Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế việt nam, thái lan, malaysia, myanmar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.1 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

---------------

NGUYỄN THỊ THẢO SƯƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM, THÁI LAN,
MALAYSIA, MYANMAR

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

---------------

NGUYỄN THỊ THẢO SƯƠNG
TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA MẶT HÀNG XUẤT KHẨU
ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM, THÁI LAN,
MALAYSIA, MYANMAR
Chuyên ngành: Kinh Tế Học
Mã số chuyên ngành: 60 03 01 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ HỌC
Người Hướng Dẫn Khoa Học
TS.LÊ THÁI THƯỜNG QUÂN



Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2019


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu
đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar” là công trình
nghiên cứu độc lập của tôi, do chính tôi hoàn thành, các số liệu, kết quả nêu trong
luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên thực hiện luận văn


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này, trước hết tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia
đình đã luôn động viên giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tác giả hoàn thành nghiên
cứu này.
Đặc biệt tác giả xin gửi lời cám ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy hướng dẫn
TS. Lê Thái Thường Quân đã luôn giúp đỡ và đưa ra những nhận xét, góp ý giúp tác giả
hoàn thành nghiên cứu này.
Nhân dịp này tác giả xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy, các Cô
trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh đã luôn động viên và tận tình hỗ trợ, tạo
điều kiện cho tác giả hoàn thành nghiên cứu.
Cuối cùng tác giả kính chúc quý thầy, cô dồi dào sức khỏe và thành công trong sự

nghiệp cao quý.
Xin chân thành cảm ơn!

Tác giả luận văn


iii

TÓM TẮT
Luận văn đã xây dựng và kiểm định được các giả thuyết nghiên cứu của đề tài không
chỉ bằng mô hình hồi quy đa tuyến tính bình phương nhỏ nhất (OLS) mà sử dụng thêm mô
hình hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) và mô hình tác động cố định (FEM) để ước lượng
các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar.
Dựa trên mô hình trọng lực và phân tích trên phần mềm Stata12 cho thấy kết quả mô hình:
tăng trưởng kinh tế chịu ảnh hưởng cùng chiều với lao động (LAODONGij) và ngược chiều
với đa dạng hóa (DADANGHOAij) và tài nguyên thiên nhiên (TNTNi). Từ những kết quả
trên đề tài cũng đã đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao và thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế của Việt Nam ,Thái Lan, Malaysia, Myanmar cũng như khu vực Đông Nam Á.


iv

ii
i

MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1Tính cấp thiết của đề …………………………………………………………………….1
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn……………………………..2
1.3. Mục đích nghiên cứu…………………………………………………………………....4

1.4.1. Đôi tượng nghiên cứu………………………………………………………………...4
1.4.2. Phạm vị nghiên cứu…………………………………………………………………...4
1.5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………………..5
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiền của luận văn……………………………………………..5
1.7. Kết cầu của luận văn ……………………………………………………………………6
2. 1Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố tác động……………………………………………..7
2.1.1 Khái niệm tăng trưởng knh tế…………………………………………………...……..7
2.2. Một số thước đo thu nhập và tăng trưởng kinh tế chủ yếu……………………………….9
2.2.1. Một số thước đo thu nhập chủ yếu…………………………………………………….9
2.2.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế………………………………………………………..11
2.3. Các nhân tô tác động tới tăng trưởng kinh tế…………………………………………..11
2.3.1 Thước đo tài nguyên thiên nhiên……………………………………………………..15
2.4. Cơ sở lý luận vé đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu……………………………………...16
2.4.1. Quan niệm về đa dạng hóa và tập trung hóa mặt hàng xuất khẩu…………………….16
2.4.2. Phân loại đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu…………………………………………..18
2.4.3. Đo lường đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu…………………………………………..19
2.4.3.1. Đo lường đa dạng hóa theo số lượng chúng loại mặt hàng. ……………………….19
2.4.3.2. Đo lường đa dạng hóa thông qua chỉ số phản ánh mức độ tập trung hóa
Herfindali………………………………………………………………………………….20
2.4.3.3. Đo lường đa dạng hóa theo chỉ số Theil Etropy…………………………………...21
2.4.3.4.Đo lường đa dạng hóa dựa trên mức độ chế biến của các mặt hàng xuất khẩu…….21
2.4.3.5. Đo lường đa dạng hóa dựa trên lợi thể so sánh hiện hữu (RC4) …………………..22
2.5. Cơ sở khoa học nghiên cứu tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng
trưởng kinh tế………………………………………………………………………….......23
2.5.1. Cơ sở lý thuyết về tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đi với tăng trưởng


v

i

v

kinh tế…………………………………………………………………………...................23
2.5.1.1. Lý thuyết thương mại truyền thống………………………………………………...23
2.5.1.2. Lý thuyết của trường phái trọng cầu………………………………………………24
2.5.1.3. Lý thuyết của trường phái cầu trúc………………………………………………...25
2.5.1.4. Lý thuyết chu kỳ sống của sản phẩm……………………………………………….26
2.5.1.5. Lý thuyết của trường phái tăng trưởng nội sinh…………………………………...26
2.5.2. Kênh tác động của đa đạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế………...27
2.5.3. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến
tăng trưởng kinh tế………………………………………………………………………...28
2.5.3.1. Nghiên cứu tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh
tế………………………………………………………………………………………………………28
CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG MÔ HÌNH
3.1Mô hình nghiên cứu đề xuất……………………………………………………….........30
3.2 Mô tả các biến và số liệu……………………………………………………………….31
3.2.1 Phương pháp ước lượng và lựa chọn mô hình phù hợp……………………………….32
3.3.Giới thiệu các phương pháp ước lượng đối với dữ liệu bảng…………………………...33
3.3.1. Phương pháp ước lượng và lựa chọn mô hình……………………………………….34
3.4.Mô hình ảnh hưởng cố định FEM so với mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên
REM……………………………………………………………………………………….34
3.5. Mô hình ảnh hưởng cố định FEM so với mô hình ảnh hưởng ngẫu nhiên REM……….35
CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
4.1 Thống kê mô tả………………………………………………………………………...37
4.2 Mô tả các biến………………………………………………………………………….38
4.3. Kết quả phân tích mô hình hồi quy đa tuyến tính………………………………………38
4.4.Phân tích kết quả……………………………………………………………………….39
4.5.Kết quả lựa chộn giữa mô hình Pooled OLS và REM………………………………….40
CHƯƠNG 5: KIẾN NGHỊ


