Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.46 KB, 115 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

CHươNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN CỂ ĐĂNG KÍ QUYỀN SỞ HỮU

8

Các vấn đề chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có đăng ký quyền sở hữu trong luật hình sự Việt Nam

8

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình
sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản

8

1.1.2.

Khái niệm đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản



17

1.1.3.

Khái niệm và những đặc điểm của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu

20

1.2.

Quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và kinh
nghiệm rút ra đối với pháp luật hình sự Việt Nam

33

1.2.1.

Bộ luật hình sự Việt Nam

34

1.2.2.

Bộ luật hình sự Liên bang Nga

35


1.2.3.

Bộ luật hình sự Trung Quốc

36

1.1.


1.2.4.

Bộ luật hình sự Thụy Điển

38

1.2.5.

Kinh nghiệm rút ra qua việc nghiên cứu pháp luật các nước
trên thế giới

39

Chương 2: TÌNH HÌNH TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN
XÉT XỬ TỘI PHẠM LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

41

2.1.


Tình hình tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trong luật hình sự Việt Nam

41

2.2.

Thực tiễn xét xử tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản

45

2.2.1.

Các vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản điển hình

46

2.2.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm 60
đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu với
giao dịch dân sự, kinh tế và một số tội
phạm khác trong luật hình sự Việt Nam
2.2.3.Vấn đề "hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế" có liên 71
quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu hiện nay ở nước
ta
2.2.4.Những nhận xét, đánh giá và các nguyên nhân cơ bản

77

Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG 80

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 (SỬA
ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009) VỀ TỘI LẠM
DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI
SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU


3.1.

Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu

80

3.1.1.

Những cơ sở khoa học - thực tiễn của việc hoàn thiện

80

3.1.2.

Nội dung sửa đổi, bổ sung

81

3.2.


Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có đăng ký quyền sở hữu

88

3.2.1.

Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân

88

3.2.2.

Nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ chấp
hành viên, kiểm sát viên, thẩm phán, hội thẩm nhân dân

90

3.2.3.

Tăng cường phát triển đội ngũ Luật sư, trợ giúp pháp lý

90

3.2.4.

Tăng cường phòng, chống "hình sự hoá" các quan hệ dân
sự, kinh tế có liên quan đến tài sản có đăng ký quyền sở

hữu

91

KÕt luËn

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

96


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Số vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và số

41

bị cáo
2.2


Động thái số vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

42

trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2010 (lấy số vụ án
năm 2000 làm mốc so sánh)
2.3

Số vụ lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tổng số

43

vụ án hình sự
2.4

Áp dụng hình phạt trong xét xử tội phạm lạm dụng tín

44

nhiệm chiếm đoạt tài sản
2.5

Số bị cáo bị chuyển hồ sơ vụ án, đình chỉ, trả hồ sơ lại
Viện kiểm sát, không có tội

60


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khách quan không thể thiếu trong bất
kỳ một thể chế chính trị nào. Pháp luật có vai trò quan trọng trong đời sống xã
hội và đời sống chính trị của một quốc gia; cũng chính vì vậy mà pháp luật vô
cùng phức tạp và có nhiều quan niệm, nhận thức khác nhau về pháp luật. Tuy
vậy, có một điều có thể khẳng định rằng: Pháp luật luôn luôn có sau các quan hệ
xã hội và không thể điều chỉnh hết được tất cả các quan hệ xã hội. Điều đó dẫn
đến: "Pháp luật, dù có hoàn thiện đến mấy cũng không thể phản ánh và quy định
hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống" [48].

