Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Văn mẫu lớp 9: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.72 MB, 45 trang )

Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều
I. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều, đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng
Bích
- Nêu vấn đề cần cảm nhận tâm trạng: tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích
II. Thân bài
1. Cảm nhận tâm trạng nhân vật Thúy Kiều
- Tâm trạng Kiều trong 6 câu thơ đầu
+ Hoàn cảnh Thúy Kiều: bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, trơ trọi giữa không gian
vắng lặng, hoang vu, lạnh lẽo ( khóa xuân, xa gần, cồn nọ, dặm kia...)
+ Thời gian tuần hoàn, khép kín sớm khuya vây hãm lấy con người
- Hình ảnh Kiều đơn độc, trơ trọi giữa nơi mênh mông non nước, không một người
bầu bạn
+ Cát vàng, bụi hồng vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ gợi sự mênh mông choáng
ngợp của không gian, tâm trạng cô đơn, bẽ bàng của Kiều
- Tâm trạng nhớ thương người yêu và gia đình ( 8 câu thơ tiếp)
+ Kiều nhớ Kim Trọng – mối tình đầu trong đêm trăng thề nguyền, giờ phải chia xa, li
biệt

Tổng hợp: Download.vn


+ Trình tự nỗi nhớ có vẻ như không hợp lý nhưng thực chất rất hợp lý, Kiều đã bán
mình cứu cha mẹ và em nhưng không thể đền đáp mối chân tình của Kim vì vậy nàng
khôn nguôi day dứt
+ Kiều nhớ lại đêm trăng thề nguyền rồi lại tự xót xa vì “tấm son gột rửa bao giờ cho
phai”. Tấm son ấy là tấm lòng Kiều son sắc đã bị hoen ố, vùi dập khiến nàng đau đớn


tới tâm can
- Nỗi nhớ cha mẹ: thương cha mẹ già yếu không ai chăm sóc ( dẫn điển tích “ sân Lai,
gốc tử, quạt nồng ấp lạnh)
- Nỗi nhớ của Kiều thể hiện nhân cách đáng trọng của nàng, Hoàn cảnh của nàng thật
đau đớn. Nàng quên đi nỗi khổ của mình để thương nhớ, lo lắng cho người thân. Nàng
là người chung thủy, hiếu thảo, có tấm lòng đáng trọng
2. Bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du trong 8 câu thơ cuối
- Hình ảnh cánh buồm thấp thoáng nơi cửa biển là hình ảnh rất đắt thể hiện tâm trạng
Kiều, hình ảnh đó giống như cuộc đời Kiều lênh đênh, lận đận giữa dòng đời không
biết ngày đoàn tụ cùng gia đình
- Những cánh hoa lụi tàn trôi trên mặt nước cũng giống thân phận hoa tàn của nàng
khi vô định, ba chìm bảy nổi, số mệnh đầy bạc bẽo của nàng
- Màu nội cỏ rầu rầu gợi lên cho Kiều nỗi chán nản, vô vọng, bế tắc vì cuộc sống
xung quanh
- Nỗi buồn dồn dập tăng lên và đỉnh điểm là nàng tưởng tượng sóng gió cuộc đời
đang mỗi lúc một dâng để nhấn chìm nàng


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

- Điệp từ “buồn trông” kết hợp với những hình ảnh phía sau diễn tả nỗi buồn với
nhiều sắc độ khác nhau, cộng với các từ láy tượng hình, tượng thanh tạo nhịp điệu
dồn dập tăng lên của sự vô vọng trong tâm trạng Kiều
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình tài hoa kết hợp với nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật
thông qua ngôn ngữ độc thoại, phép kết hợp với câu hỏi tu từ
III. Kết bài
- Với bút pháp miêu tả nhân vật đặc sắc, đoạn trích thể hiện thành công tâm trạng của
Thúy Kiều trong cô đơn, buồn tủi, bế tắc nhưng tấm lòng nhân hậu thương nhớ về

người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của Kiều vẫn ngời sáng
- Đoạn trích thể hiện tài năng miêu tả nội tâm nhân vật đặc sắc và cảm hứng nhân đạo
sâu sắc của nhà thơ.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 1
Truyện Kiều là một tác phẩm xuất sắc nhất trong đời thơ Nguyễn Du. Ông đã góp vào
văn học Việt Nam và thế giới một thi phẩm bất hủ. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng
Bích” đã thể hiện bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật điêu luyện, tài tình của ông. Qua
những dòng thơ, người đọc cảm thấu được sâu sắc nỗi cô đơn, khắc khoải, tuyệt vọng
của Thúy Kiều.
Thúy Kiều sau khi bán mình chuộc cha, bị Mã Giám Sinh hạ nhục, rồi bán vào lầu
xanh. Kiều định tự kết liễu đời mình, nhưng không thành công. Tú Bà giam lỏng nàng
ở lầu Ngưng Bích và hứa sau khi nàng khỏi bệnh sẽ gả nàng vào một gia đình tốt.
Kiều ở lầu Ngưng Bích sống trong nỗi cô đơn, buồn bã, nhớ thương quá khứ và lo
lắng, sợ hãi cho tương lai chính mình. Bức tranh tâm trạng nàng được miêu tả vô cùng
rõ nét.
Tổng hợp: Download.vn


Trước hết, ở lầu Ngưng Bích, Thúy Kiều mang trong mình nỗi cô đơn, chán nản, đau
xót cho số phận chính mình: “Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân/ Vẻ non xa tấm trăng
gần ở chung/ Bốn bề bát ngát xa trông/ Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”. Hai chữ
“khóa xuân” nghe sao thật chua xót, tàn nhẫn. Nàng – một người con gái đang ở độ
tuổi đẹp nhất, lại bị giam hãm, cầm tù, cảnh ngộ của nàng thật cô đơn tội nghiệp. Sự
cô đơn đó còn được tuyệt đối hóa qua các hình ảnh chỉ không gian, thời gian, các sự
vật tồn tại xung quanh: “cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia” “bát ngát” “non xa”
“trăng gần” “mây sớm đèn khuya”. Hàng loạt các hình ảnh, từ ngữ chỉ không gian cô
quạnh đã một lần nữa tô đậm, làm nổi bật sự cô đơn tuyệt đối của Thúy Kiều. Không
chỉ vậy cụm từ “mây sớm đèn khuya” còn gợi nên thời gian tuần hoàn, khép kín giam
hãm cuộc đời nàng, đẩy Kiều vào nỗi cô đơn, tuyệt vọng, không có lối ra.
Tâm trạng ngổn ngang “nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”, Kiều nhớ về Kim