5.1 Kết luận………………………………………………………………………………..49
5.2 Các khuyến nghị đề xuất……………………………………………………………….50
5.2.1. Quan điểm thực hiện đa đạng hóa mặt hàng xuất khẩu………………………………52
5.2.2. Định hướng thực hiện đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhằm thúc đẩy


vi

v

tăng trưởng kinh tế…………………………………………………………………………54
5.2.2.1. Định hưởng phương thức thực hiện a dạng hóa mặt hàng xuất khẩu………………55
5.2.2.2. Định hướng phúi triển mặt hàng xuất khẩu………………………………………..56
5.3Một số hạn chế và đề xuất hướng nghiên cứu trong tương lai…………………………...57
5.3.1Một số giới của luận văn……………………………………………………………...57
5.3.2Hướng nghiên cứu trong tương lai……………………………………........................58
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phụ lục 1


vii

vvi


viii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.2.1: Tổng hợp các biến cho mô hình phân tíc…………………………………..33
Bảng 4.1. Bảng mô tả các biến trong mô hình………………………………………….38

Bảng 4.3. Ma trận tương quan giữa các biến độc lập trong mô hình…………………...39
Bảng 4.4. Kiểm định đa cộng tuyến mô hình bằng hệ số VIF………………………….40
Bảng 4.5. Kết quả lựa chọn giữa mô hình Pooled OLS và REM………………………41
Bảng 4.6. Kiểm định Hausman lựa chọn mô hình FEM và REM……………………..41
Bảng 4.7. Kết quả hồi quy……………………………………………………………...42
Bảng 4.8. Kết quả kiểm định tương quan chuỗi cho FEM……………………………..42
Bảng 4.9. Kết quả kiểm định phương sai sai số thay đổi cho FEM……………………43
Bảng 4.10. Kết quả mô hình sau khi khắc phục lỗi phương sai thay đổi………………44
Bảng 4.11. Giả thuyết và kết quả phân tích thực nghiệm tác động của đa dạng hóa mặt
hàng xuất khẩu đến tang trưởng kinh tế Việt Nam, Thái lan, Myanmar, Malaysia……45


CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển kinh tế học, mối quan hệ giữa xuất khẩu và tăng trưởng
kinh tế là chủ đề được nghiên cứu từ rất sớm và nhanh chóng thu hút đông đảo nhiều
học giả nổi tiếng. Ngay từ thời Adam Smith (1723-1790), trong tác phẩm nổi
tiếng“Nguồn gốc sự giàu có của các dân tộc”, A.Smith đã nhấn mạnh tầm quan trọng
của việc xuất khẩu hàng hóa như một nhân tố sản xuất giá trị thặng dư, và là một phương
tiện để mở rộng thị trường, đồng thời góp phần cải thiện phân công lao động và nâng
cao năng suất lao động . Kể từ đó đến nay, đặc biệt từ những năm 1960 trở lại đây, tự
do hóa thương mại, thực hiện chính sách hướng ngoại và thúc đẩy xuất khẩu được coi
là động lực phát triển của nền kinh tế.... Tuy nhiên trên thực tế, không phải nước nào
cũng thực hiện thành công chiến lược này. Có nước thực hiện khá thành công chiến
lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu (các nền kinh tế mới nổi ở Đông Á NIES), nhưng
cũng có nhiều quốc gia đang phát triển khác ở Nam Á, châu Mỹ latin lại thực hiện không
mấy thành công. Điều này đã dẫn đến cuộc tranh luận sôi nổi về vai trò của xuất khẩu
đối với tăng trưởng kinh tế. Và một giả thiết được nhiều học giả đặt ra là: có lẽ vai trò
của xuất khẩu đối với tăng trưởng kinh tế không phải chỉ là quy mô, khối lượng xuất
khẩu, mà quan trọng hơn đó chính là cấu trúc rổ hàng hóa xuất khẩu của quốc gia.

Đề lập luận và chứng minh giả thiết này, các trường phái lý thuyết đã đi sâu tìm
hiểu cấu trúc rổ hàng hóa xuất khẩu và tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế. Nhiều
nghiên cứu cho rằng quốc gia có cấu trúc rổ hàng hóa xuất khẩu đa dạng hơn sẽ ít bị
tổn thương hơn trước những biến động về giá cả, nhu cầu của thị trường thế giới; những
nước có nhiều sản phẩm chế biến hơn, có hàm lượng khoa học công nghệ cao hơn sẽ có
lợi thế hơn trong trao đổi buôn bán với những nước chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng
thô, sơ chế, thâm dụng lao động phổ thông. Chính vì vậy, nhiều người gợi ý rằng các
quốc gia đang phát triển nên mở rộng sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm xuất khẩu, đa
dạng hóa cơ cấu mặt hàng xuất khẩu để giảm thiểu những tác động tiêu cực do sự biến
động về thị trường, đồng thời góp phần cải thiện hệ số trao đổi thương mại, tạo hiệu ứng
lan tỏa, nâng cao giá trị hàng xuất khẩu thông qua đa đạng hóa xuất khẩu.