Đây là một sự thật khách quan mà bất kỳ một thể chế chính trị, một
quốc gia nào hoặc một nhà lập pháp xuất sắc nào đều phải thừa nhận. Quan hệ
xã hội thì rất nhiều, được thể hiện ở muôn hình vạn trạng và luôn luôn nảy
sinh quan hệ xã hội mới. Vì vậy, pháp luật không bao giờ có thể hoàn mỹ khi
xã hội còn luôn vận động. Do đó, nhiệm vụ của cơ quan lập pháp, nhà làm
luật, người dân, mọi thành phần trong xã hội là làm thế nào để pháp luật có
thể phù hợp với xã hội, bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho nhân dân.
Cũng chính vì thế mà không ngừng hoàn thiện pháp luật là mục tiêu,
định hướng chiến lược của mỗi quốc gia, thể chế chính trị. Các cơ quan lập
pháp, người dân, cả xã hội đang từng ngày, từng giờ cố gắng "phản ánh" các
quan hệ xã hội vào pháp luật bằng các quy định. Những nhà nghiên cứu cũng
đang miệt mài tìm hiểu, phân tích đánh giá, so sánh pháp luật để có thể góp
những ý kiến "phản ánh" đến các quan hệ pháp luật để pháp luật ngày càng
hoàn thiện hơn. Đó cũng chính là mong muốn, hành động của chúng tôi Những nhà nghiên cứu luật học đang nghiên cứu luận văn thạc sỹ về đề tài:
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối tượng là tài sản có đăng
ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt Nam.


Nghiên cứu pháp luật hình sự Việt Nam về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký

quyền sở hữu trong 10 năm (2000 - 2010) cho thấy: Tình hình tội phạm lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu ngày càng gia
tăng về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Đây là loại tội phạm mà
người phạm tội có thể gây ra thiệt hại cho rất nhiều người, có những vụ mà
chỉ có một bị cáo nhưng có đến gần 30 người bị hại, chưa kể những người liên
quan khác. Đối với tội phạm này, tài sản bị chiếm đoạt có giá trị lớn và là
những tài sản quan trọng của gia đình người bị hại, vì thế khi tài sản có đăng
ký quyền sở hữu bị chiếm đoạt/không thể trả lại được thì làm cho người bị hại
và gia đình họ không có đủ điều kiện sinh sống, bị kiệt quệ, nợ nần chồng
chất. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của chính người bị hại
và cộng đồng, xã hội.
Đây cũng là loại tội phạm có nhiều dấu hiệu có liên quan/ bị trùng với
các dấu hiệu trong pháp luật dân sự; vì vậy mà tình hình "hình sự hóa" các
quan hệ dân sự, kinh tế trong loại tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản có đăng ký quyền sở hữu là khá nhiều. Có tình trạng như vậy là do các
quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tài sản có đăng ký
quyền sở hữu chưa được rõ ràng, cụ thể và các cơ quan nhà nước chưa có sự
hướng dẫn hợp lý đối với những tình tiết còn gây nhầm lẫn, chưa hiểu rõ. Về
mặt kỹ thuật lập pháp như vậy là chưa đáp ứng đủ yêu cầu của một quy phạm
pháp luật là không gây nhầm lẫn, có tính thống nhất theo ngành luật và được
áp dụng chung cho tất cả chủ thể tham gia quan hệ pháp luật, không để tình
trạng mỗi địa phương áp dụng một kiểu, mỗi đối tượng có cách áp dụng khác
nhau. Chính vì vậy, cần phải nghiên cứu sâu và làm rõ vấn đề lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu để góp phần xác định
những thiếu sót trong kỹ thuật lập pháp và đưa ra giải pháp bổ sung, hoàn
thiện quy phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tại Điều 140 Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).


