Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

NGƯỜI lái đò SÔNG đà NGUYỄN TUÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.73 KB, 38 trang )

CHUYÊN ĐỀ BỒI DƯỠNG ÔN THI THPT QUỐC GIA
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ- NGUYỄN TUÂN
( NGỮ VĂN 12)

Đối tượng học sinh: Lớp 12
Số tiết bồi dưỡng: 07 tiết

A. LÝ DO CHỌN CHUYÊN ĐỀ
Nâng cao hiệu quả công tác ôn thi Trung học phổ thông Quốc gia (THPT
QG) là đích hướng tới của các nhà trường. Để hoạt động này thực sự hiệu quả và có
tính chuyên môn cao thì việc tổ chức hội thảo chuyên đề là việc vô cùng cần thiết.
Đáp ứng yêu cầu đó của ngành giáo dục, mỗi môn học cần xây dựng hệ thống các
chuyên đề bồi dưỡng ôn thi THPTQG chuẩn để làm tài liệu dùng chung cho các
đơn vị.
Trong chương trình Ngữ văn 12 có trích dẫn khá nhiều tác phẩm với nhiều
thể loại phong phú. Trong đó, các tác phẩm là truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ, kịch....
thì việc hoạt động dạy học diễn ra tương đối thoải mái, các thầy cô nhận được
nhiều sự tương tác từ phía học sinh và thu được những kết quả tốt sau các giờ dạy.
Nhưng riêng đối với tác phẩm văn học viết theo thể loại kí thì ngược lại. Việc giảng
dạy văn bản kí đòi hỏi người dạy phải nắm chắc đặc điểm thể loại, đó là tính xác
thực. Trong tác phẩm kí tác giả thường không hư cấu mà chỉ lựa chọn những sự
việc, những con người có giá trị nổi bật trong cuộc sống để phóng bút. Nếu thầy cô
chỉ thỏa mãn với kiến thức có sẵn trong văn bản thì khó giảng hay được, dẫn đến
giờ học bài kí muôn thuở vẫn khô khan, học sinh khó tiếp nhận được văn bản. Vì
thế, có thể nói rằng giảng dạy một tác phẩm kí là sự khó khăn, vất vả, công phu đối
với giáo viên, thậm chí sau khi học xong, nhiều học sinh vẫn chưa hình thành được
kĩ năng đọc hiểu thể kí.
1


Để công tác ôn thi THPT QG tránh khỏi những trở ngại trên, tôi tập trung biên soạn


nội dung ôn tập thể loại kí hiện đại Việt Nam qua tùy bút Người lái đò sông Đà của
Nguyễn Tuân. Hi vọng rằng, học sinh sẽ hình thành được năng lực đọc hiểu, cảm
nhận, phân tích tác phẩm một cách nhuần nhuyễn nhất, giải quyết được tất cả các
đề thi theo phân loại mức độ trong cấu trúc đề thi THPTQG.
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. MỤC TIÊU
1. Về kiến thức
- Học sinh nắm được những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích, thấy
được vẻ đẹp và sức hấp dẫn của cuộc sống, con người và quê hương qua những
trang viết chân thực, đa dạng, hấp dẫn của Nguyễn Tuân.
- Cảm nhận được vẻ đẹp của con sông Đà và hình tượng người lái đò.Từ đó hiểu
được tình yêu, sự đắm say của Nguyễn Tuân đối với thiên nhiên và con người lao
động ở miền Tây Bắc tổ quốc.
- Hiểu một số đặc điểm và sự đóng góp của thể loại kí Việt Nam từ sau Cách mạng
tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX.
- Hiểu được đặc điểm, đặc trưng phản ánh hiện thực đời sống của thể loại kí: chân
thực, đa dạng, phong phú.
- Hiểu được đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm, văn phong tài hoa, uyên bác của
Nguyễn Tuân
- Nắm chắc và phân biệt được các dạng đề, từ đó biết cách xử lý các dạng đề.
2. Về kĩ năng
- Biết cách đọc– hiểu một tác phẩm kí hiện đại theo đặc trưng thể loại.
- Biết vận dụng những hiểu biết trên vào việc làm bài văn nghị luận văn học.
- Nhận ra được đề tài, chủ đề, cảm hứng thẩm mĩ, vẻ đẹp hình tượng, các biện pháp
nghệ thuật của trích đoạn kí.
3. Về thái độ
- Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường thiên nhiên
- Ngợi ca và trân trọng những con người lao động bình dị.
- Thể hiện tình yêu quê hương, đất nước.
- Tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