1


Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Malaysia là một quốc gia đang phát triển ở Đông
Nam Á. Thực tế đó đặt ra một vấn đề cần nghiên cứu đó là: liệu cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Malaysia có thực sự đa dạng hay không? nếu
có thì xu hướng đa dạng hóa như thể nào? mức độ đa dạng bao nhiêu? và sự đa dạng
hóa đó ảnh hưởng như thế nào đến tăng trưởng kinh tế? Trả lời những câu hỏi đó cũng
chính là góp phần xem xét lại vai trò của xuất khẩu, đặc biệt là cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thái Lan, Myanmar, Malaysia trong thời
gian qua; đồng thời là cơ sở để các nhà hoạch định chính sách tái cơ cấu mặt hàng xuất
khẩu nhằm đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững của nền kinh tế theo con đường
thúc đẩy xuất khẩu.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài: “Tức động của đa dạng hóa mặt
hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thái Lan, Malaysia Myanmar ” làm
luận văn nghiên cứu của mình.
Việt Nam, Thái Lan, Malaysia Myanmar đều là các nước nằm trong khu vự Đông
Nam Á và là những nước đang phát triển. vì vậy tác giả chọn bốn Quốc gia này để

nghiên cứu cho luận văn của mình. Tác giả lựa chọn giai đoạn từ 1995-2017 là giai đoạn
các nước Việt Nam, Thái Lan, Malaysia Myanmar đang định hướng đa dạng hóa xuất
khẩu để nghiên cứu cho luận văn của mình.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn
Cho đến nay số các công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này còn rất hạn
chế. Đáng chú ý có công trình nghiên cứu về phát triển mặt hàng mới như: nghiên cứu
của Nguyễn Thị Thu Hương (2004) “Một số giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng
mới của Việt Nam trong bôi cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, và nghiên cứu của Nguyễn
Hồng Phong (2007) “Giải pháp phát triển xuất khẩu mặt hàng mới của Việt Nam trong
thời gian tới”. Những nghiên cứu này phần nào đề cập đến vấn đề đa dạng hóa mặt hàng
xuất khẩu, nhưng cách tiếp cận chủ yếu xem xét trong trạng thái tĩnh. Tức là phân tích
các mặt hàng xuất khẩu mới dưới góc độ như là một nhóm sản phẩm, chứ không phân
tích đó là quá trình mở rộng, quá trình đa dạng hóa cơ cấu xuất khẩu . Hơn nữa, những
nghiên cứu đó chỉ dừng lại xem xét ở góc độ mở rộng số lượng hàng hóa (tức đa dạng
hóa theo chiều rộng) mà chưa xem xét đến sự thay đổi cấu trúc, chất lượng rỗ hàng hóa
2


xuất khẩu.
Một số nghiên cứu khác không trực tiếp phân tích đa dạng hóa mặt hàng xuất
Khẩu, nhưng lại đề cập đến sự chuyền dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Đáng chú ý có
nghiên cứu của Nguyễn Hữu Khải (2007) “Đánh giá thực trạng và định hướng chuyển
dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ 2005-2015” và nghiên cứu của Bùi Thúy
Vân (2011) “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với việc chuyền dịch cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu ở vùng Đông bằng Bắc bộ”. Những nghiên cứu này đánh giá sự thay đổi cấu
trúc rổ hàng hóa xuất khẩu, chứ không đánh giá quá trình đa dạng hóa mặt hàng xuất
khẩu. Ở khía cạnh nào đó, sự thay đổi cấu trúc là quá trình đa dạng hóa, nhưng cũng có
những thay đổi trong cấu trúc chưa hẳn là đo đa dạng hóa mà có khi lại do tập trung
hóa.
Gần đây có một nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Hương (2012) về “Đa dạng hóa

mặt hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Nhật Bản”. Đây có thể coi là một trong những
nghiên cứu đầu tiên về đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu . Nghiên cứu đã phân tích mức
độ đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản giai đoạn 20012010 dựa trên chỉ số Herfindahl và thống kê số lượng chủng loại mặt hàng xuất khẩu.
Tuy nhiên, nghiên cứu mới chỉ xem xét đa dạng hóa ở một thị trường cụ thể, chưa phân
tích sự đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu của Đông Nam Á.
Thực tế cho thấy, đối với một thị trường nào đó cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có thể
đa dạng hóa, nhưng ở tất cả các thị trường thì chưa chắc cơ cấu mặt hàng xuất khẩu
được đa dạng hóa. Hơn nữa, nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân tích mức độ đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu theo chiều rộng, chưa phân tích mức độ và xu hướng đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu theo chiều sâu. Đặc biệt, nghiên cứu chưa xem xét ảnh
hưởng của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế các nước Đông Nam
Á.
Ngoài ra, trong một số nghiên cứu về hội nhập quốc tế của Việt Nam như: Báo
cáo “Đánh giá tác động tổng thể khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO đến thay
đổi xuất nhập khẩu và thể chế" của Dự án hỗ trợ chính sách thương mại đa biên
(MUTRAP); Báo cáo “Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với nền kinh tế sau ba
năm Việt Nam gia nhập WTO của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung Ương cũng
3


đã tính toán, phân tích một số chỉ tiêu đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Tuy nhiên những nghiên cứu này chỉ xem xét tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến
đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu chứ không trực tiếp phân tích mức độ, xu hướng đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu . Hơn nữa, các nghiên cứu trên cũng chưa xem xét tác
động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế phát triển các nước
đang Đông Nam Á. Do đó việc nghiên cứu đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu và tác động
của nó đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Thái lan, Malaysia, Myanmar hiện nay
đang là một “khoảng trống” cần được khỏa lấp. Xuất phát từ những khoảng trống đó,
Tác giả nhận thấy rằng việc thực hiện đề tài này là rất cần thiết, bổ sung cho những
nghiên cứu trước đó xét trên cả phương diện khoa học và thực tiển.