Mặt khác, nền kinh tế nước ta đang ngày càng phát triển theo định

hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần; Việt Nam là nước có nhiều quốc gia quan tâm, đầu tư vì thế cũng có
nhiều biến động về đời sống kinh tế - xã hội trên thế giới ảnh hưởng trực
tiếp/làm biến đổi đời sống kinh tế - xã hội trong nước. Các quan hệ hợp đồng
dân sự cũng vì thế mà có sự biến động, hợp đồng dân sự trong đời sống ngày
càng nhiều, do thiếu hiểu biết của một bên chủ thể mà dẫn đến bị một bên
khác lợi dụng để dẫn đến thiệt hại về tài sản. Những quan hệ hợp đồng đó là
những quan hệ kinh tế mới mà chưa có giải pháp pháp lý phù hợp, chưa có cơ
quan nhà nước giải quyết tốt bằng một cơ chế pháp lý hoàn thiện. Điều này là
nguyên nhân làm cho người dân, cơ quan áp dụng pháp luật thường "gò ép"
các dấu hiệu của quan hệ pháp luật dân sự sang các dấu hiệu của quan hệ pháp
luật hình sự để giải quyết. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc hình sự hóa ngày
càng gia tăng.
Với nội dung nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi đã nhận thấy tình
trạng "không rõ ràng" trong việc xác định các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu và nêu ra một
số vấn đề cần phải sửa đổi cho phù hợp với quan hệ xã hội hiện nay trong việc
giao kết hợp đồng. Với mong muốn luận văn này có thể gợi ý, đóng góp và
giải quyết phần nào những tồn tại, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật trong
thực tiễn; Chúng tôi nghiên cứu đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu,
sử dụng theo luật hình sự Việt Nam để góp phần nâng cao hiệu quả công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, trong thời gian qua việc nghiên cứu về
các tội xâm phạm sở hữu bắt đầu đã được nghiên cứu, còn nghiên cứu riêng rẽ
và độc lập về tội phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký
quyền sở hữu mới chỉ được đề cập gián tiếp qua phân tích chung về cả nhóm



tội xâm phạm sở hữu và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua
các yếu tố cấu thành tội phạm (khách thể của tội phạm, mặt khách quan của
tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm) và hình phạt
trên ba bình diện khoa học:
* Ở cấp độ giáo trình đại học, sách tham khảo, chuyên khảo hay sách
bình luận: 1) TS. Nguyễn Ngọc Chí, Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu,
Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Tập thể tác
giả do GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003;

2) ThS. Nguyễn Sỹ Đại, Chương XIV - Các tội xâm phạm sở hữu, Trong sách:
Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm), Tập thể tác
giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự Phần các tội phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở
hữu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002; 4) Chuyên đề phòng ngừa, phát
hiện đấu tranh chống các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 1999; 5) Kỷ yếu Hội thảo Khoa học: Bộ luật hình
sự Việt Nam năm 1999, do Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2000.
* Ở cấp độ khác: Qua nghiên cứu cho thấy, trong khoa học luật hình sự
Việt Nam trước đây và hiện nay chưa có khóa luận, luận văn hay luận án tiến sĩ
luật học nào đề cập đến tội phạm này.

Như vậy, qua nghiên cứu nội dung các công trình trên cho thấy: Một
số công trình có phạm vi nghiên cứu rộng và chung cả nhóm tội xâm phạm sở
hữu, trong đó vấn đề về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ là một
phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả trong các giáo trình, sách
bình luận nên chưa được phân tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là
nghiên cứu độc lập và đánh giá thực tiễn xét xử của Tòa án ở nước ta. Do đó,
cho đến nay, vẫn chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu độc lập, có hệ
thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới góc độ pháp lý hình sự

về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu. Vì


vậy, việc tiếp tục nghiên cứu lý luận để hoàn thiện các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, phân tích thực tiễn xét xử tội phạm này từ năm 2000-2010,
cũng như đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự về tội phạm này rõ ràng vẫn có ý nghĩa về mặt chính trị - xã
hội và thực tiễn - pháp lý quan trọng. Từ những lý do trên, chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài: Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đối
tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt
Nam làm luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở kế thừa các công trình
khoa học của các tác giả đi trước, đặc biệt nhấn mạnh khía cạnh lý luận và thực
tiễn của vấn đề và cập nhật số liệu thực tiễn vẫn có tính cấp thiết, qua đó góp
phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản và giảm việc hình sự hóa quan hệ dân sự, kinh tế liên
quan đến tài sản có đăng ký quyền sở hữu trong tình hình hiện nay.

4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận là phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường
lối của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu trong đề tài sử dụng các phương pháp nghiên
cứu của khoa học luật hình sự như: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội
học; phương pháp so sánh, đối chiếu; phân tích quy phạm pháp luật, khảo sát
thực tiễn; điều tra án điển hình... để phân tích và luận chứng các vấn đề khoa

học cần nghiên cứu trong luận văn này.


Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tiếp thu
có chọn lọc kết quả của các công trình nghiên cứu đã công bố, các đánh giá,
tổng kết của các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có
liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
5.1. Về lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu của công dân trong khoa học luật hình
sự Việt Nam nói riêng. Cụ thể, đã làm rõ các vấn đề chung về các tội xâm
phạm sở hữu của công dân trong luật hình sự Việt Nam, phân tích đánh giá
các yếu tố cấu thành tội phạm của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
có đăng ký quyền sở hữu, phân biệt tội này và một số tội khác hay có sự nhầm
lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có
đăng ký quyền sở hữu; phân tích thông qua nghiên cứu thực tiễn xét xử trên
địa bàn toàn quốc từ năm 2000 - 2010 và nghiên cứu thông qua các bản án
hình sự của Tòa án để đánh giá, đồng thời qua đó chỉ ra một số mâu thuẫn, bất
cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót trong quá trình áp dụng các
quy định đó, cũng như đưa ra nguyên nhân để tìm giải pháp khắc phục, đề
xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật
hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu
ở khía cạnh lập pháp và việc áp dụng trong thực tiễn (đó là giải pháp về mặt
tội phạm học).
5.2. Về thực tiễn
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử
dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu, học tập. Một số đề xuất, kiến nghị
của luận văn sẽ cung cấp những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập

pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến


tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả
công tác đấu tranh phòng, chống tội này ở nước ta hiện nay và sắp tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản có đăng ký quyền sở hữu.
Chương 2: Tình hình tội phạm và thực tiễn xét xử tội phạm lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN
NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ
QUYỀN SỞ HỮU

1.1. CÁC VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT
TÀI SẢN CÓ ĐĂNG KÝ QUYỀN SỞ HỮU TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình
sự của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Sở hữu là quan hệ xã hội giữa người với người
trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải xã

hội. Sở hữu không chỉ bao gồm quan hệ con người
chiếm hữu tư liệu sản xuất, của cải, mà điều cốt yếu là
đề cập đến quan hệ giữa người với người trong quá
trình diễn ra sự chiếm hữu đó. Người ta phân biệt hai
loại sở hữu: sở hữu mang tính dân sự (sở hữu nhà ở,
đồ dùng cá nhân) và sở hữu tư liệu sản xuất.
Quan hệ sở hữu là một trong những quan hệ cơ
bản và quan trọng nhất của một thể chế. Pháp luật Việt
Nam cũng như pháp luật của các quốc gia trên thế giới
luôn xác định sở hữu, quyền sở hữu là vấn đề trọng tâm
của pháp luật. Các quan hệ tài sản luôn xuất phát từ
quan hệ sở hữu, chính vì thế quan hệ sở hữu là tiền đề,
là xuất phát điểm cho tính hợp pháp của các quan hệ
khác. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản đóng vai trò quan
trọng trong các văn bản pháp lý của Nhà nước, ở đó tài
sản là đối tượng vừa là khách thể của quan hệ sở hữu.
Yêu cầu cơ bản nhất đặt ra đối với bảo vệ quyền sở hữu
tài sản là tài sản đó phải giao dịch được và được phép
đưa vào giao dịch, nó là đối tượng phổ biến


được điều chỉnh bởi các quy định của cả
hệ thống pháp luật.
Do đó, quan hệ sở hữu trong xã hội ảnh hưởng
trực tiếp đến kết cấu giai cấp, bản chất chính trị của xã
hội. Sở hữu là một vấn đề kinh tế - chính trị, phải có
quan điểm chính trị khi bàn về vấn đề sở hữu chứ
không chỉ thuần túy các quan điểm kinh tế khi xem xét
vấn đề này.


Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ quá
độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ và trong thời
kỳ quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế. Trong đường lối kinh
tế, Đảng ta đề ra: Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta
trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này
cũng có nghĩa là các quan hệ sở hữu và hệ thống lý
luận về sở hữu ở nước ta còn nhiều điều cần bổ sung,
hoàn thiện và điều chỉnh cho phù hợp với tình hình
kinh tế - chính trị. Cũng chính vì vậy mà các quan hệ
sở hữu (sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân) còn chưa
hoàn thiện về hình thức, còn nhiều tranh chấp liên
quan đến quyền sở hữu. Bởi vậy, một hệ thống pháp
luật bảo vệ quyền sở hữu là hết sức cần thiết và quan
trọng. Hiện nay, để bảo vệ quyền sở hữu


tài sản của công dân, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều
quan hệ pháp luật để điều chỉnh:
- Hiến pháp - Quy định chế độ chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và
nghĩa
vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức
và hoạt động của các cơ quan nhà nước, thể chế hóa
mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ,