4. Hình thành năng lực
– Năng lực thu thập thông tin liên quan đến thể loại kí hiện đại Việt Nam.
– Năng lực đọc – hiểu các tác phẩm kí hiện đại Việt Nam.
– Năng lực trình bày suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về kí văn học.
2


– Năng lực hợp tác khi trao đổi, thảo luận về thành tựu, hạn chế, những đặc điểm
cơ bản, giá trị của những tác phẩm kí văn học.
– Năng lực phân tích, so sánh đặc điểm của các thể loại kí: tuỳ bút, bút kí, hồi kí,
nhật kí.
– Năng lực tạo lập văn bản nghị luận.
5. Phát triển phẩm chất
- Biết nhận thức được ý nghĩa của kí hiện đại Việt Nam trong lịch sử văn học dân
tộc.
- Biết trân quý những giá trị văn hóa truyền thống mà kí hiện đại đem lại.
- Có ý thức tìm tòi về thể loại, từ ngữ, hình ảnh trong kí hiện đại Việt Nam.
II. Bảng mô tả mức độ nhận thức của học sinh
Nội
dung

1- Về
tác giả,
hoàn
cảnh ra
đời của
tác
phẩm

Vận dụng

Nhận biết

– HS nhận biết,
nhớ được tên tác
giả và hoàn cảnh
ra đời của các tác
phẩm.

Thông hiểu

– HS hiểu và lí
giải được hoàn
cảnh sáng tác có
tác động và chi
phối như thế nào
tới nội dung tư
tưởng của tác
phẩm.

Vận dụng thấp

Vận dụng cao

– Khái quát
được đặc điểm
phong cách tác
giả từ tác phẩm.

– Vận dụng hiểu
biết về tác giả,

hoàn cảnh ra đời
của tác phẩm để
phân tích giá trị
nội dung, nghệ
thuật của tác
phẩm
kí.
– So sánh phong
cách của các tác
giả.

2- Thể
loại

– HS nhận biết
đặc điểm chung
thể loại kí

– HS hiểu bản
chất
thể


- Nắm được sự
việc chính trong
kí.

– Biết vận dụng
đặc điểm thể loại
kí ghi chép lại

các sự việc đã
chứng kiến hoặc
trải qua.

3- Đề
tài, chủ
đề,
cảm
xúc

HS nhận biết
được đề tài các
tác phẩm kí Việt
Nam hiện đại đã
học.

– HS hiểu được
chủ đề, và cảm
nhận được cảm
xúc chủ đạo của
các tác phẩm kí

– HS vận dụng,
lựa chọn được
các đề tài gần
gũi trong cuộc
sống để ghi

– HS biết hệ
thống, xâu chuỗi

các tác phẩm
cùng đề tài chủ
đề để khái quát

3


chủ
đạo

4Y
nghĩa
nội
dung
các tác
phẩm
5- Giá
trị nghệ
thuật
(Nhữn
g chi
tiết,
hình
ảnh,
biện

Việt Nam hiện
đại đã học

– HS nhận biết và

ghi nhớ được
những hình ảnh,
chi tiết tiêu biểu
đặc sắc trong các
tác phẩm kí Việt
Nam hiện đại đã
học.
– HS nhận diện
được trình tự ghi
chép sự việc
trong
kí.
– HS nhận ra
được những biện
pháp tu từ được
sử dụng trong các

– HS hiểu được ý
nghĩa, sự lô-gic
giữa các sự việc.
– HS hiểu được ý
nghĩa các chi tiết,
các hình ảnh, tiêu
biểu đặc sắc
trong các tác
phẩm kí Việt
Nam hiện đại đã
học.
– HS hiểu được
tác dụng, hiệu

quả nghệ thuật
của trình tự ghi
chép các sự việc
trong
kí.
– HS hiểu được
tác dụng của các
4

chép

nên một vấn đề
chung

– Dụng ý của
tác giả khi miêu
tả các hình ảnh,
chi tiết tiêu biểu
đặc sắc trong
các tác phẩm kí
Việt Nam hiện
đại đã học.

