý của thư tín dụng

1.1.2.1. Khái niệm thư tín dụng
Thư tín dụng hay tín dụng thư, tín dụng chứng từ là một công cụ trong
thanh toán.
Điều 3 Các Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ, bản
sửa đổi năm 2007, số xuất bản 600 (sau đây viết tắt là UCP 600) định nghĩa về
tín dụng chứng từ như "một sự thỏa thuận bất kỳ, cho dù được mô tả hoặc gọi
tên thế nào, thể hiện một cam kết chắc chắn và không hủy ngang của ngân
hàng phát hành về việc thanh toán khi xuất trình phù hợp" [41].
Khoản 1 Điều 16 Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung
ứng dịch vụ thanh toán (ban hành kèm theo Quyết định 226/2002/QĐ-NHNN
ngày 26/03/2002 về ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán) định nghĩa như sau: Thư tín dụng là một văn bản
cam kết có điều kiện được ngân hàng mở theo yêu cầu của người sử dụng dịch
vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng), theo đó, ngân hàng thực hiện yêu
cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán (người xin mở thư tín dụng) để:
+

Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền ngay theo lệnh

của người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các
điều kiện của thư tín dụng, hoặc
+

Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo

lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín
dụng.
Về cơ bản, khái niệm thư tín dụng được đưa ra tại Quyết định số
226/2002/QĐ-NHNN có sự tương thích với khái niệm của UCP khi quy định

về thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Theo đó, cả hai khái niệm trên đều thể
hiện rằng thư tín dụng là một văn bản cam kết và chỉ được thanh toán khi xuất
trình được bộ chứng từ phù hợp. Tuy nhiên, khái niệm về thư tín dụng trong
14


Quyết định số 226 chưa thể hiện được tính chất "không hủy ngang" mà trong
UCP đã quy định.
Một cách khái quát, phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa
thuận, trong đó:
Theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở thư tín
dụng), một ngân hàng (ngân hàng phát hành thư tín dụng) sẽ phát
hành một bức thư gọi là thư tín dụng, theo đó, ngân hàng phát hành
cam kết trả tiền cho một bên thứ ba (người thụ hưởng thư tín dụng)
khi người này xuất trình cho ngân hàng phát hành bộ chứng từ thanh
toán phù hợp với những điều kiện và điều khoản quy định của thư
tín dụng [28, tr. 158].
Như vậy, có thể hiểu thư tín dụng - letter of credit (L/C) là một cam kết
thanh toán có điều kiện bằng văn bản của một tổ chức tài chính (thường là
ngân hàng) đối với người thụ hưởng (thông thường là người bán hàng hoặc
người cung cấp dịch vụ) với điều kiện người thụ hưởng phải xuất trình bộ
chứng từ phù hợp với tất cả các điều khoản được quy định trong thư tín dụng,
phù hợp với quy tắc thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ (UCP) được
dẫn chiếu trong thư tín dụng và phù hợp với tập quán ngân hàng tiêu chuẩn
quốc tế dùng để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng chứng từ
(ISBP). Người có nghĩa vụ chi trả lệnh cho ngân hàng phục vụ mình trích số
tiền ghi trên thư tín dụng từ tài khoản tiền gửi ra một tài khoản riêng. Ngân
hàng sẽ thực hiện yêu cầu của người sử dụng dịch vụ thanh toán để:
+


Trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo lệnh của

người thụ hưởng khi nhận được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều
kiện thanh toán của thư tín dụng.
+

Chấp nhận sẽ trả tiền hoặc ủy quyền cho ngân hàng khác trả tiền theo

lệnh của người thụ hưởng vào một thời điểm nhất định trong tương lai khi nhận
được bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều kiện thanh toán của thư tín
dụng.
15