Nhà nước quản lý; đồng thời ghi nhận các nguyên tắc,
chính sách bảo vệ quyền sở hữu của công dân;
- Bộ luật dân sự - Bảo vệ các quyền sở hữu tài
sản trong quan hệ dân sự;
- Luật đầu tư - Bảo vệ quyền sở hữu tài sản
trong đầu tư sản xuất kinh doanh;
- Luật hành chính - Đưa ra các biện pháp xử lý
hành chính đối với việc xâm phạm quyền sở hữu tài
sản ở mức độ nhẹ;
- Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước - Quy
định nguyên tắc sử dụng tài sản công, chế tài xử phạt
vi phạm;

Và Bộ luật hình sự quy định việc xử lý những hành
vi xâm phạm chế độ sở hữu tài sản được nhà nước
bảo hộ. Đó là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
và cần phải giáo dục, phòng ngừa, răn đe, trừng
phạt để bảo vệ quyền sở hữu của công dân.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009) có riêng một chương quy định về các
tội xâm phạm sở hữu, bao gồm 13 điều quy định rõ


các hành vi xâm phạm sở hữu được Nhà nước bảo vệ.
Nhóm tội phạm xâm phạm về sở hữu mang những đặc
điểm:
Về khách thể: Đó là quan hệ sở hữu, có nghĩa là các
tội xâm phạm sở hữu phải là những hành vi gây thiệt
hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu và
gây thiệt hại này phải phản ánh đầy đủ tính nguy

hiểm cho xã hội của hành vi đó.
Về khách quan: Đó là các hành vi như chiếm
đoạt, chiếm giữ trái phép, sử dụng trái phép, hủy hoại,
làm hư hỏng tài sản,… Tuy hình thức thể
hiện khác nhau nhưng những hành vi này
đều xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt của chủ sở hữu tài sản.
Về chủ quan: Hầu hết các tội phạm được thực
hiện do lỗi cố ý, chỉ có hai tội phạm được thực hiện do
lỗi vô ý.

Về chủ thể: Đó là những người có năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định.
Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu chỉ được
giới hạn trong luận văn là Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền
sở hữu, chúng tôi chỉ nghiên cứu những vấn
đề lý luận xoay quanh tội phạm được quy
định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009):
Điều 140. Tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản


1. Người nào có một trong những hành vi sau đây chiếm
đoạt tài sản của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng đến dưới
năm mươi triệu đồng hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng gây hậu quả
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt
hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích
mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm

hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được
tài sản của người khác bằng các hình thức hợp đồng rồi dùng thủ
đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó;

b) Vay, mượn, thuê tài sản của người
khác hoặc nhận được tài sản của người khác
bằng các hình thức hợp đồng và đã sử dụng
tài
sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến
không có khả năng trả lại tài sản [25].
Từ những phân tích trên, xét một cách chung
nhất, dưới góc độ khoa học luật hình sự thì khái niệm
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là
hành vi của một chủ thể có năng lực trách nhiệm hình
sự và đạt độ tuổi theo pháp luật hình sự đã vay, mượn,
thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản
của người khác có giá trị từ bốn triệu đồng trở lên
thông qua hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian
dối hoặc bỏ trốn để nhằm mục địch đích chiếm đoạt
tài sản đó hoặc sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả lại tài
sản.
Dựa vào lý luận về cấu thành tội phạm và quy
định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,