– HS viết được
đoạn văn hoàn
chỉnh bộc lộ cảm
nhận của bản
thân về ý nghĩa
một số hình ảnh,
chi tiết tiêu biểu

đặc sắc trong các
tác phẩm kí Việt
Nam hiện đại đã
học.
– Từ ý nghĩa nội
dung các tác
phẩm, HS biết
liên hệ, rút ra
những bài học
sâu sắc cho bản
thân, biết điều
chỉnh những suy
nghĩ, hành vi
của bản thân để
hoàn thiện mình.
– HS biết so
sánh ý nghĩa nội
dung, tư tưởng
của các tác
phẩm.

HS biết trình
bày cảm nhận
về giá trị nghệ
thuật của những
chi tiết, hình
ảnh, biện pháp
tu từ…

– HS biết vận

dụng ghi chép
dạng thể kí, hồi
kí trong đó có sử
dụng các biện
pháp tu từ, kết
hợp tự sự với
miêu tả, biểu
cảm, vận dụng


pháp tu
từ…)

các hình ảnh chi
tiết của các nhà
văn một cách
hợp
lí.

BPTT.
tác phẩm.

III. HỆ THỐNG KIẾN THỨC CƠ BẢN VÀ NÂNG CAO
1. Ôn tập chung về tác giả và tác phẩm
1.1. Tác giả
- Nguyễn Tuân sinh ra trong một gia đình nhà nho khi Hán học đã tàn.
- Ông là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, có cá tính độc đáo.
- Là nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân sáng tác nhiều
thể loại song đặc biệt thành công ở thể tùy bút.
- Tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân về thể loại tùy bút là tập Sông Đà

(1960) mà tiêu biểu nhất là tác phẩm Người lái đò Sông Đà.
1.2. Tác phẩm
- “Người lái đò Sông Đà” được Nguyễn Tuân sáng tác trong những chuyến đi thực
tế gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc xa xôi, rộng lớn.
- Bài tùy bút được in trong tập “Sông Đà” xuất bản năm 1960.
- Bài tùy bút đã khắc họa thành công vẻ đẹp đa dạng của con sông Đà vừa hung
bạo vừa trữ tình cùng hình ảnh giản dị mà kì vĩ của người lái đò trên dòng song ấy.
2.1. Hình tượng con sông Đà
Con sông Đà trên trang văn của Nguyễn Tuân hiện lên như một “nhân vật” có hai
tính cách trái ngược: hùng vĩ, hung bạo và trữ tình, thơ mộng.
2.1.1 Con sông Đà hùng vĩ, hung bạo
– Con sông Đà hũng vĩ, hung bạo được tác giả khắc họa theo trình tự không gian,
bằng nhiều chi tiết đặc sắc. Trước hết Sông Đà hùng vĩ ở cảnh “đá bờ sông dựng
vách thành”, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc “đúng ngọ” (lúc giữa trưa) mới có mặt trời.
Có vách đá chẹt lòng sông “như một cái yết hầu”, có quãng con nai, con hổ có lần
vọt từ bờ này sang bờ kia. Vì lòng sông hẹp, bờ sông là vách đá cao, nên ngồi trong
khoang đò ở quãng sông ấy “đang mùa hè mà cũng thấy lạnh.”
– Cảnh hùng vĩ của Sông Đà còn thể hiện ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng với hàng
cây số “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt
năm”. Đây là nơi nguy hiểm, người lái đò nào đi qua khúc sông này mà không thận
trọng tay lái thì “dễ lật ngửa bụng thuyền ra”.
5