+

Ngân hàng phát hành phát hành một thư tín dụng cam kết thanh toán

cho người thụ hưởng một số tiền nhất định khi người thụ hưởng xuất trình bộ
chứng từ theo quy định của thư tín dụng, chứng minh người thụ hưởng hoàn
thành nghĩa vụ cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian nhất
định được quy định trong thư tín dụng. Khi đó, sau khi người thụ hưởng hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng hóa hoặc dịch vụ, lập bộ chứng từ, xuất trình bộ
chứng từ cho ngân hàng phát hành hoặc ngân hàng chỉ định trong khoảng thời
gian quy định của tín dụng thư để được thanh toán.
Thư tín dụng được coi như là "linh hồn" của phương thức tín dụng
chứng từ. Nếu phương thức tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận thì thư tín
dụng chính là văn bản pháp lý thể hiện và đảm bảo cho sự thỏa thuận đó.
1.1.2.2. Vai trò của thư tín dụng trong hoạt động thanh toán quốc tế
nói chung và ở Việt Nam nói riêng

-

Với ưu thế về sự đảm bảo an toàn trong thanh toán, thư tín dụng đã có

vai trò trong việc thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu giữa các quốc gia. Sự tin
tưởng giữa các bên trong hoạt động mua bán ngoại thương xuất phát từ chính
cam kết chắc chắn thanh toán của ngân hàng phát hành khi hai bên thỏa thuận
áp dụng thư tín dụng trong quá trình mua bán của mình sẽ làm thúc đẩy mối
quan hệ xuất nhập khẩu giữa các bên.
-

Thư tín dụng được phát hành đã giải quyết được mâu thuẫn về lợi ích

giữa hai bên: bên xuất khẩu và bên nhập khẩu. Người nhập khẩu sẽ không phải
lo ngại trường hợp người xuất khẩu nhận tiền rồi song từ chối giao hàng vì
không phải trả tiền trước. Ngược lại, người xuất khẩu cũng sẽ không phải lo
lắng rằng người nhập khẩu đã nhận hàng nhưng không thanh toán vì người
xuất khẩu sẽ được nhận tiền trước khi giao hàng.
-

Thư tín dụng là một công cụ linh hoạt để thực hiện việc thanh toán do

thư tín dụng không bị phụ thuộc vào hợp đồng cơ sở. Các bên có thể thực hiện
việc thanh toán thông qua một bên trung gian mà không cần thiết phải

16


gặp gỡ trực tiếp, hơn nữa, đây cũng là một hình thức tài trợ thương mại và cấp
tín dụng rất hữu hiệu cho các nhà xuất khẩu.

-

Nâng cao vai trò của ngân hàng trong hoạt động cung cấp dịch vụ

một cách tốt nhất đối với khách hàng. Ngân hàng sẽ đại diện cho nhà nhập
khẩu thanh toán tiền hàng cho nhà xuất khẩu, bảo đảm cho nhà xuất khẩu nhận
được khoản tiền tương ứng với hàng hóa mà họ đã cung ứng [9, tr. 14].
1.1.2.3. Đặc điểm pháp lý của thư tín dụng
- Thư tín dụng là hợp đồng kinh tế hai bên
Trên thực tế, thư tín dụng là hợp đồng kinh tế độc lập giữa hai bên là
ngân hàng phát hành và người thụ hưởng. Mọi yêu cầu và chỉ thị của người xin
mở thư tín dụng đã do ngân hàng phát hành đại diện, do đó, tiếng nói chính
thức của người yêu cầu mở thư tín dụng không được thể hiện trong thư tín
dụng. Vì vậy, mặc dù sửa đổi thư tín dụng đã được người xuất khẩu và người
nhập khẩu đồng ý nhưng nếu ngân hàng phát hành không chấp nhận thì sửa đổi
đó sẽ không có giá trị thực hiện.
-