bổ sung năm 2009) cho phép chỉ ra các dấu hiệu pháp
lý hình sự của tội phạm này như sau:
1) Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản. Quan hệ sở hữu tồn tại như một yếu tố
khách quan trong xã hội vì thế muốn điều chỉnh các
quan hệ sở hữu phát triển theo hướng có lợi, giai cấp
thống trị dùng pháp luật để ghi nhận, củng cố địa vị
của mình trong việc chiếm hữu của cải vật chất trước
các giai cấp khác. Qua việc nghiên cứu cấu thành tội
phạm này cho thấy khách thể trực tiếp bị tội phạm này
xâm hại đó là quan hệ sở hữu tài sản. "Sở hữu được
hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những
thành quả lao động. Ngày nay có cả tư liệu sản xuất
của loài người" [45, tr. 169]. Quan hệ sở hữu là sự
phản ánh việc chiếm hữu các tư liệu sản xuất, các vật
phẩm giữa chủ thể này với các chủ thể khác. Do đó,
quan hệ sở hữu luôn được luật hình sự bảo vệ (sở hữu
là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ gồm:
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt tài
sản theo quy định của pháp luật).
a) Quyền chiếm hữu là quyền năng mà pháp luật
quy định cho chủ sở hữu tự mình nắm giữ, quản lý tài
sản. Hành vi chiếm hữu được quy định cụ thể tại Điều
182 Bộ luật dân sự năm 2005 được hiểu theo nghĩa
rộng, có thể là hành vi của chủ sở hữu trong việc kiểm
soát thực tế, hoặc kiểm soát về mặt pháp lý đối với vật,
hoặc chủ sở hữu đồng thời thực hiện cả hai hành
vi này;


b) Quyền sử dụng là một quyền năng mà pháp
luật quy định cho chủ sở hữu được phép sử dụng các
tài sản của mình nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt,

sản xuất kinh doanh, song việc sử dụng đó không
được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng tới lợi ích của
các chủ thể khác;
c) Quyền định đoạt là quyền năng mà pháp luật
quy định cho chủ sở hữu để quyết định số phận pháp
lý của tài sản.
Cả ba quyền năng cụ thể trên tạo thành một hệ
thống nhất trong nội dung của quyền sở hữu, chúng có
mối liên kết mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng
lại mang một ý nghĩa khác nhau.
Về đối tượng tác động của tội phạm này chính là
tài sản thuộc sở hữu của Nhà nước, của tập thế, của
công dân,… Tài sản được thể hiện dưới các hình thức:
Vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và
quyền tài sản theo quy định tại Điều 163 Bộ luật dân
sự năm 2005: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản" [24].
2) Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Theo đó, mặt khách quan của tội
phạm này bao gồm những dấu hiệu sau:
a) Hành vi khách quan. Đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo khoản 1 thì hành vi
khách quan được thể hiện ở chỗ: sau khi có được tài
sản người phạm tội đã có hành vi chiếm đoạt tài sản.


Hành vi chiếm đoạt của tội này bao giờ cũng thông
qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản của người khác
hay nhận được tài sản của người khác hay nhận được
tài sản của người khác nhưng sử dụng vào mục đích

bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng hoàn trả lại
tài sản đó. Đây là hành vi sử dụng tài sản không đúng
nghĩa vụ cam kết dẫn đến việc không thể trả lại tài sản
cho chủ sở hữu. Ví dụ như: mang tài sản đó đi bán,
cầm cố, cho thuê lại... Tội phạm được thực hiện thông
qua các dấu hiệu cụ thể sau: Trước tiên người phạm
tội đã nhận tài sản từ chủ tài sản để thực hiện một
công việc nhất định nào đó. Việc giao nhận này là
hoàn toàn hợp pháp có sự thỏa thuận và cam kết giữa
hai bên, có thể bằng miệng hoặc thông qua hợp đồng
theo quy định của pháp luật...
Ý định chiếm đoạt chỉ này sinh sau khi người
phạm tội đã được giao tài sản. Điều này có nghĩa là
người phạm tội đã vi phạm những cam kết, nghĩa vụ
theo sự thoả thuận trước đây, đã bội tín nhằm chiếm
đoạt tài sản. Sau khi chiếm đoạt tài sản, người phạm tội
đã biến tài sản đó thành tài sản của mình, tức là đã tạo
ra cho mình khả năng chiếm giữ, sử dụng, định đoạt tài
sản đó; nhưng hành vi chiếm đoạt này thực chất không
làm mất đi quyền sở hữu đối với tài sản của chủ sở hữu
hợp pháp. Ở đây, hành vi chiếm đoạt đã gây ra thiệt hại
vật chất cho chủ tài sản dù bằng bất kỳ hình thức nào.
Thiệt hại ở đây là biểu hiện thực tế như làm hao hụt
giảm bớt không thể trả lại trạng thái ban đầu. Vì gây
thiệt hại là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm


đoạt, do đó hành vi chiếm đoạt chỉ được coi là hoàn
thành khi đã gây ra thiệt hại vật chất cho chủ tài sản.