Trọng – người nàng yêu thương, nhưng lại phải phụ bạc, nhớ về song thân ở nhà
mong ngóng tin con. Nguyễn Du đã thật tinh tế khi để nàng nhớ về Kim Trọng trước
rồi mới nhớ đến cha mẹ. Trật tự nỗi nhớ vừa thể hiện đúng quy luật tâm lí, vừa hợp
tình vừa hợp lí. Kiều nhớ về đêm thề nguyền với Kim Trọng: “Tưởng người dưới
nguyệt chén đồng/ Tin sương luống những rày trông mai chờ”. Câu thơ vang lên như
tiếng lòng thổn thức, như tiếng khóc nấc lên theo nhịp của Thúy Kiều khi mường
tượng lại những kỉ niệm đẹp đẽ. Nhớ về người thương, nàng lại càng đau đớn, xót xa
hơn khi nghĩ đến cảnh Kim Trọng ngày ngày mong tin mình trong vô vọng, giờ đây
mỗi người đôi ngả, biết ngày nào mới có thể gặp lại. Nhưng đau xót nhất có lẽ là hai
câu thơ sau: “Chân trời góc bể bơ vơ/ Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”. Nói lên
thân phận, hoàn cảnh “bơ vơ”, trơ trọi nơi đất khách quê người. Hình ảnh ẩn dụ “tấm
son” cho thấy tấm lòng thủy chung son sắt, tình yêu sâu đậm Thúy Kiều dành cho
Kim Trọng.


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Về phía cha mẹ, nỗi nhớ của nàng với song thân cho thấy nàng là một người con hết
sức hiếu thảo, luôn yêu thương và nghĩ về cha mẹ. Nàng thương cha mẹ đã lớn tuổi lại
không có ai ở bên chăm sóc, nàng day dứt trong những ngày hè nóng bức, ngày đông
giá lạnh ai sẽ là người lo lắng cho cha mẹ. Nguyễn Du đã sử dụng linh hoạt thành ngữ
và điển cố để nói về tấm lòng hiếu thảo của nàng: “Sân Lai cách mấy nắng mưa/ Có
khi gốc tử đã vừa người ôm”.
Trong hoàn cảnh phải bán mình chuộc cha, lại bị lừa gạt, Kiều là người đáng thương
nhất, nhưng nàng đã vượt lên những đau thương của mình nhớ về cha mẹ, người yêu.
Điều đó cho thấy nàng là một người thủy chung, sống có tình nghĩa, mang trong mình
tấm lòng vị tha, nhân hậu, bao dung.
Tám câu thơ cuối cùng không chỉ cho thấy tâm trạng cô đơn, buồn rầu của Thúy Kiều

mà còn cho thấy những dự cảm về tương lai đầy tai ương, sóng gió, câu thơ bật lên
nỗi kinh hoàng, lo sợ. Kiều nhớ về cha mẹ, gia đình, quê hương nên nàng thấm thía
sâu sắc tình cảm cô đơn, trống vắng của mình: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”. Cánh buồm thấp thoáng trong không gian
chiều ảm đạm thể hiện khao khát được đoàn tụ, được trở về với gia đình của nàng.
Không gian dịch chuyển gần hơn về phía nàng, hình ảnh những cánh hoa trôi man
mác, vô định khiến Kiều nghĩ về số phận chìm nổi, mỏng manh của chính mình. Bản
thân Kiều từ lúc bị bán đi, đã là bắt đầu những chuỗi ngày nổi vô định, tương lai mù
mịt đang đổ ập xuống trước mắt Kiều. Câu hỏi tu từ như một lời tự hỏi về tương lai
mù mịt của chính bản thân mình. Cặp lục bát tiếp theo, không gian lại được mở rộng:
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu,/Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Sắc xanh trong
câu thơ này không còn là màu cỏ non như trong cảnh ngày xuân mà là sắc xanh tàn tạ,
héo úa, lụi tàn. Màu xanh ấy còn gợi lên sự nhạt nhòa, đơn điệu như chính cuộc sống
tẻ nhạt, hiu quạnh, đầy ngao ngán của Thúy Kiều. Câu thơ cuối cùng là lo âu, dự cảm
về những tai ương, hiểm nguy đang đón đợi nàng, cảnh hiện ra vô cùng hãi hùng:
Tổng hợp: Download.vn


Buồn trông gió cuốn mặt duềnh/ Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Ngọn gió
cuốn mặt duềnh cùng với tiếng sóng ầm ầm hung dữ như báo trước, chỉ ngày sau đây
thôi, bao nhiêu giông bão trong cuộc đời sẽ nổi lên xô đẩy, vùi dập đời nàng.
Với bút pháp tả cảnh ngụ tình tài ba, cảnh trong tác phẩm của Nguyễn Du vừa thể
hiện ngoại cảnh vừa thể hiện tâm cảnh. Đoạn trích đã khắc họa thành công bức tranh
tâm trạng Thúy Kiều trong những ngày nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó
còn thể hiện sự cảm thương của Nguyễn Du cho số phận, cho cuộc đời đầy bất hạnh
của nàng.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 2
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du
được xem là một kiệt tác tiêu biểu và nổi bật. Giá trị vững bền của tác phẩm được tạo
nên không chỉ ở mặt nội dung cốt truyện hấp dẫn mà còn thể hiện qua những bút pháp

nghệ thuật đặc sắc và nổi bật là nghệ thuật miêu tả tâm lí, nội tâm nhân vật. "Kiều ở
lầu Ngưng Bích" là một trong những trích đoạn thể hiện rõ biệt tài miêu tả tâm lí nhân
vật của tác giả Nguyễn Du. Trong đoạn trích này, chúng ta có thể thấy được tâm trạng
buồn tủi, nỗi nhớ thương cùng dự cảm của Thúy Kiều trong hoàn cảnh bơ vơ, lạc lõng
tại lầu Ngưng Bích.
Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật với sự chán
ngán, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian
chơi vơi giữa trời nước, núi non: "Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung" và Kiều chỉ nhìn
thấy được "Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia" với những "cồn cát vàng"như đang
chuyển động lượn sóng và bụi hồng vướng trải trên hàng dặm xa xăm. Tất cả đã tạo
nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra
sự mênh mang, hoang vắng và đầy rợn ngợp nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời
gian "mây sớm, đèn khuya" tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng "bẽ