Giao dịch tín dụng chứng từ là một giao dịch độc lập với hợp đồng

cơ sở và các giao dịch khác
Theo quy định tại Điều 4 UCP 600 thì thư tín dụng không phụ thuộc
vào hợp đồng cơ sở (hợp đồng mà xuất phát từ hợp đồng đó người ta tiến hành
mở thư tín dụng). Các ngân hàng không liên quan hoặc bị ràng buộc bởi các
hợp đồng như thế ngay cả khi thư tín dụng có dẫn chiếu đến các hợp đồng đó.
Về bản chất, thư tín dụng là một giao dịch hoàn toàn độc lập với hợp
đồng ngoại thương hoặc hợp đồng khác (những hợp đồng là cơ sở hình thành
giao dịch thư tín dụng). Trong mọi trường hợp, ngân hàng không bị ràng buộc
bởi những hợp đồng này. Một số nhà nhập khẩu không hiểu hoặc bỏ qua
nguyên tắc này, khi gặp rủi ro trong giao dịch hợp đồng cơ sở đã khiếu nại

và/hoặc ngăn cản việc ngân hàng thanh toán bộ chứng từ xuất trình phù hợp.
Điều này là không phù hợp với thông lệ quốc tế.

17


-

Thư tín dụng chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ

vào chứng từ
Điều 5 UCP 600 quy định: Các ngân hàng làm việc với nhau trên cơ sở
chứng từ chứ không quan tâm đến hàng hóa, dịch vụ. Cho dù người bán giao
hàng bị thiếu, hàng kém chất lượng, giao hàng sai nhưng nếu trên bề mặt
chứng từ thể hiện phù hợp với thư tín dụng, UCP, ISBP thì ngân hàng phát
hành phải thanh toán cho người thụ hưởng. Các bên tham gia trong thư tín
dụng không được lợi dụng vào tình trạng hàng hóa, dịch vụ được giao để trì
hoãn việc thanh toán.
Các chứng từ trong giao dịch thư tín dụng có tầm quan trọng đặc biệt.
Nó là bằng chứng về việc giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hàng
hóa đã được giao, do đó, trở thành căn cứ để ngân hàng thanh toán, là căn cứ
để nhà nhập khẩu hoàn trả tiền cho ngân hàng, là chứng từ đi nhận hàng của
nhà nhập khẩu. Khi chứng từ xuất trình là phù hợp thì ngân hàng phát hành
phải thanh toán vô điều kiện cho nhà xuất khẩu mặc dù trên thực tế hàng hóa
có thể không được giao hoặc được giao không đúng như ghi trên chứng từ.
1.1.3. Nội dung và tính chất của thư tín dụng
1.1.3.1. Nội dung của thư tín dụng
Thông thường, trong một thư tín dụng sẽ có các nội dung như sau:
-


Số hiệu của thư tín dụng nhằm tạo thuận tiện trong việc trao đổi

thông tin giữa các bên có liên quan trong quá trình giao dịch thanh toán và ghi
vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ thanh toán.
-

Địa điểm mở thư tín dụng là nơi ngân hàng mở phát hành thư tín

dụng cam kết trả tiền cho người hưởng lợi. Địa điểm này có ý nghĩa quan trọng
vì nó liên quan đến việc tham chiếu luật lệ áp dụng, đến việc giải quyết những
bất đồng xảy ra (nếu có).
-

Ngày mở thư tín dụng là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực sự

cam kết của ngân hàng mở thư tín dụng đối với người hưởng lợi, là ngày ngân
18


hàng mở chính thức chấp nhận đơn xin mở của người nhập khẩu, là ngày bắt
đầu tính thời hạn hiệu lực của thư tín dụng và cũng là căn cứ để người xuất
khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có mở thư tín dụng đúng thời hạn không.
-

Loại thư tín dụng: Khi mở thư tín dụng, người yêu cầu mở phải xác

định cụ thể loại thư tín dụng. Mỗi loại thư tín dụng khác nhau quy định quyền
lợi và nghĩa vụ những người liên quan tới thư tín dụng cũng khác nhau.
-