1.3. Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát:
-Phân tích tác động của việc đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh
tế Việt Nam, Thái lan, Malaysia, Myanmar
Mục tiêu cụ thể:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về đa đạng hóa mặt hàng xuất khẩu và tác động của đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế.
- Phân tích, đánh giá mức độ, xu hướng đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam,Thái Lan, Malaysia, Myanmar từ 1995 đến 2017
- Đánh giá tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar trong thời gian qua.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
1.4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu và tác động
của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar
1.4.2. Phạm vị nghiên cứu:
- Phạm vi về nội dung: đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu có thể diễn ra ở cấp độ
doanh nghiệp, cấp độ quốc gia và cấp độ quốc tế. Do mục đích nghiên cứu của luận văn
này là phân tích tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế,
vì vậy phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung xem xét đa dạng hóa mặt hàng xuất
4


khẩu trên góc độ tổng thể ở cấp quốc gia.
- Phạm vi về thời gian và không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu đa dạng hóa
mặt hàng xuất khẩu ở Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar , giai đoạn 1995-2017.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích kinh tế lượng: Để giải quyết các vấn đề đặt ra, luận văn sử
dụng số liệu được thu thập từ nguồn dữ liệu thứ cấp của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về
Thương mại và Phát triển, viết tắt là UNCTAD (United Nations Conference on Trade and

Development, hay Diễn đàn Thương mại và Phát triển Liên Hiệp quốc), Tổng cục thống
kê, World Bank, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Sau đó tiến hành chọn mẫu nghiên cứu và sử dụng phương pháp nghiên cứu định
lượng, không chỉ sử dụng mô hình hồi quy bình phương nhỏ nhất thông thường (OLS)
mà còn sử dụng mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) và mô hình hồi quy tác
động cố định (FEM). Từ đó, thực hiện kiểm chứng với biến phụ thuộc và biến độc lập
phân tích mô hình với phần mềm STATA 12.
1.6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Luận văn đã hệ thống hóa được cơ sở lý luận nghiên cứu tác động của đa dạng
hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó xây dựng được khung
phân tích lý thuyết và chỉ định được mô hình, phương pháp định lượng phù hợp để đánh
giá tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam,
Thái Lan, Malaysia, Myanmar trong giai đoạn 1995-2017.
- Phân tích thực trạng xuất khẩu và đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam,
Thái lan, Malaysia, Myanmar rút ra nhận định chung về đa dạng hóa mặt hàng xuất
khẩu và các nguyên nhân ảnh hưởng đến đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
Thái Lan, Malaysia, Myanmar.
-Phân tích mối quan hệ giữa đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế Việt Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar. Kết quả cho thấy đa dạng hóa mặt hàng
xuất khẩu không chỉ góp phần giảm thiểu những rủi ro trước những biến động từ bên
ngoài, duy trì ổn định thu nhập từ xuất khẩu, mà còn kích thích hoạt động sản xuất trong
5


nước phát triển theo hướng đa dạng hơn, xuất hiện nhiều ngành nghề mới thông qua các
mối liên kết ngược và liên kết xuôi, mở rộng lợi thế so sánh sang các lĩnh vực mới mà
có thể dẫn đến phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn.
- Từ kết quả phân tích, luận văn đề xuất quan điểm, định hướng và một số giải
pháp thực hiện đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế
nhanh và bền vững theo con đường thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam, Thái Lan,

Malaysia, Myanmar trong những năm tới.
1.7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được kết cấu thành 5 chương.
Chương 1: Giới thiệu đề tài nghiên cứu
Chương 2 Cơ sở lý luận nghiên cứu tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất Khẩu
đến tăng trưởng kinh tế
Chương 3: Xây dựng mô hình
Chương 4:chủ yếu tập trung vào thảo luận kết quả nghiên cứu thực nghiệm trong
chương 3 . Từ đó đưa ra nhận xét, khuyến nghị đề xuất, các đóng góp của luận văn và
kết luận về tác động của đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu đến tăng trưởng kinh tế Việt
Nam, Thái Lan, Malaysia, Myanmar.
Chương 5: Kiến nghị

6


CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU TÁC ĐỘNG CỦA ĐA DẠNG HÓA
MẶT HÀNG XUẤT KHẨU ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
2. 1Tăng trưởng kinh tế và các nhân tố tác động
2.1.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của khoa học kinh tế trong
nhiều thập niên qua, vì rõ ràng một trong những mục tiêu quan trọng nhất mà tất cả các
quốc gia trên thế giới đều theo đuổi là duy trì mức tăng trưởng cao và hợp lý. Cùng với
thời gian, quan niệm về tăng trưởng ngày càng hoàn thiện hơn. Đến nay, hầu hết các
học giả đều thừa nhận định nghĩa tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập hay sản
lượng thực tế được tính cho toàn bộ nền kinh tế trong một thời gian nhất định, thường
là một năm . Tăng trưởng kinh tế có thể biểu thị bằng số tuyệt đối (quy mô tăng trưởng)
hoặc số tương đối (tốc độ tăng trưởng). Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều
hay ít, còn tốc độ tăng trưởng được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh

sự gia tăng nhanh hay chậm giữa các thời kỳ.
Như vậy, bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của
nền kinh tế. Nhưng sự thay đổi này chứa đựng hai thuộc tính, hay nói cách khác là hai
mặt của tăng trưởng kinh tế đó là mặt số lượng và mặt chất lượng.
Mặt số lượng của tăng trưởng kinh tế là biểu hiện bên ngoài của sự tăng trưởng,
nó thể hiện ở ngay trong khái niệm về tăng trưởng và được phản ánh thông qua các chỉ
tiêu đánh giá quy mô và tốc độ tăng trưởng thu nhập. Nếu quy mô và tốc độ tăng của
các chỉ tiêu phản ánh tổng thu nhập và thu nhập bình quân đầu người cao, có thể nói đó
là biểu hiện tích cực về mặt lượng của tăng trưởng kinh tế.
Mặt chất lượng của tăng trưởng kinh tế là thuộc tính bên trong của quá trình tăng
trưởng kinh tế (còn số lượng tăng trưởng là biểu hiện bề ngoài của tăng trưởng) thể hiện
qua các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đạt được mặt số lượng của tăng trưởng và khả năng
duy trì nó trong dài hạn. Như vậy nếu xét mặt lượng của tăng trưởng, người ta thường
quan tâm câu hỏi: tăng trưởng được bao nhiêu? nhiều hay ít? nhanh hay chậm? thì những
câu hỏi liên quan đến mặt chất lượng tăng trưởng lại là: (1) khả năng duy trì các chỉ tiêu
7


tăng trưởng thế nào? (2) cái giá phải trả cho việc đạt được các chỉ tiêu ấy là bao nhiêu?.
Để phát triển bên vững, các quốc gia trên thế giới, nhất là các quốc gia đang phát triển
đều quan tâm đến chất lượng tăng trưởng và đặt mục tiêu không ngừng nâng cao chất
lượng tăng trưởng kinh tế. Việc quan tâm đến mặt chất lượng tăng trưởng lại là cơ hội
để đạt mục tiêu về số lượng đặt ra. Ngược lại mặt số lượng của tăng trưởng lại tạo ra
những hỗ trợ về vật chất cho việc hướng tới chất lượng tăng trưởng tốt hơn.
Như vậy, số lượng và chất lượng của tăng trưởng là hai mặt của một vấn đề. Tuy
vậy, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau và tùy theo sự lựa chọn mô hình phát triển
mà vị trí của một trong hai mặt này được đặt ra khác nhau. Thông thường,trong giai
đoạn đầu của quá trình phát triển, để tạo ra những nét khởi sắc nhanh chóng cho nền
kinh tế, hình thành những tiền đề vật chất, động lực cơ bản cho việc giải quyết những
tiến bộ xã hội sau này. Phần lớn các nước đang phát triển đều có nhấn mạnh nhiều hơn

đến mặt số lượng của tăng trưởng và nhiệm vụ trước mắt thường đặt ra là làm thế nào
cải thiện được các chỉ tiêu phản ánh quy mô và tốc độ tăng trưởng.
Do quan tâm đến mặt lượng tăng trưởng nhiều hơn nên trong nhiều trường hợp
phải bỏ qua yêu cầu của chất lượng tăng trưởng, hay nói cách khác mặt số lượng và chất
lượng gần như là 2 yếu tổ mang tính đánh đổi nhau. Giai đoạn sau, khi các chỉ tiêu tăng
trưởng đã đạt được mức độ nhất định, thì mới quan tâm đến vấn đề chất lượng của tăng
trưởng. Vấn đề trong giai đoạn này không phải là đạt được các chỉ tiêu tang trưởng là
bao nhiêu mà là tính hiệu quả và sự bền vững của các chỉ tiêu ấy như thế nào. Vị trí
ngày càng nâng cao của mặt chất lượng tăng trưởng là hoàn toàn phù hợp với xu thế
tăng trưởng dài hạn của nền kinh tế, cũng như phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững
đặt ra cho mỗi quốc gia. Việc xác định vị trí và mỗi quan hệ giữa hai mặt của tăng
trưởng như phân tích ở trên chỉ mang tính chất tương đối và phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như: tình trạng phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; bối cảnh quốc tế; quan điểm và
chính sách của Chính phủ.

8


2.2. Một số thước đo thu nhập và tăng trưởng kinh tế chủ yếu
2.2.1. Một số thước đo thu nhập chủ yếu
Trong nền kinh tế thị trường, thước đo được dùng để đánh giá thu nhập của nền
kinh tế là các chỉ tiêu trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA). Đứng trên góc độ toàn
bộ nền kinh tế, thu nhập (hay sản lượng) thường được thể hiện dưới dạng giá trị: có thể
là tổng giá trị thu nhập (sản lượng), hoặc có thể là thu nhập (sản lượng) bình quân trên
đầu người. Các chỉ tiêu giá trị phản ánh thu nhập theo hệ thống tài khoản quốc gia bao
gồm: tổng giá trị sản xuất (GO); tổng sản phẩm quốc nội (GDP); tổng sản phẩm
quốc dân (GNP), tổng thu nhập quốc dân (GNJ); trong đó chỉ tiêu GDP là chỉ tiêu
thường được sử dụng phổ biến nhất.
- Tổng giá trị sản xuất (GO)
Tổng giá trị sản xuất là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo nên trên

phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm).
Đây chính là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, hoặc tổng giá trị sản xuất có thể tính trực tiếp từ sản xuất và dịch
vụ gồm chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng (VA) từ sản phẩm vật chất và dịch vụ
đó trong nền kinh tế quốc dân.
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội đo lường tổng giá trị của các hàng hóa và dịch vụ cuối
cùng được sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia trong một thời kỳ nhất định
(thường là một năm).
Như vậy, GDP là thu nhập tạo thêm từ tất cả các hoạt động sản xuất-kinh doanh
trong nước, cho dù chủ thê sản xuất-kinh doanh là người nước ngoài hay người trong
nước. Để tính GDP có ba cách tiếp cận cơ bản là từ sản xuất, tiêu dùng và phân phối.
Tiếp cận từ sản xuất: GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền kinh tế. Nó được
đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị sản xuất-kinh doanh thường trú trong
nền kinh tế. Hay nói cách khác nó được xác định bằng tổng giá trị sản xuất (GO) trừ đi
chi phí trung gian (IC).
Như vậy GDP = GO - IC
9