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

bàng" của nhân vật trữ tình khi bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đầy tù túng. Khung
cảnh đó như chia cắt và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều: "Nửa tình nửa
cảnh như chia tấm lòng" và khơi gợi nỗi nhớ về những ngày đã qua.
Ngòi bút tinh tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục lách sâu vào dòng tâm trạng của nhân
vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim
và đêm thề nguyền nguyện ước giữa hai người:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ"
Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của
Thúy Kiều, bởi "Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", và nàng đã chọn cách đoạn tình để
làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:

"Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm."
Là một người con có hiếu, dù đã bán mình chuộc cha nhưng trong lòng Kiều vẫn trĩu
nặng nỗi nhớ thương về cha mẹ. Tác giả đã sử dụng điển cố điển tích- một biện pháp
nghệ thuật điển hình trong thi pháp của nền văn học trung đại để nói lên tấm lòng hiếu
thảo của nàng Kiều. Nhưng điểm đặc sắc là tác giả đã đặt nỗi nhớ của chàng Kim lên
trước nỗi nhớ về cha mẹ, thể hiện rõ nét sự tinh tế trong việc miêu tả tâm lí nhân vật
của tác giả Nguyễn Du. Bởi lẽ với cha mẹ, nàng đã bán mình, hi sinh bản thân; còn
đối với chàng Kim, nàng vẫn còn mang nợ một lời thề cùng một tình yêu son sắt thủy
chung và nàng tự cho mình là người phụ bạc.

Tổng hợp: Download.vn


Sau khi nhớ về quá khứ, về tình yêu, về gia đình thì tâm trạng của nàng Kiều chìm
trong nỗi buồn đau, cô đơn và lo sợ về thực tại và tương lai. Bút pháp tả cảnh ngụ tình
đã được tác giả vận dụng một cách điêu luyện để miêu tả những con sóng trong tâm lí
nhân vật:
"Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới ra
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Đây là tám câu thơ hay nhất trong trích đoạn này khi miêu tả tâm trạng của nàng Kiều.
Cảm xúc sầu buồn đã được miêu tả thông qua bức tranh thiên nhiên từ xa đến gần với

gam màu ảm đạm trong không gian u tối, và mỗi cặp câu bắt đầu bằng cụm từ "Buồn
trông" lại mang những ý nghĩa ẩn dụ vô cùng ý nghĩa. Trước hết, tác giả đã khắc họa
nỗi buồn tha hương cũng như khao khát đoàn tụ qua hình ảnh cửa bể- con thuyền.
Hơn ai hết, nàng hiểu rõ rằng chút hi vọng nhỏ nhoi thoát khỏi sự giam cầm vẫn là vô
vọng. Bởi vậy nàng đã buồn cho số phận trôi dạt mong manh đầy bi kịch của mình
thông qua hình ảnh "hoa trôi man mác". Câu thơ kết thúc bằng từ nghi vấn "biết là về
đâu" đã tạo nên một câu hỏi tu từ gợi nên sự mơ hồ, hoài nghi về hiện tại và tương lai.
Dự cảm đó tiếp tục được lặp lại và nhấn mạnh hơn nữa trong hai câu thơ cuối cùng:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Âm thanh của tiếng sóng đã được tác giả nhấn mạnh thông qua việc sử dụng từ láy
tượng thanh "ầm ầm" kết hợp với biện pháp đảo ngữ, gợi tả thành công sự dữ dội như
đang gào thét nơi biển xa. Trước không gian rộng lớn ầm ầm sóng vỗ, Thúy Kiều đã
có những dự cảm và nỗi lo sợ đầy bất an về những bất trắc đang ập đến và vùi dập
cuộc đời. Như vậy, với tám câu thơ được kiến tạo theo câu trúc lặp lại của cụm từ
"Buồn trông", tác giả Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên mênh mông,
rộng lớn, vừa vắng vẻ vừa dữ dội để nhấn mạnh những cung bậc cảm xúc của nỗi
buồn trong tâm trạng của Thúy Kiều.
Thông qua diễn biến dòng tâm lí của nhân vật Thúy Kiều, chúng ta càng hiểu rõ hơn
nữa về cuộc đời của Thúy Kiều- "tấm gương oan khổ" thể hiện rõ số phận bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Đó là người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh
và trải qua vô vàn bi kịch về gia đình, về tình duyên, về nhân phẩm. Đồng thời, thấy
được tài năng của đại thi hào Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật thông
qua bút pháp "tả cảnh ngụ tình" và sử dụng những biện pháp nghệ thuật vô cùng đặc

sắc.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 3
Trong “Truyện Kiều" của Nguyễn Du, đoạn nói về tâm trạng của Thuý Kiều ở lầu
Ngưng Bích vẫn được người đọc xưa nay coi là một trong những đoạn thơ tuyệt vời
về nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Thế nhưng cái hay của cả đoạn thơ như ngưng đọng
trong những câu thơ cuối cùng, ở bốn bức tranh:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
..........
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."

Tổng hợp: Download.vn


Tám câu thơ trên là cảnh nhưng thực sự là tình, Nguyễn Du tả cành nhưng thực sự là
tả tình.
Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông" nghĩa là nỗi
buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy.
Vừa ngắm vừa buồn, càng ngắm càng buồn, càng buồn càng ngắm. Nói như thế thật
là hợp lí, thật đúng với tâm trạng Thuý Kiều lúc này. Vì sao vậy? Vì nỗi buồn của
Kiều là nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua vì một duyên cớ chốc lát, mà
là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Quá thật, trong suốt phần đầu của "Truyện
Kiều”, chưa bao giờ Kiều buồn như lúc này, bởi chưa bao giờ Kiều kịp có lúc để nhìn
vào chuyện buồn của mình, ngẫm cho kĩ, thấm cho sâu về chuyện buồn ấy. Xa Kim
Trọng, phải bán mình chuộc cha, Kiều chỉ kịp đau đớn, nhưng gia biến nặng nề, nỗi
đau của cha, nỗi đau của mẹ, nỗi buồn của các em, những điều ấy đòi hỏi Kiều phải
đứng vững, tạm quên mình đi để giải quyết việc nhà cho trọn đạo một người con. Một
người chị, phải rời gia đình, cùng Mã Giám Sinh ra đi, trong nỗi buồn vì không vẹn
tình với Kim Trọng, Kiều có niềm an ủi đã cứu được gia đình. Vừa đến Lâm Tri,
bước vào nhà mụ Tú Bà, chưa kịp hồi sức sau một chặng đường dài “Vó câu khấp
khểnh, bánh xe gập ghềnh”, Kiều đã hoảng hốt vì quang cảnh nhà mụ. Kiều đã gặp

ngay một trận “ tam bành" của con mụ bán thịt người ác độc. Có lẽ Kiều đã đau, đã
nhục, đã căm hờn, nhưng chưa kịp buồn.
Bây giờ mới thực sự buồn. Ta hình dung Kiều ngồi một mình trên lầu Ngưng Bích
(thực chất là lầu rước khách của mụ Tú), bốn bề là mênh mông vắng lặng. Cảnh ấy
dội vào lòng Kiều, xui nàng nghĩ về thân phận của mình. Nỗi buồn mỗi lúc một thấm
thía. Nàng buồn vì nhớ tới Kim Trọng, người mới cùng nàng thề bồi tha thiết mà nay
thì vĩnh viễn cách xa. Nàng buồn vì nỗi xa cha mẹ, từ nay mỗi ngày một già yếu mà
không có nàng để hôm sớm đ đần chăm sóc. Nỗi buồn thật là vời vợi mênh mông,
giờ đã đọng thành khối trong lòng Kiều. Nếu ban đầu nỗi buồn còn từ cảnh một dội