Tên, địa chỉ của những người liên quan đến phương thức tín dụng

chứng từ: Người yêu cầu mở thư tín dụng, người hưởng lợi, ngân hàng mở thư
tín dụng, ngân hàng thông báo, ngân hàng trả tiền (nếu có), ngân hàng xác
nhận (nếu có)…
-

Số tiền của thư tín dụng: Số tiền phải được ghi vừa bằng số và bằng

chữ và phải thống nhất với nhau. Tên đơn vị tiền tệ phải ghi cụ thể, chính xác.
Không nên ghi số tiền dưới dạng một con số tuyệt đối vì như vậy sẽ có thể khó
khăn trong việc giao hàng và nhận tiền của bên bán. Cách tốt nhất là ghi một số
lượng giới hạn mà người bán có thể đạt được.
-

Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng là thời hạn mà ngân hàng mở cam

kết trả tiền cho người hưởng lợi nếu người này xuất trình được bộ chứng từ
trong thời hạn hiệu lực đó và phù hợp với quy định trong thư tín dụng đó.
-

Thời hạn trả tiền của thư tín dụng liên quan đến việc trả tiền ngay hay

trả tiền về sau (trả chậm). Điều này hoàn toàn tùy thuộc vào quy định của hợp
đồng thương mại đã ký kết. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu
lực của thư tín dụng (nếu trả tiền ngay) hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực (nếu
trả chậm). Trong trường hợp này, cần lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn phải được
xuất trình để chấp nhận trong thời hạn có hiệu lực của thư tín dụng.
-


Thời hạn giao hàng được ghi trong thư tín dụng và cũng do hợp đồng

mua bán ngoại thương quy định. Đây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển
giao xong hàng cho bên mua kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực. Thời hạn giao
hàng liên quan chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của thư tín dụng. Nếu

19


hai bên thỏa thuận kéo dài thời gian giao hàng thêm một số ngày thì ngân hàng
mở thư tín dụng cũng sẽ hiểu rằng thời hạn hiệu lực của thư tín dụng cũng
được kéo dài thêm một số ngày tương ứng.
-

Những nội dung liên quan tới hàng hóa như tên hàng, số lượng, trọng

lượng, giá cả, quy cách, phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu…
-

Những nội dung về vận chuyển, giao nhận hàng hóa: Điều kiện cơ sở

về giao hàng (FOB, CIF…), nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng…
cũng được thể hiện đầy đủ và cụ thể trong nội dung thư tín dụng.
-

Các chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình. Đây cũng là một

nội dung rất quan trọng của thư tín dụng. Bộ chứng từ thanh toán là căn cứ để
ngân hàng kiểm tra mức độ hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao hàng hóa của
người xuất khẩu để tiến hành việc trả tiền cho người hưởng lợi. Ngân hàng mở

thư tín dụng thường yêu cầu người hưởng lợi đáp ứng những yếu tố liên quan
tới chứng từ sau đây:
+

Các loại chứng từ phải xuất trình căn cứ theo yêu cầu đã được thỏa

thuận trong hợp đồng thương mại. Thông thường, một bộ chứng từ gồm:
• Hối phiếu thương mại (commercial bill of exchange)
• Hóa đơn thương mại (commercial invoice)
• Vận đơn hàng hải (Ocean bill of lading)
• Chứng nhận bảo hiểm (insurance policy)
• Chứng nhận trọng lượng (certificate of quality)
• Danh sách đóng gói (packing list)
• Chứng nhận kiểm nghiệm (inspection certificate)
+

Số lượng bản chứng từ thuộc mỗi loại, thể hiện nội dung phù hợp với

các yêu cầu của thư tín dụng, bản thân các chứng từ không mâu thuẫn nhau về
mặt nội dung. Ví dụ: Thư tín dụng yêu cầu xuất trình bao nhiêu loại chứng từ,
mỗi loại bao nhiêu bản gốc, bao nhiêu bản sao, ngày phát hành

20


trong khoảng thời gian nào, nội dung thể hiện ra sao… thì bộ chứng từ do
người thụ hưởng xuất trình phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu đó.
+ Yêu cầu về việc ký phát từng loại chứng từ.
+ Bộ chứng từ phải phù hợp với UCP được dẫn chiếu trong thư tín
dụng.