Tiếp cận từ thu nhập: GDP được xác định trên cơ sở các khoản hình thành thu
nhập và phân phối thu nhập lần đầu, gồm thu nhập của người có sức lao động dưới hình
thức tiền công, tiền lương (W), thu nhập của người có đất cho thuê (R); thu nhập của
người có tiền cho vay (In); thu nhập ròng của công ty (Pr); khấu hao tài sản cố định
(Dp) và cuối cùng là thuế kinh doanh (thuế gián thu Ti).
Nghĩa là GDP = W +R + Pr + In + Dp + Ti
Tiếp cận từ chỉ tiêu: GDP là tổng chi tiêu cho tiêu dùng cuối cùng của các hộ(C);
chi tiêu của chính phủ (G); đầu tư của doanh nghiệp (I) và chi tiêu qua thương mại
quốc tế (Xuất khẩu (X) — nhập khẩu (M)).
Như vậy GDP = C +I+G+(X-M)

- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và tổng thu nhập quốc dân (GNI)
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là chỉ tiêu đo lường tổng giá trị bằng tiền của
hàng hóa và dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia sản xuất ra trong một thời kỳ (thường
là một năm) bằng các yếu tố sản xuất của mình.
Trong hệ thống tài khoản quốc gia 1993, chỉ tiêu tổng thu nhập quốc dân (GNI)
được sử dụng thay thế cho chi tiêu tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Về nội dung GNI
và GNP là như nhau, tuy nhiên GNI tiếp cận dưới góc độ thu nhập chứ không tiếp cận
dưới góc độ sản phẩm sản xuất như GNP.
Với khía cạnh đó chúng ta thấy: GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và dịch
vụ cuối cùng do công dân của một nước tạo nên trong một khoản thời gian nhất định.
Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối lại thu nhập lần
đầu có tính đến các khoản nhận từ nước ngoài về và chuyển ra nước ngoài. Như vậy
GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được điều chỉnh theo số chênh
lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
Sự khác nhau về lượng giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập nhân tố
với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thì GNI thường nhỏ hơn GDP vì thông
thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm.
- Thu nhập bình quân đầu người
Để đánh giá xác thực hơn tăng trưởng kinh tế của một quốc gia dưới góc độ mức
sống dân cư và so sánh mức sống giữa các nước, người ta thường sử dụng các chỉ tiêu
10


bình quân đầu người, chẳng hạn như GDP bình quân đầu người (hay GNI bình quân
đâu người).
Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người là những chỉ báo quan trọng
phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng liên tục với
tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và
nó còn được sử dụng trong việc so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia khác nhau.

2.2.2. Đo lường tăng trưởng kinh tế
Trong phân tích kinh tế, để phản ảnh mức độ mở rộng quy mô nền kinh tế, khái
niệm tốc độ tăng trưởng kinh tế thường được sử dụng. Đây là tỷ lệ phần trăm giữa thu
nhập (hay sản lượng) tăng thêm của thời kỳ nghiên cứu so với mức thu nhập
2.3.2 Các nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là yếu tố quan trọng nhất quy định phúc lợi kinh tế của người
dân mỗi quốc gia và con đường, nguồn gốc dẫn tới tăng trưởng kinh tế từ lâu đã trở
thành một trong những câu hỏi trung tâm của kinh tế học phát triển. Từ những nghiên
cứu đầu tiên của các nhà kinh tế học cổ điển, đến các lý thuyết tăng trưởng hiện đại,
nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế thay đổi theo thời gian, và ngày càng được nhận thức
đầy đủ, rõ ràng hơn về những nhân tố chi phối quá trình tăng trưởng.
Trong phần này, luận văn khái quát những nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh
tế của các trường phái lý thuyết. Từ đó dẫn luận đến một chủ đề đang được tranh luận
khá sôi nổi những năm gần đây và liên quan đến đối tượng nghiên cứu của luận văn đó
là: nghiên cứu nhân tố đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu và tác động của nó đến tăng
trưởng kinh tế.
Ngay từ thế ký 17 các nhà kinh tế học cổ điển, tiêu biểu là Adam Smith (17241790) với tác phẩm “Nguồn gốc của cải của các dân tộc” đã nghiên cứu về tính chất,
nguyên nhân của tăng trưởng kinh tế và làm thế nào để tạo điều kiện cho tăng trưởng
kinh tế. Ông cho rằng chính lao động được sử dụng trong những công việc có ích và
hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị cho xã hội. Số công nhân “hữu ích và hiệu quả”cũng
như năng suất của họ phụ thuộc vào lượng tư bản tích lũy. Như vậy, theo Adam Smith
sự gia tăng tư bản cùng với môi trường “tự do” cạnh tranh là yếu tố quyết định tăng
11


trưởng kinh tế.
David Ricardo kế thừa tư tưởng của Adam Smith và chịu ảnh hưởng của tư tưởng
dân số học của T.R Malthus (1776-1834), cho rằng nông nghiệp là ngành kinh tế quan
trọng nhất đối với tăng trưởng kinh tế. Xuất phát từ góc độ phân phối thu nhập để nghiên
cứu tăng trưởng kinh tế, D.Ricardo nhấn mạnh yếu tố cơ bản của tăng trưởng là đất đai,