Trên thực tế, người phạm tội đã vi phạm nghĩa
vụ cam kết nhằm chiếm đoạt một phần hay toàn bộ tài
sản đã nhận từ chủ tài sản. Biểu hiện của hành vi vi
phạm nghĩa vụ cam kết có các dạng: Lật lọng, gian
dối; chây ỳ dây dưa cố ý không trả lại tài sản cho chủ
tài sản...
Thời điểm hoàn thành của tội phạm được xác
định khi người phạm tội hoàn thành việc chiếm đoạt
tài sản của chủ sở hữu. Yếu tố này chúng tôi xin phân
tích kỹ tại phần sau luận văn này.
b) Hậu quả của tội phạm. Hậu quả của tội lạm
dụng tín nhiệm gây ra về tính chất và hậu quả được
xác định thông qua đặc điểm về chất và lượng của
chính đối tượng tác động đã bị hành vi nguy hiểm cho
xã hội làm biến đổi tình trạng. Tại Điều 140 Bộ luật
hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy
định rất rõ "người nào có một trong những hành vi sau
đây chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng… "
[25]. Như vậy, điều luật đã quy định rất rõ ràng là chỉ
có người nào lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ
4 triệu đồng trở lên mới bị xử phạt theo điều luật này.
Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ bị
truy cứu trách nhiệm hình sự nếu giá trị của tài sản bị
chiếm đoạt từ 4 triệu đồng trở lên. Trong trường hợp
giá trị tài sản bị chiếm đoạt dưới 4 triệu đồng thì người
phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu thuộc
một trong các trường hợp sau: (i) Gây hậu


quả nghiêm trọng; (ii) đã bị xử phạt hành chính về

hành vi chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội trước đó
đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp, lừa
đảo, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng
chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt hành
chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính mà lại thực hiện hành vi lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
c) Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản. Như vậy, thì chủ thể của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản phải là người có năng lực
trách nhiệm hình sự: Người không mắc bệnh tâm thần
hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
năng điều khiển hành vi và đạt độ tuổi do pháp luật
hình sự quy định: Người dưới 14 tuổi không phải chịu
trách nhiệm hình sự, từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi (Điều 12
Bộ luật hình sự năm 1999) chỉ phải chịu trách nhiệm
hình sự nếu bị truy tố về tội rất nghiêm trọng {theo
khoản 3 Điều 140 Bộ luật hình sự năm 1999 (sửa đổi,
bổ sung năm 2009)} với lỗi cố ý hoặc tội đặc biệt
nghiêm trọng {khoản 4 Điều 140 Bộ luật hình sự năm
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)}, từ đủ 16 tuổi trở
lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự nếu lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng trở
lên theo quy định tại Điều 140 Bộ luật hình sự năm
1999 và 4 triệu đồng theo quy định tại Điều 140 Bộ luật
hình sự 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Ngoài ra, cần lưu ý chủ thể của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản còn phải tham gia vào hợp
đồng hoặc thỏa thuận vay, mượn, thuê tài sản dân sự



và rồi sau đó không thực hiện đúng như cam kết hợp
đồng ban đầu để nhằm chiếm đoạt tài sản đó. Việc
giao kết được thực hiện một cách hợp pháp và đúng
theo trình tự của pháp luật.
Do đó, chủ thể chịu trách nhiệm hình sự với tội
phạm lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trước hết
phải đủ điều kiện là chủ thể giao kết hợp đồng dân sự
(vay, mượn, thuê, …). Theo quy định tại Điều 20 Bộ
luật dân sự 2005: "… người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật…" [24], thì chủ thể
tham gia giao dịch dân sự phải từ đủ 15 tuổi trở lên.
Chính vì vậy, chỉ những người từ đủ 15 tuổi trở lên
mới là chủ thể chịu trách nhiệm hình sự với tội phạm
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Đối với những người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15
tuổi nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản thì cũng không thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản bởi vì hợp đồng dân sự giữa hai
bên là vô hiệu về chủ thể dẫn đến việc chuyển giao tài
sản chưa từng xảy ra.
Vì vậy, những người dưới 15 tuổi - Những người
không phải là chủ thể của hợp đồng dân sự nên không
thể là chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản.