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

vào lòng thì lúc này nỗi buồn lại chính từ lòng buồn. Với hai tiếngo “buồn trông".
Nguyễn Du sao mà hiểu lòng người sâu sắc quá vậy㌳
Kiều trông gì?
Đây là bức tranh thứ nhất:
"Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?"
Trông về "cửa bể" mà lại là “cửa bể chiều hôm". Lúc ấy mặt trời sắp tắt, chỉ còn để lại
những ánh sáng thoi thóp cuối cùng trên mặt nước. Nhìn về cửa bể tức là còn nhìn
thấy cả một mặt bể đang mất hút đi ở cuối chân trời. hía ấy không có gì cả ngoài một
trống vắng mênh mông, một bầu trời đang dần tối. Thế mà trên cái nền trống vắng lại
nổi lên hình ảnh “thuyền ai". “Thuyền ai" tức là chỉ có một chiếc thuyền, chứ không
phải cảnh đoàn thuyền đông đúc tấp nập từ biển trở về để gợi lên một điều vui vẻ.
Con thuyền gần như mất hút cuối chân trời, vì Kiều chỉ nhìn thấy cánh buồm của nó,
mà cánh buồm thì lại cũng chỉ othấp thoáng”. “Thấp thoáng", hai âm "th" gợi một
cảm giác kịp lại. Với hai âm "ấp" và “oáng" một âm tấc, một âm vang - diễn tả hình

ảnh cánh buồm mờ mờ tỏ tỏ, chợt hiện rồi chợt ẩn, nhấp nhô trên sóng biển, như mơ
hồ, như ảo ảnh ở cuối biển xa xa. "Thuyền ai ..." thuyền ai đó, thuyền ai thế nhỉ?
Thuyền đang đi về nơi quê nhà thân yêu của ta chăng? Hay thuyền đang đi về nơi vô
định, cũng cô đơn, cũng lưu lạc giang hồ như chính ta? Tâm sự này đã buồn, trông
vào cảnh ấy, sao có thể không thấm thía nỗi buồn hơn.
Như để tìm một chút lãng quên, Kiều ngoảnh mặt nhìn sang hướng khác. Thì đây:
“Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?"
Tổng hợp: Download.vn


Trước mắt Kiều là một ngọn nước từ trên thác cao đang đổ xuống. Mới từ lòng suối
chảy trôi khỏi đầu ngọn thác, ôi thôi, thế là tan tác đời trong trẻo với êm đềm của
nước. Bây giờ là lúc bắt đầu của dập vùi, cuồn xoáy, sôi trào, xô dập, ngầu đục cát
bùn. Kinh hãi thay cái phút từ trên mỏm đá cao sa xuống thác㌳ Cảnh ngọn nước đã
buồn, mà nhìn đến chân ngọn nước thì: hoa trôi man mác ... Giá nhà thơ viết ootan tác"
thì cũng đành đi một nhẽ, cho nó tan v đi, chìm lấp đi, những cánh hoa mỏng manh
kia㌳ Nhưng không, hoa rụng xuống dòng nước và bập bềnh trôi đi, bị đưa qua đẩy lại,
rồi lại trôi đi, lặng lẽ, buồn bã, để đến một nơi nào không làm sao có thể biết được.
Ngọn nước mới sa ấy, cánh hoa trôi ấy. có khác chi cuộc đời Kiều㌳ Chính Kiều cũng
là một ngọn nước vừa mới đi qua lòng suối êm đềm và vừa mới sa xuống giữa ngọn
xoáy dập vùi. Chính Kiều cũng là đóa hoa đang man mác trôi đi. Đơn độc và mỏng
manh trên một dòng nước vừa dài vừa rộng với bao nhiêu đe doạ chưa thế nào hình
dung ra hết.
Lòng đã buồn, cảnh lại buồn quá. Thôi, hãy đưa mắt trông đi nơi khác.
“Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh."
Lại một cảnh mênh mông hoang vắng: một đồng cỏ phẳng lặng kéo mãi đến cuối tầm
nhìn, không một bóng cây, không một dòng sông, không một gò núi, không nhà để
phá v bớt cái đơn điệu chán nản ấy đi. Chỉ có cỏ, cỏ và cỏ. Mà cỏ thì tươi tốt gì đâu㌳

Từ "dầu dầu" không chỉ gợi lên ý buồn bã, mà còn hình dung thấy những ngọn cỏ lưa
thưa ủ ê như đang dần héo hắt đi, đang mất sức sống. Đây không phải là đồng cỏ xuân
đầy sức sống và niềm vui khi Kiều đi hội thanh minh:
“Cỏ non xanh rợn chân trời... ”