lao động và vốn trong từng ngành và phù hợp với một trình độ kỹ thuật nhất định, các
yếu tố này kết hợp với nhau theo một tỷ lệ nhất định, không thay đổi. Ông đặc biệt nhấn
mạnh tích lũy tư bản là nhân tố chủ yếu quyết định tăng trưởng kinh tế còn các chính
sách của chính phủ không có tác động quan trọng tới hoạt động của nền kinh tế.
Như vậy, theo D.Ricardo đất đai không những là yếu tố quyết định mà còn là giới
hạn của tăng trưởng kinh tế.
Kế thừa tư tưởng của các nhà kinh tế cổ điển, Karl Marx (1818-1883) đã ủng hộ
và giải thích rõ hơn luận điểm tích lũy vốn là cơ chế tạo nên tăng trưởng kinh tế, tuy
nhiên ông đưa ra một cách lý giải khác. Theo Marx, các yếu tố tác động đến quá trình
tái sản xuất là đất đai, lao động, vốn và tiến bộ kỹ thuật. Ông đặc biệt nhấn mạnh vai
trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Theo Marx sức lao động đối với nhà
tư bản là một hàng hóa đặc biệt. Cũng như các hàng hóa khác, nó được các nhà tư bản
mua trên thị trường và tiêu thụ trong quá trình sản xuất. Nhưng trong quá trình tiêu thụ,
giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động không giống với giá trị sử dụng của các hàng
hóa khác. Nó có thể tạo ra giá trị lớn hơn giá trị bản thân nó, giá trị đó bằng giá trị sức
lao động cộng với giá trị thặng dư. Đó chính là nguồn gốc của tích lũy tư bản và tăng
trưởng kinh tế. Sự tích lũy tư bản ở đây không chỉ là tích lũy “tư bản lưu động” mà quan
trọng hơn đó là tích lũy “tư bản cố định” mà bao hàm trong nó cả yếu tố “khoa học và
công nghệ”. Như vậy, yếu tố quyết định đối với tăng trưởng kinh tế trong mô hình của
Marx là sức lao động, và bước đầu nhận định “khoa học công nghệ” đang dần trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội, không chỉ tạo ra công cụ lao động mới mà cả
phương pháp sản xuất mới, là yếu tố quan trọng đối với sự phát triển kinh tế trong xã
hội công nghiệp.

12


Sự chuyển biến mạnh mẽ về khoa học kỹ thuật vào cuối thê ký XIX với hàng loạt
phát minh khoa học ra đời, nhiều tài nguyên được khai thác và sử dụng làm cho kinh tế
thế giới có bước phát triển mạnh mẽ.

Bước sang thế kỷ XX, khủng hoảng kinh tế thế giới diễn ra nghiêm trọng (thời kỳ
1929-1933) đã cho thấy các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế trước đây chưa thực sự
phản ánh đầy đủ về nguyên nhân tăng trưởng kinh tế. Với tác phẩm “Lý thuyết chung
về việc làm, lãi suất và tiền tệ” đã đánh dấu sự ra đời của một trường phái kinh tế học
mới. Tư tưởng cơ bản của trường phái Keynes cho rằng các nền kinh tế hiện đại cần các
chính sách chủ động của chính phủ để quản lý và duy trì tăng trưởng kinh tế. Dựa vào
tư tưởng của Keynes về vai trò của vốn đầu tư trong tăng trưởng kinh tế, Roy F.Harrod
và Evsey Domar đã đưa ra mô hình lượng hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu
về vốn, được gọi chung là mô hình “Harrod-Domar”. Trong mô hình này đầu tư liên kết
với mức sản lượng thông qua số nhân, trong khi nó cũng liên kết với tốc độ sản lượng
thông qua sự thay đổi của khối lượng vốn. Logic kinh tế trong mô hình Harrod-Domar
rất đơn giản.
Đề tăng trưởng, các nền kinh tế phải tiết kiệm và đầu tư một phần thu nhập của
mình. Tiết kiệm và đầu tư càng nhiều thì tăng trưởng càng nhanh. Bí mật của tăng trưởng
chỉ đơn giản nằm trong vấn đề gia tăng tiết kiệm và đầu tư quốc gia. Mặc dù mô hình
này còn đơn giản, nhưng cùng với lý thuyết của Marx, nó đã trở thành cơ sở của chiến
lược tích lũy vốn theo định hướng của chính phủ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
các nước đang phát triển sau chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngoài vai trò tích cực của vốn đối với tăng trưởng, mô hình Solow đã đưa thêm
nhân tố lao động và tiến bộ công nghệ vào phương trình tăng trưởng. Theo mô hình
Solow tăng tỷ lệ tiết kiệm không phải là giải pháp tối ưu đề thực hiện tăng trưởng trong
dài hạn vì tăng trưởng của một nền kinh tế sẽ “hội tụ” về một tốc độ nhất định ở trạng
thái bền vững. Nguồn gốc của tốc độ tăng trưởng thu nhập hay thu nhập bình quân đầu
người trong dài hạn duy nhất là tốc độ tăng hiệu quả lao động và điều này do tiến bộ
công nghệ kỹ thuật tạo nên. Đây là yếu tố ngoại sinh và không liên quan đến các nhân
tô bên trong.