+ Bộ chứng từ phải phù hợp với ISBP.
-

Sự cam kết của ngân hàng mở thư tín dụng. Đây là nội dung ràng

buộc trách nhiệm mang tính pháp lý của ngân hàng mở thư tín dụng đối với thư
tín dụng mà mình đã mở. Ví dụ: Phần cam kết trong một thư tín dụng thường
được diễn đạt như sau: Chúng tôi cam kết với những người ký phát hoặc người
cầm phiếu trung thực rằng các hối phiếu được ký phát và chiết khấu phù hợp
với các điều khoản của thư tín dụng này sẽ được thanh toán khi xuất trình và
các hối phiếu được chấp nhận theo điều khoản của thư tín dụng sẽ được thanh
toán.
1.1.3.2. Tính chất của thư tín dụng
Thư tín dụng là một văn bản hình thành trên cơ sở của hợp đồng ngoại
thương nhưng sau khi được thiết lập nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này.
Một khi thư tín dụng đã được mở và được các bên chấp nhận thì cho dù nội
dung của thư tín dụng có đúng với nội dung của hợp đồng ngoại thương hay
không cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên
quan. Một khía cạnh khác biểu hiện tính độc lập của thư tín dụng với hợp đồng
là ở chỗ, khi người thụ hưởng thư tín dụng xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo,
ngân hàng phát hành đã thanh toán, song khi nhận hàng, nhà nhập khẩu phát
hiện hàng hóa không đúng quy định trong hợp đồng đã ký kết, thì mọi tranh
chấp sẽ do hai bên mua bán tự giải quyết, các ngân hàng được miễn trách
nhiệm. Điều 4 UCP 600 có ghi: "Cam kết của ngân hàng về việc thanh toán,
chiết khấu hay thực thi bất cứ nghĩa vụ nào của thư tín dụng không phụ thuộc
vào sự khiếu nại hoặc biện hộ của người mở phát sinh từ mối quan hệ của
người mở với ngân hàng phát hành hoặc với người hưởng" [41]. Vì vậy,
21



trong giao dịch thư tín dụng, tất cả các bên tham gia chỉ căn cứ vào chứng từ
mà không căn cứ vào hàng hóa, dịch vụ và/hoặc các thực hiện khác mà các
chứng từ có thể liên quan. Trong thực tế, một số nhà nhập khẩu có thể sử dụng
thư tín dụng như là công cụ dự phòng để cụ thể hóa, chi tiết hóa hoặc bổ sung
những điều khoản mà hợp đồng thương mại còn sót. Ngoài ra, nó còn để đính
chính, sửa chữa những nội dung bất lợi trong hợp đồng ngoại thương đã ký kết.
Tóm lại, về mặt tài chính - ngân hàng, thư tín dụng là một phương thức
thanh toán liên quan đến việc xuất trình bộ chứng từ hợp lệ. Người bán sẽ được
đảm bảo thanh toán nếu xuất trình tại ngân hàng bộ chứng từ phù hợp với
những quy định đề ra. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ cũng có thể
hiểu như là một khoản tạm ứng mà ngân hàng dành cho nhà nhập khẩu hoặc
nhà xuất khẩu. Từ tính chất của thư tín dụng có thể suy ra: chỉ có những tổ
chức tín dụng mới có quyền thực hiện các giao dịch này và do tính độc quyền
của hoạt động ngân hàng, giao dịch thanh toán này chỉ có thể được thực hiện
thường xuyên bởi các tổ chức tín dụng.
1.2. PHÂN LOẠI THƯ TÍN DỤNG

Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, với nội dung kỹ thuật
nghiệp vụ của nó, đã đem lại cho phương thức thanh toán này những ưu việt
hơn so với các phương thức thanh toán khác. Tuy nhiên, hiệu quả của phương
thức này sẽ được thể hiện một cách đầy đủ hơn khi ta biết lựa chọn loại thư tín
dụng phù hợp với yêu cầu của từng tình huống cụ thể, trong mối quan hệ
thương mại quốc tế nảy sinh giữa các bên. Theo quy ước quốc tế, tín dụng thư
có nhiều loại. Tuy nhiên, có một số loại phổ biến được phân biệt theo những
góc độ sau đây.
1.2.1. Theo tính chất có thể hủy ngang
1.2.1.1. Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable letter of credit)
Thư tín dụng có thể hủy ngang là thư tín dụng mà người mở thư tín
dụng có quyền đề nghị ngân hàng mở thư tín dụng sửa đổi, bổ sung hoặc hủy


22


bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự chấp nhận và thông báo trước của người
thụ hưởng.
Loại này đã bị bỏ theo UCP 600 và tất cả các thư tín dụng là không thể
hủy ngang trong trường hợp thư tín dụng dẫn chiếu đến UCP 600.
1.2.1.2. Thư tín dụng không thể hủy ngang (Irrevocable letter of credit)
Thư tín dụng không thể hủy ngang là thư tín dụng mà sau khi mở thì ngân
hàng mở thư tín dụng không được sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ trong thời hạn
hiệu lực của thư tín dụng nếu không có sự đồng ý của người thụ hưởng và ngân
hàng xác nhận. Một thư tín dụng được đương nhiên hiểu là thư tín dụng không thể
hủy ngang trừ khi được nói rõ là thư tín dụng có thể hủy ngang.

1.2.2. Theo cách thức thực hiện thanh toán
1.2.2.1. Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause letter of credit)
Thư tín dụng điều khoản đỏ là loại thư tín dụng có điều kiện, cho phép
người hưởng được nhận một khoản tiền trước khi giao hàng trên cơ sở hối phiếu
trơn hay hối phiếu kèm chứng từ chứng minh rằng đã có hàng để giao như biên lai
kho hàng (warrant hay warehouse’s receipt), biên lai của người nhận (forwarder’s
receipt). Thông thường, khi nhận khoản tiền ứng trước này, người hưởng lợi có
thể viết cam kết cho ngân hàng là sẽ xuất trình một bộ chứng từ theo quy định của
thư tín dụng. Sau đó, khoản ứng trước sẽ được khấu trừ vào tiền thanh toán bộ
chứng từ. Gọi là thư tín dụng điều khoản đỏ vì trước đây loại thư tín dụng này
được in bằng mực đỏ để tăng sự chú ý cho loại hình đặc biệt này nhằm tránh hiện
tượng thanh toán lại khoản tiền đã ứng trước.

Đặc điểm và trường hợp sử dụng:
+


Điều khoản này được đưa ra theo yêu cầu riêng của người mở thư tín

dụng, có thể hiểu là tiền ứng trước được lấy từ tài khoản của người mở, nghĩa
là tín dụng thương mại chứ không phải là tín dụng của ngân hàng thông báo
hay ngân hàng phát hành.

23


+

Ngân hàng thông báo chỉ thực hiện các thủ tục theo điều khoản của

thư tín dụng mà không cam kết hoặc chịu trách nhiệm về số tiền đó. Việc ứng
trước tiền do ngân hàng phát hành ủy quyền cho ngân hàng thông báo thực
hiện và được thanh toán lại bởi ngân hàng phát hành.
+

Là một hình thức cấp vốn cho bên bán để mua hàng hóa, nguyên vật

liệu từ người cung cấp khác hoặc đã mua hạn ngạch.
+

Số tiền thanh toán cuối cùng mà người xuất khẩu nhận được khi xuất

trình chứng từ giao hàng tới ngân hàng thanh toán bằng số tiền hóa đơn trừ đi
số tiền đã ứng trước.
Ưu điểm đối với các bên:
+