Nếu người từ đủ 14 tuổi đến dưới 15 tuổi giao
kết hợp đồng dân sự rồi chiếm đoạt tài sản là đối tượng
của hợp đồng thì có thể xảy ra các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Nếu có yếu tố lừa dối như
khai gian dối tuổi, gian dối mục đích giao kết,... thì có
thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản phù hợp với các quy định của pháp
luật;
Trường hợp thứ hai: Nếu phát hiện sự giao kết
này do hai bên tự nguyện, thì không xử lý về mặt hình
sự mà xem đây là một giao dịch dân sự vô hiệu và giải
quyết hậu quả theo quy định tại Điều 137 và Điều 138
Bộ luật dân sự năm 2005 và các quy định của pháp
luật dân sự liên quan.

Điều 137. Hậu quả pháp lý của giao
dịch dân sự vô hiệu
1. Giao dịch dân sự vô hiệu không làm
phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập.
2. Khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả

được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch
thu theo quy định của pháp luật. Bên
có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường

[24].


Điều 138. Bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu
1. Trong trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển
giao bằng một giao dịch khác cho người thứ
ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba
vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại
Điều 257 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp tài sản giao dịch là
bất động sản hoặc là động sản phải đăng ký
quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một
giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì
giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ
trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được
tài sản này thông qua bán đấu giá hoặc giao
dịch với người mà theo bản án, quyết định của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu
tài sản nhưng sau đó người này không phải là
chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
hủy, sửa [24].
d) Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý. Việc
chiếm đoạt tài sản có thể được thực hiện trong hai
trường hợp: Người phạm tội sau khi nhận được tài sản
đã nảy sinh ra ý định chiếm đoạt và thực hiện ngay ý

định đó dù biết tài sản không phải của mình hoặc sau
khi nhận được tài sản, trong quá trình thực hiện hợp


đồng đã chiếm đoạt tài sản. Tại thời điểm phạm tội
người phạm tội biết hậu quả của mình gây ra nhưng
vẫn thực hiện tội phạm; và động cơ vụ lợi: Người
phạm tội chiếm đoạt tài sản nhằm phục vụ cho nhu
cầu của cá nhân, tổ chức liên quan đến mình; dùng tài
sản đã chiếm đoạt để làm lợi cho bản thân.
1.1.2. Khái niệm đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản

Trong những quan hệ xã hội được luật hình sự
bảo vệ, có những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt
hại qua việc làm biến đổi tình trạng bình thường của
những đối tượng vật chất, như quan hệ sở hữu... Tất cả
những hành vi làm biến đổi tình trạng bình thường của
tài sản của một chủ thể bất kỳ một cách trái pháp luật
đều là những hành vi gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu
của bất cứ chủ thể nào. Sự làm biến đổi này có thể là
do các hành vi khác nhau gây ra, như hành vi chiếm
đoạt, chiếm giữ, hành vi sử dụng, làm hư hỏng, biến
dạng. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là
việc tài sản bị xâm hại, hay nói cách khác tài sản là
đối tượng tác động của tội này.
Từ phân tích về cấu thành tội phạm và đặc điểm chung của đối tượng
tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì có thể hiểu được
khái niệm đối tượng tác động của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
là tài sản thuộc các hình thức sở hữu toàn dân; sở hữu của các tổ chức chính

trị; tổ chức chính trị - sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân; sở hữu của tổ chức xã
hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; sở hữu hỗn hợp; sở hữu chung.
Như vậy, từ khái niệm trên có thể hiểu đối tượng tác động của tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là tài sản. Điều 163 Bộ luật dân sự năm


×