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Đây là đồng cỏ cuối mùa, cũng đang buồn bã như chính lòng người ngắm cảnh, thế
mà cái đồng cỏ ấy, cái màu cỏ ủ ê ấy lại kéo dài ra vô tận, tiếp cả với nền trời, thành
một màu duy nhất: "xanh xanh". Nêu Nguyễn Du viết:
“Chân mây mặt đất một màu xanh tươi"
Thì hẳn nàng Kiều đã tìm được ở đó một niềm an ủi, đôi chút lãng quên. Nhưng xanh
xanh thì chưa hẳn là xanh, chỉ có vẻ xanh thôi, một màu xanh nhợt nhạt, xa xôi, làm
gợi lên một niềm ngao ngán. Và có lẽ cái màu “xanh xanh" ấy là cái màu của tâm
trạng được nhìn từ đôi mắt đẫm ướt khổ đau.
Thế là Thuý Kiều đã ngoảnh nhìn hết ba hướng. Nàng chỉ còn một hướng cuối cùng.
May ra có chút đổi thay chăng?
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi"
Hóa ra cái buồn của ba cảnh trước tuy buồn mà chưa thực là buồn. Ba cành trên buồn
đến thế còn là nhẹ quá. Cảnh này mới thực là buồn. Ba bức tranh trên chi là những
bước chuẩn bị cho cảnh buồn cuối cùng này. Một vùng biển ăn sâu vào đất liền, ngoài
kia là biển lớn. Gió biển hun hút chạy vào duềnh, gió cuốn ào ào khiến mặt biển nổi
đầy sóng lớn, trắng xóa một màu. Sóng vỗ “ầm ầm" chứ không phải “ầm" như những
ngày ít gió; sóng gào thét cuồng nộ, dập vào bờ, xô dập nhau, lớp sóng này chưa tan
đã ào lên lớp sóng khác, liên tục, bất tận. Tiếng sóng lớn lắm, không chỉ vang ầm trên
biển mà vang đi rất xa, vang khắp bốn bể. Kiều dường như mình không còn ngồi trên

lầu Ngưng Bích nữa, mà ngồi đau chính giữa duềnh biển mênh mông ấy, bốn bên
nàng là sóng vỗ. Mấy từ ooầm ầm tiếng sóng" nghe đã dữ dội bên tai nàng, dâng lên
gào thét trong tâm hồn nàng, vây bủa lấy nàng.

Tổng hợp: Download.vn


Nếu trong ba bức tranh trên, giữa người và ngoại cảnh còn là hai đối tượng phân biệt,
đâu là chủ, đâu là khách, thì đến bức tranh này, con người đã nhập vào ngoại cảnh;
ngoại cảnh trùm phủ lấy con người, nỗi buồn thực đã đi đến mức cùng tột của cao trào.
Lúc này, con người sẵn sàng tan đi cùng với ngoại cảnh, sẵn sàng làm bất cứ việc liều
lĩnh nào để hoặc thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, hoặc có thể chết đi cũng không cần.
Chính tâm trạng này đã dọn đường cho việc Kiều gặp Sở Khanh, liều lĩnh theo y rồi
bị lừa gạt.
Bốn bức tranh của Nguyễn Du thật ra thì không lạ lùng. Nhưng thật là lạ lùng cách
của Nguyễn Du diễn tả những bức tranh ấy trong sự hòa hợp với hoàn cảnh và tâm
trạng của Thúy Kiều. Bởi Nguyễn Du rất tinh tế khi nhìn cảnh, rất sâu sắc về tình
người, nhưng còn bởi điều này nữa: Nguyễn Du rất tài tình trong ngôn ngữ.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 4
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học. Có thể ví tác phẩm như một trái bom nổ giữa
làng văn và có thể làm vinh dự cho bất cứ một nền văn học nào có nó. Bởi truyện đã
đạt tới trình độ mẫu mực về mặt nội dung và nghệ thuật độc đáo. Một trong các nghệ
thuật làm nên sức hấp dẫn và thành công của "Truyện Kiều" đó là nghệ thuật khắc họa
hình tượng và diễn biến tâm trạng nhân vật. Đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là
đoạn trích hay, là minh chứng tiêu biểu cho nghệ thuật này. Qua đoạn trích chúng ta
thấy được tâm trạng phức hợp trong lòng Kiều khi một mình phải bơ vơ nơi đất khách
quê người, không biết phải bấu víu và nương tựa vào đâu.
Trích đoạn nằm ở phần thứ hai "Gia biến và lưu lạc" của "Truyện Kiều". Sau khi bán
mình cho Mã Giám Sinh để có tiền chuộc cha và em, Kiều đã "thất thân" với hắn
"đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ", rồi nàng bị hắn bán vào lầu xanh, làm gái làng

chơi. Biết mình bị lừa và phải làm nghề dơ bẩn, Kiều uất ức, rút dao định tự vẫn. Tú
Bà sợ hãi "Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma", nhanh trí, mụ liền vờ hứa hẹn đợi Kiều


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

bình phục sẽ gả chồng cho nàng vào nơi tử tế. Nhưng thực chất, Kiều bị giam lỏng ở
lầu Ngưng Bích và mụ ta đang đợi cơ hội thực hiện âm mưu mới, ép nàng phải ra làm
việc đó. Vì thế "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là đoạn đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt cuộc
đời của Kiều trong mười lăm năm lưu lạc. Đoạn trích dựng lên tâm trạng cô đơn,
buồn tủi và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của
Thúy Kiều khi đang phải một mình bơ vơ, lạc lõng nơi xứ lạ người xa. Đồng thời qua
đoạn trích, người đọc thấy được bút pháp "tả cảnh ngụ tình" độc đáo, đạt tới trình độ
điêu luyện bậc thầy của thiên tài văn học Nguyễn Du.
Trước hết là sáu câu thơ đầu là tâm trạng cô đơn, bất hạnh, đáng thương và tội nghiệp
của Kiều trước thiên nhiên ở lầu Ngưng Bích. Ngay câu thơ mở đầu: "Trước lầu
Ngưng Bích khóa xuân", Nguyễn Du đã nêu bật lên cảnh ngộ đáng thương của Kiều.
"Khóa xuân" tức khóa kín tuổi xuân và ở đây ý nói về việc Kiều đang bị giam lỏng.
Vậy là tuổi thanh xuân của nàng Kiều bị giam hãm, khóa kín trong cấm cung và
không được giao tiếp với bên ngoài. Vì thế, lầu Ngưng Bích như là nhà tù giam lỏng
cuộc đời Kiều, nó cho thấy tình cảnh đáng thương, xót xa mà nàng Kiều phải chịu
đựng.
Những câu thơ tiếp theo, tái hiện quang cảnh xung quanh lầu Ngưng Bích rộng lớn,
mênh mông được nhìn dưới con mắt đầy tâm trạng của Kiều:
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Tổng hợp: Download.vn