13



Phát triển mô hình tăng trưởng Solow trong lĩnh vực thương mại quốc tế, Richard
Baldwin và Joy Mazumdar đã lập luận cho rằng thương mại quốc tế là một yếu tố ngoại
sinh giống như sự gia tăng công nghệ tại một thời điểm nào đó, và sẽ cho phép tạo ra
giá trị sản lượng cao hơn, làm cho đường biểu diễn sản xuất dịch chuyển lên trên, thay
đổi điểm dừng của nền kinh tế. Hay nói cách khác thương mại quốc tế cũng là một nhân
tố ngoại sinh giống như tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong
trung hạn và dài hạn.
Mô hình tăng trưởng ngoại sinh có hạn chế lớn là đã coi nguồn gốc duy nhất của
tăng trưởng kinh tế do hiệu quả của lao động.Hạn chế này đã dẫn đến sự phát triển hơn
nữa của lý thuyết tăng trưởng nội sinh từ những năm 1980 trở lại đây.
Mô hình tăng trưởng nội sinh cố gắng nội hóa sự tăng trưởng, nói cách khác nhân
tố này được hình thành ngay trong quá trình tăng trưởng do đó dẫn tới sự tăng trưởng
liên tục của các nền kinh tế. Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, tăng năng suất có được
từ tích lũy vốn con người hay các hoạt động phát minh sáng chế, và nó là thứ tạo nên
tăng trưởng dài hạn của thu nhập bình quân đầu người. Theo đó, tích lũy vốn với quan
niệm khái quát hóa bao gồm cả vốn con người, hoặc cách khai thác những hiệu ứng
năng suất và công nghệ “bao hàm” là một nhân tố quyết định tăng trưởng. Việc tích lũy
vốn con người (kiên thức, kỹ năng...) có được thông qua giáo dục, đào tạo ở trường hoặc
“thông qua làm việc”.
Đáng chú ý, các nhà kinh tế tăng trưởng nội sinh cho rằng các nước đang phát triển
có khả năng tích lũy kiến thức thông qua trao đổi thương mại quốc tế với các nước phát
triển. Sự gia tăng đa dạng hóa hoạt động sản xuất theo một cách đặc biệt nào đó đã tạo
ra những ngoại ứng công nghệ tích cực đối với toàn bộ nền kinh tế. Việc đa dạng hóa
xuất khẩu sẽ giúp các nước đang phát triển có thể học hỏi, bắt chước và thích ứng với
công nghệ tiên tiến, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh các nhân tố kinh tế, từ lâu người ta đã nhận ra rằng các nhân tố phi kinh
tế (chính trị, xã hội, thể chế...) đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Nhiều
nhà kinh tế học thể chế lập luận cho rằng: “Thể chế là cấu trúc mang tính thúc đẩy của
một xã hội, do đó các luật lệ, quy tắc... tạo nên nền tảng thể chế của một xã hội sẽ chi
phối sự phân bổ các nguồn lực của xã hội và nền kinh tế. Người ta chỉ có thể nhận ra

14


tăng trưởng kinh tế xuyên suốt lịch sử nhờ việc tạo ra một cấu trúc thể chế có thể thúc
đẩy hoạt động tăng năng suất-một lập luận về phía cung: và những mâu thuẫn xảy ra do
kết quả của chuyển biến xã hội sẽ dẫn tới những thay đổi cơ bản về mặt thể chế nhằm
làm dịu mâu thuẫn đó- một lập luận về phía cầu. Sự thay đổi về mặt thể chế cả phía
cung lẫn phía cầu đều đã và đang gây ảnh hưởng lớn lao đến biến đổi năng suất. Tuy
nhiên tác động của các yếu tố phi kinh tế thường gián tiếp và rất khó lượng hóa cụ thể
được mức độ tác động của nó đến tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế đã chỉ rõ yếu tố của tăng trưởng kinh
tế là sự kết hợp từ nhiều nguồn, bao gồm:
-Các yếu tố tác động trực tiếp đến tổng cung như: vốn (K), lao động (L), tài nguyên
(R), khoa học & công nghệ, tích lũy vốn con người (trong đó có sự tích lũy từ việc đa
dạng hóa mặt hàng xuất khẩu).
-Các yếu tổ tác động trực tiếp đến tổng cầu như: chi cho tiêu dùng cá nhân (C),
chi tiêu của chính phủ (G), Chi cho đầu tư (I), chỉ cho hoạt động xuất nhập khẩu (X-M).
-Căn cứ vào tính chất tác động này có thể thấy Chính phủ đóng vai trò rất quan
trọng trong việc hoạch định các chính sách điều tiết tổng cầu sao cho vừa thực hiện
được các mục tiêu tăng trưởng đồng thời vừa đảm bảo được yêu cầu ồn định giá cả của
nên kinh tế.
-Các yếu tố phi kinh tế: Đặc điểm văn hóa xã hội, nhân tố thể chế chính trị-kinh
tế- xã hội, cơ cấu dân tộ, cơ cấu tôn giáo, sự tham gia của cộng đồng... Đây là những
nhân tố tác động gián tiếp và không thể lượng hóa cụ thể được mức độ tác động của nó
đến tăng trưởng kinh tế.
2.3.1 Thước đo tài nguyên thiên nhiên:
Mối quan hệ giữa tài nguyên thiên nhiên và tăng trưởng kinh tế là một vấn đề
gây tranh cãi trong nghiên cứu thực nghiệm về phát triển. Những năm 1990, một số
nghiên cứu có ánh hưởng đã phát hiện ra rằng sự tăng trưởng kinh tế của các nước giàu
tài nguyên đã thấp hơn so với những nước nghèo tài nguyên (Sachs và W. arner 1995,

1999, 2001). Bằng chứng này, được gọi là “lời nguyền tài nguyên thiên nhiên”, đã được
xác nhận bởi một tài liệu nhất quán bằng cách sử dụng kỹ thuật và thông số kỹ thuật
15


×