Về phía người bán: Người bán nhận được khoản tín dụng thương

mại, giảm gánh nặng về tài chính, có thị trường xuất khẩu ổn định.
+

Về phía người mua: Người mua hưởng được giá hàng thấp hơn và ổn

định được nguồn hàng nhập khẩu ngay cả khi giá cả quốc tế biến động, do đã
tạo được uy tín, thiện cảm đối với người bán.
1.2.2.2. Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving letter of credit)
Thư tín dụng tuần hoàn là một cam kết từ phía ngân hàng phát hành
phục hồi lại giá trị ban đầu của thư tín dụng sau khi nó đã được sử dụng. Số lần
phục hồi và khoảng thời gian còn hiệu lực phải được quy định trong thư tín
dụng. Thư tín dụng tuần hoàn có thể được tích lũy hoặc không được tích lũy.
+

Thư tín dụng tuần hoàn tích lũy: Số tiền đã sử dụng có thể được thêm

vào cho lần giao hàng kế tiếp.
+

Thư tín dụng tuần hoàn không được tích lũy: Những khoản tiền từng

phần không được sử dụng sau khi đã hết thời hạn hiệu lực.
Thư tín dụng có thể tuần hoàn theo ba cách:
+

Tự động (automatic): Sau khi sử dụng xong, thư tín dụng lại tự động


có giá trị như cũ, không cần thông báo của ngân hàng mở. Trong thư tín dụng

24


ghi "We open irrevocable L/C revolving monthly. The full amount again
becomes available under the same terms and conditions, on the first day of
each calendar month".
+

Bán tự động (part automatic): Sau khi sử dụng thư tín dụng, trong

một thời hạn luật định, nếu không có thông báo gì từ phía ngân hàng mở thư
tín dụng thì một thư tín dụng mới với các điều kiện tương tự lại tiếp tục có hiệu
lực. Trong thư tín dụng ghi "This will be operative for the second and third
shipment unless otherwise notice by us".
+

Hạn chế (restrictive): Phải có thông báo của ngân hàng mở về hiệu

lực của một thư tín dụng mới được tái lập thư tín dụng thì thư tín dụng đó mới
có giá trị. Trong thư tín dụng ghi "Reinstatement by us by way of…".
Thư tín dụng có thể tuần hoàn theo số tiền hoặc theo thời gian. Khi
tuần hoàn theo thời gian, thư tín dụng phải ghi rõ ngày hết hiệu lực của mỗi lần
tuần hoàn, đồng thời phải quy định rõ thư tín dụng đó là tuần hoàn tích lũy hay
không tích lũy.
Đặc điểm và trường hợp sử dụng: Để tránh gây ứng đọng vốn không
cần thiết, tiết kiệm thời gian, chi phí, thư tín dụng tuần hoàn thường được sử
dụng trong các trường hợp người mua muốn hàng hóa được giao từng phần tại
những thời điểm quy định (hợp đồng giao hàng nhiều lần) hoặc cho những

chuyến giao hàng đều đặn, lặp đi lặp lại hoặc các bên tham gia mua bán quen
thuộc, có tiếng trên thị trường và tin cậy lẫn nhau.
Ưu điểm đối với các bên:
+

Đối với người mua: Thư tín dụng tuần hoàn tạo điều kiện tốt cho

người mua mua được hàng hóa trong suốt thời gian dài khi thị trường đang có
lợi thế cho mình. Bên mua cũng không muốn nhận hàng ngay cùng một lúc vì
phải tính đến chi phí lưu kho, bảo quản và việc quay tròn vốn. Khi mở thư tín
dụng tuần hoàn thì không phải yêu cầu ngân hàng mở thêm các thư tín dụng
khác cho cùng một đơn đặt hàng, giúp người mua không bị ứ đọng vốn, không
bị tính phí mở nhiều lần thư tín dụng.
25


×