Nguyễn Du đã đặt Kiều trong một cảnh ngộ rất đặc biệt: một mình, cô đơn, trơ trọi
giữa một không gian rộng lớn, mênh mông: "bốn bề bát ngát". Đứng trên lầu mà
ngước mắt lên trời cao, Kiều chỉ thấy "non xa" và "tấm trăng gần". Nhìn xuống mặt
đất chỉ thấy khoảng không trống vắng, xa xa là những con sóng lượn, những bãi cát
dài phẳng lặng nối tiếp nhau, dưới ánh nắng của buổi chiều tà, bãi cát như trở nên lấp
lánh giống như những bụi hồng. Cảnh thật đẹp, thơ mộng, lãng mạn nhưng đượm
buồn. Bởi xung quanh Kiều, không hề có một chút bóng dáng sự sống của con người.
Vì thế, từ “xa trông” như miêu tả cái nhìn xa xăm của Kiều, nàng đang cố gắng kiếm
tìm một chút bóng dáng, sự sống xung quanh. Nhưng tuyệt nhiên chỉ là một không
gian vắng lặng, tĩnh tại, không có chút động nhỏ bé nào đó xung quanh mình. Sau này
trong bài thơ "Tràng Giang", Huy Cận cũng từng có câu thơ:
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vì thế, ẩn sau ánh mắt nhìn "xa trông" như đang trông mong, ngóng chờ ấy là niềm
mong mỏi, khát khao, đợi chờ một tương lai hạnh phúc phía trước nhưng trước không
gian trống trải, hoang vắng ấy thì chắc chắn chỉ làm cho Kiều trở nên thất vọng, cô
đơn hơn mà thôi.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Tính từ “bẽ bàng” gợi lên sự xấu hổ và tủi thẹn của Kiều khi nghĩ đến thân phận và
duyên phận của mình. Có lẽ, nàng cảm thấy xấu hổ là vì bị Mã Giám Sinh lừa vào lầu
xanh, còn nàng cảm thấy tủi thẹn là vì cảm thấy không còn xứng đáng với tình cảm
mà Kim Trọng mong chờ. Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi nên vòng tuần hoàn thời
gian khép kín và ẩn sau đó là sự cô đơn, đơn điệu, nhàm chán khi mà ở đó Kiều chỉ có



Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

một thân một mình đối diện với chính mình, sớm thì làm bạn với mây, tối thì lại chỉ
biết trò chuyện với bóng đèn. Vì thế tâm trạng của Kiều mới chia đôi thành hai ngả:
“nửa tình – nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cảnh có đẹp đến bao nhiêu đi chăng nữa
cũng không thể nào khỏa lấp đi tâm trạng “bẽ bàng” của nàng.
Tóm lại: Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với những từ ngữ giàu tính tạo hình
và biểu cảm, Nguyễn Du đã phác họa được khung cảnh lầu Ngưng Bích rất rộng lớn,
mênh mông và tuyệt nhiên không có sự sống của con người. Đồng thời qua đó, tác giả
còn cho thấy được tâm trạng cô đơn, tủi hổ, bẽ bàng của Kiều khi bị giam lỏng trong
lầu Ngưng Bích.
Trong nỗi cô đơn cố hữu đang bủa vây quanh mình, khi một mình Kiều phải bơ vơ
dưới góc bể chân trời ở lầu Ngưng Bích thì nỗi nhớ gia đình, nỗi nhớ người yêu đến
như một lẽ tất yếu, rất phù hợp với qui luật tâm lí của con người xa quê. Tám câu thơ
tiếp là nỗi niềm thương nhớ Kim Trọng và cha mẹ của Kiều.Đến đây, chúng ta thấy
được cách dùng từ rất đắc địa, khéo léo của nhà thơ. Để diễn tả nỗi nhớ của Kiều dành
cho chàng Kim, tác giả đã dùng động từ “Tưởng”. Tưởng là nhớ tới mức hình dung ra
Kim Trọng đang ở trước mắt trò chuyện với Kiều. Kiều nhớ đến đêm trăng thề
nguyện, hai người cùng uống chén rượu thủy chung, hứa sẽ bên nhau trọn đời. Nhưng
bây giờ nàng đang phải lạc lõng nơi đất khách, nên nàng tưởng Kim Trọng đang đợi
tin tức của mình, còn mình thì bặt vô âm tín:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Rồi nàng băn khoăn tự hỏi:
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.


Tổng hợp: Download.vn


Câu thơ như một lời khẳng định về tấm lòng son sắt, thủy chung của Kiều đối với
Kim Trọng dù trên bước đường đời có phải trải qua bao sóng gió thì tấm lòng son ấy
mãi vẹn nguyên. Đồng thời, đây cũng là lời tự vấn lương tâm của Kiều, Kiều cho rằng
tấm lòng son sắt của mình với Kim Trọng đã bị hoen ố, đã bị dập vùi khi Kiều đã thất
thân với Mã Giám Sinh nên không biết bao giờ mới gột rửa cho sạch được vết nhơ
nhuốc ấy. Như vậy, trong nỗi nhớ chàng Kim, Thúy Kiều không chỉ bộc lộ nỗi niềm
mong ngóng khắc khoải mà còn bộc lộ cả nỗi đau đớn, cùng cực, tủi hổ đến xé tâm
can. Qua đó cho thấy được tấm lòng thủy chung, son sắt của Kiều dành cho Kim
Trọng.
Sau nỗi nhớ người yêu, Kiều tiếp tục nhớ tới cha mẹ - người thân yêu ruột thịt của
mình:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
Nếu như khi diễn tả nỗi nhớ chàng Kim của Kiều, Nguyễn Du dùng động từ "tưởng"
thì khi diễn tả tấm lòng hiếu lễ với cha mẹ của Kiều, tác giả lại sử dụng tính từ “Xót”.
Xót nghĩa là thương, thương đến mức xót xa trong lòng. Không xót xa sao được khi
một đứa con hiếu thảo như Kiều lại cứ nghĩ đến hình ảnh cha mẹ đang tựa cửa ngóng
chờ con trở về, còn con thì vẫn bóng chim tăm cá, không thấy đâu. Nàng còn lo lắng
cho cha mẹ khi mà đã tuổi cao sức yếu không biết có ai chăm sóc cho không, hai em
có làm tốt nghĩa vụ và trách nhiệm của phận làm con hay không. Cụm từ “cách mấy
nắng mưa” có tính chất gợi tả thời gian, cho thấy sự xa cách của biết bao ngày mưa
nắng nhưng cũng đồng thời gợi đến khoảng cách về không gian địa lí, sự xa xôi cách
trở giữa nàng với cha mẹ biết bao giờ được gặp lại để làm tròn bổn phận làm con. Qua
tâm trạng xót xa, buồn tủi và lo lắng khi nhớ về cha mẹ, gia đình của Kiều, chúng ta



Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

thấy được tấm lòng thảo thơm, hiếu nghĩa của Kiều dành cho cha mẹ rất là lớn lao,
cao cả và thiêng liêng.
Đoạn thơ khép lại với tám câu thơ cuối thể hiện tâm trạng đau buồn, lo âu của Kiều
qua cách nhìn cảnh vật:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Điệp ngữ “buồn trông” được lặp đi lặp lại bốn lần. Đây là điệp ngữ liên hoàn và đồng
thời cũng là điệp khúc của tâm trạng. Kiều buồn nên Kiều mới trông cảnh vật, khác
với đoạn trước, Kiều trông mới thấy buồn. Ở đây, vì buồn nên trông, mà càng trông
thì Kiều lại càng buồn. Nỗi buồn cứ thế điệp đi điệp lại dâng lên thành lớp lớp sóng
trào, cứ cuộn xoáy trong tâm khảm của Kiều mà trở thành gánh nặng tâm tư.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Chiều hôm là khoảng thời gian của buổi chiều hoàng hôn, khi mà mặt trời đã dần dần
ngả về tây, bóng tối bắt đầu xâm lấn. Xa xa là hình ảnh của một chiếc thuyền nhỏ bé,
cô đơn thoắt ẩn, thoắt hiện thấp thoáng trên cửa biển; một cánh hoa đang trôi bất định
Tổng hợp: Download.vn



trên dòng nước mà không biết đi về đâu. Hình ảnh chiếc thuyền, cánh hoa được đặt
trong thế tương phản đối lập với vũ trụ không cùng của trời đất mênh mang càng tô
đậm hơn sự nhỏ bé, đơn độc, đáng thương và tội nghiệp. Đây là hình ảnh ẩn dụ cho
thân phận của Kiều lênh đênh, chìm nổi giữa dòng đời mà không biết trôi dạt về đâu.
Và đứng trước một không gian bao la của trời đất, của buổi chiều hoàng hôn sắp tắt,
nỗi nhớ nhà, nhớ người thân đến như một lẽ tất yếu trong lòng Kiều. Nhưng trong tình
cảnh “bốn bề góc bể bơ vơ” thì Kiều biết bao giờ mới được sum họp, đoàn viên cùng
với gia đình, người yêu. Vì thế câu hỏi tu từ cứ réo rắt, khắc khoải trong lòng của
Kiều, dấy lên niềm khao khát được trở về nhà, trở về quê hương nơi chôn rau cắt rốn
của mình.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Ngước mắt trông về phía xa của cửa biển Kiều chỉ càng cảm thấy rộng trống, cơ đơn,
buồn tủi. Kiều quay trở về nhìn xuống mặt đất quanh mình để tìm kiếm sự sống của
cảnh vật xung quanh thì lại chỉ thấy những đám cỏ xanh héo úa, lụi tàn. Hình ảnh “nội
cỏ rầu rầu” là một hình ảnh nhân hóa, biểu hiện tâm trạng của con người. Lòng người
buồn nên nhìn đâu cũng thấy buồn; nỗi buồn của Kiều như thấm vào cảnh vật khiến
cho cảnh vật cũng nhuốm màu tâm trạng. Trong văn học từ xưa tới nay, màu sắc xanh
thường khiến chúng ta nghĩ tới màu của sự sống, của sự sinh sôi bất diệt. Nhưng cũng
có trường hợp, màu xanh có khi trở thành màu sắc của bi kịch con người. Bài thơ
“Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn đã diễn tả nỗi nhớ của người chinh phụ đối
với người chồng của mình nơi biên ải qua màu xanh ngắt của cỏ lá:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiết ai sầu hơn ai?”



Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Như vậy, màu xanh ngắt, xanh xanh của cỏ lá đã trở thành màu của sự xa cách, sự li
biệt và nhạt nhòa. Nay từ “xanh xanh” lại xuất hiện trong câu thơ của Nguyễn Du nên
màu sắc ấy biểu trưng cho sự nhạt nhòa, sự chán nản, vô vọng của Kiều trước một
khung cảnh thiếu vắng sự sống, cô đơn, và tẻ nhạt.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nếu như những bức tranh thiên nhiên bên trên đều được tái hiện trong trạng thái tĩnh
thì khép lại bài thơ, bức tranh thiên nhiên được miêu tả trong trạng thái động. Đó là
âm thanh dữ dội của gió, của sóng; gió làm cho mặt biển tung lên những con sóng ồ ạt
đập vào bờ mà phát ra tiếng kêu. Nhưng quan trọng, tiếng sóng ấy không đơn thuần là
những con sóng thực ở ngoài biển khơi mà đó còn là con sóng lòng của tâm trạng.
Điệp khúc “buồn trông” ở những câu thơ trên kết đọng, tích tụ rồi dồn đẩy xuống câu
thơ cuối khiến cho nỗi buồn ngày càng trở nên chồng chất như lớp lớp sóng trào.
Đồng thời, tiếng sóng “ầm ầm” dữ dội ấy cũng chính hình ảnh ẩn dụ cho cuộc đời
phong ba bão táp đã và đang đổ ập xuống đời Kiều, đổ ập xuống đôi vai gầy yếu của
một cô gái trẻ đáng thương và tội nghiệp. Vì thế lúc này Kiều không chỉ buồn mà còn
lo lắng, sợ hãi như đang rơi vào vực thẳm một cách bất lực.
Tóm lại: Tám câu thơ cuối, Nguyễn Du đã sử dụng thật tài tình bút pháp “tả cảnh ngụ
tình” của văn học cổ điển để diễn tả tâm trạng “tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình
này” của Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Mỗi câu thơ là một bức tranh thực
cảnh cũng chính là thực tình của một con người mang trong mình nỗi buồn đau chồng
chất. Đó là nỗi đau đớn, xót xa, lo lắng và khắc khoải của một kiếp má đào, trôi nổi,
vô định, mong manh và bế tắc không biết đi về nơi đâu. Vì thế, dù nàng “Thông minh
vốn sẵn tính trời” nhưng đang đứng trước sự tuyệt vọng, yếu đuối của bản thân, Kiều

Tổng hợp: Download.vn



đã bị Sở Khanh lừa gạt để rồi dấn thân vào một cuộc đời đầy sóng gió, truân chuyên
“Thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”.
Qua việc phân tích ở trên, chúng ta thấy đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" là một
trong những đoạn thơ hay, đặc sắc và thành công nhất trong Truyện Kiều về nghệ
thuật miêu tả, khắc họa thế giới nội tâm nhân vật và nghệ thuật "tả cảnh ngụ tình".
Qua đoạn thơ chúng ta thấy được tâm trạng, cảnh ngộ cô đơn, đáng thương, tội nghiệp
và tấm lòng thủy chung son sắt với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ của nàng Kiều,
một con người tài hoa mà bạc mệnh㌳
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 5
Tác phẩm “Truyện Kiều” là một tuyệt phẩm của tác giả Nguyễn Du. Ông đã đóng góp
cho nền thi ca Việt Nam cổ đại một tác phẩm tuyệt vời có sức sáng tạo, vang xa tới
nhiều thế hệ sau. Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn trích hay nó đã lột
tả được tâm trạng của Thúy Kiều khi phải xa Kim Trọng mối tình đầu thơ mộng, tâm
trạng đau đớn khi gia đình lâm biến và bản thân nàng từ chỗ một tiểu thư xinh đẹp
khuê các phải sa chân vào chốn thanh lâu nhơ nhuốc.
Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tác giả Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng rất
nhiều bút pháp điêu luyện nhưng nổi bật lên là tả cảnh, ẩn tình, lấy cảnh vật để nói lên
nỗi lòng của con người, người và cảnh vì thế mà tâm đầu ý hợp hòa quyện vào nhau.
Sau khi gia đình lâm biến và bị Mã Giám Sinh dùng mưu hèn kế bẩn, gạ gẫm lừa tình
rồi bị bán vào thanh lâu, Thúy Kiều đã định tự kết liễu đời mình, nhưng kế hoạch của
nàng không thành công. Tú Bà thấy Thúy Kiều cương quyết sợ nàng lại tự tử lần nữa
chết thật thì bà ta mất tiền oan, nên ra sức lấy lòng Thúy Kiều, ngọt nhạt để Thúy
Kiều nghe lời mình mà chấp nhận tiếp khách.


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích


Đây là tâm trạng của Kiều những ngày đầu ở lầu Ngưng Bích, một tâm trạng sống
không bằng chết, cô đơn chán nản cuộc đời và mất lòng tin ở con người.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
“Khóa xuân” hai từ này đã gợi lên trong lòng người đọc rất nhiều cảm xúc chua chát.
Nó thể hiện sự giam cầm, mất tự do cả về thân thể lẫn tâm hồn của một người con gái
đang xuân, đang ở cái tuổi đẹp nhất của đời người đầy mơ mộng, đầy ước mơ mà giờ
đây bị nhốt đời mình ở chốn nhuốc nhơ này.
Không gian nên thơ, nhưng mênh mông rộng lớn càng khiến cho tâm trạng của nhân
vật Thúy Kiều trở nên cô liêu, hiu quạnh đến tang tóc buồn. Bốn bề thì bát ngát, thể
hiện sự xa cách, không gian thì bao la những cồn cát, bụi hồng xa mờ khói bụi, làn
sương thể hiện sự mờ ảo, mịt mù, không rõ bóng tối hay ánh sáng. Nó cũng như đời
Thúy Kiều lúc này không biết tương lai ra sao, tất cả đều mịt mù tăm tối.
Không gian càng mênh mông tăm tối, mịt mù càng làm cho tâm trạng Thúy Kiều trở
nên thê lương bi đát hơn bao giờ hết. Một cuộc sống bị giam cầm tù đày cả về tâm
hồn, lẫn thể xác.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Hai từ “bẽ bàng” đã lột tả được mọi sự ê chề, đau đớn của Thúy Kiều, khi cô vừa bị
Mã Giám Sinh lừa tình, rồi lại còn bị bán vào lầu xanh. Vừa thất tiết vừa tủi nhục, vừa

Tổng hợp: Download.vn


oán hận, vừa thê thương. Tâm trạng tủi hổ vì sự ngu dốt, mê muội tin nhầm người của
nàng đã được hai từ “bẽ bàng” nói hộ.
“Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng” con người và cảnh vật đã thật sự hòa nhập vào

làm một. Cảnh vật cũng như người đều mang cảnh u sầu, trống trải, cô đơn khắc
khoải…Tất cả khiến cho bức tranh thiên nhiên và con người trở nên xám xịt, mịt
mù…
Trong những câu thơ tiếp theo tác giả đưa nhịp bài thơ trở nên nhanh hơn, chuyển
hướng tâm trạng của Thúy Kiều hồi tưởng lại những ngày xưa bình yên hạnh phúc.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Trong sự ê chề, bẽ bàng, tủi nhục này người nàng nhớ về đầu tiên chính là chàng Kim
Trọng, nhớ người đã thề hẹn ước nguyện với nàng. Nhưng nay lời thề hẹn không thể
nào giữ được nữa, nên nàng nhớ về Kim cũng là điều dễ hiểu. Nhưng càng nhớ về
Kim Trọng thì tâm trạng nàng lại càng đau đớn khi nghĩ tới hiện tại của mình. Có lẽ
việc quay lại như xưa là điều không thể nào còn thực hiện được.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Nàng nghĩ về những người sinh thành ra mình, cảm thấy xót xa, khi nghĩ tới việc từ
nay sẽ không còn được phụng dư ng, hiếu kính với cha mẹ, không được sống trong
sự che chở cưu mang của những người thân thương ruột thịt nhất đời nàng. Nàng lo
lắng, xót xa nhưng rồi lại tự suy nghĩ rằng sẽ có Thúy Vân và em trai nàng chăm sóc
cho hai đấng sinh thành nên nàng tạm thời nguôi ngoai nỗi lòng.


Văn mẫu lớp 9

Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Thúy kiều lại trở về với thực tại của đời mình, trở về với nỗi đau hiện thực:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông ngọn cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại trong khổ thơ. Nó như tâm trạng của Kiều
lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nên nàng nhìn gì cũng cảm
thấy buồn. Thúy Kiều cảm thấy đời mình nhan phận bèo trôi, hoa rụng chả biết sẽ
được dòng đời xô về đâu, rồi sẽ đến ngày hoa tàn nhụy héo. Câu thơ nói lên sự lênh
đênh trên chặng đường đời nhiều sóng gió trước mặt Kiều. Nó nói lên sự phong ba,
gập ghềnh mà Kiều sẽ phải đi qua:
“Buồn trông sóng cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ lên với những màu sắc
xám lạnh, gợi tả tâm trạng vô cùng sống động, nhưng nó cũng nhiều thê lương ai oán.
Cảnh và người trong đoạn trích như hòa vào làm một nó thể hiện sự cô đơn, bẽ bàng,
buồn tủi của Thúy Kiều trong cảnh đời éo le của mình, nhưng nó cũng thể hiện sự
hiếu thuận, sắc son của Kiều đối với cha mẹ và Kim Trọng dù trong biến cố nhưng
trong lòng Thúy Kiều vẫn luôn hướng về những người yêu thương.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 6
Nguyễn Du là một bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể được coi
là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển hương Đông. Nhưng Nguyễn Du không
chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông,
Tổng hợp: Download.vn


×