– Sông Đà hùng vĩ còn ở những cái “hút nước” trên sông ở quãng Tà Mường Vát.
Đó là những xoáy nước khổng lồ, được tác giả so sánh “giống như cái giếng bê
tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”. Nước ở đây “thở và kêu như của
cống cái bị sặc”. Đây là nơi rất nguy hiểm, không có thuyền nào dám men gần
những cái “hút nước” ấy. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng
ngay “cây chuối ngược” rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến

mươi phút sau mới thấy “tan xác” ở khuỷnh sông dưới. Tác giả đã tưởng tượng: có
người quay phim táo tợn, ngồi trên chiếc thuyền thúng, rồi xuống đáy “cái hút”
Sông Đà mà thu hình thì sẽ có những thước phim ấn tượng, gây cảm giác sợ hãi
cho
người
xem.
– Nhưng hùng vĩ nhất, hung bạo nhất là thác Sông Đà. Thác Sông Đà có âm thanh
dữ dội, nhiều vẻ, được tác giả miêu tả: Còn xa lắm mới đến cái thác dưới mà đã
nghe thấy tiếng nước “réo gần mãi lại, réo to mãi lên”, so sánh độc đáo: tiếng nước
thác nghe như là “oán trách”, như là “van xin”, như là “khiêu khích”, rồi rống lên
“như tiếng một ngàn con trâu mộng” gầm thét khi bị cháy rừng.
– Hình ảnh thác Sông Đà là cả một “chân trời đá”. Mỗi hòn đá mang một dáng vẻ,
nhưng mặt hòn đá nào trong cũng “ngỗ ngược… nhăn nhúm, méo mó”. Sông Đà
hình như đã giao nhiệm vụ cho mỗi hòn đá và bày ra “thạch trận” để gây khó khăn,
nguy hiểm cho những con thuyền. “Thạch trận” Sông Đà có ba vòng vây. Vòng thứ
nhất, thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một “cửa sinh” nằm lập
lờ ở phía tả ngạn. Vòng thứ hai, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử để đánh
lừa con thuyền”, cũng chỉ có một “cửa sinh” nhưng lại bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn. Đến vòng thứ ba, ít cửa hơn nhưng bên phải, bên trái đều là “luồng chết” cả,
cái “luồng sống” ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác.
– Thác Sông Đà quả thực đã trở thành một loài thủy quái khổng lồ với tâm địa độc
ác. Với đặc điểm này, trong cái nhìn của tác giả, Sông Đà có nhiều lúc đã trở thành
“kẻ thù số một” của con người.
2.1.2. Con sông Đà trữ tình, thơ mộng
– Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của Sông Đà được tác giả quan sát và miêu tả ở nhiều
góc độ, điểm nhìn, không gian và thời gian khác nhau. Quan sát từ trên cao, Sông
Đà có dòng chảy uốn lượn, con sông như mái tóc người thiếu nữ Tây Bắc kiều
diễm. Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói
núi Mèo đốt nương xuân”. Nước Sông Đà biến đổi theo mùa, mỗi mùa có một vẻ

đẹp riêng: mùa xuân “dòng xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Những chi
tiết miêu tả của tác giả gợi lên một liên tưởng thú vị: giữa khung cảnh ngày xuân
thơ mộng của thiên nhiên Tây Bắc, Sông Đà hiện lên như một mĩ nhân tràn đầy
xuân sắc, một thiếu nữ đương độ xuân thì.
6


– Sau chuyến đi rừng dài ngày, từ bờ sông, tác giả đã thấy Sông Đà thật gợi cảm
“như một cố nhân”. Nhìn mặt nước Sông Đà thấy “loang loáng như như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy”. Đó là “màu nắng tháng ba Đường
thi”, cùng với hình ảnh bờ Sông Đà, bãi Sông Đà đầy những “chuồn chuồn bươm
bướm” tạo nên một cảnh sắc hấp dẫn. Nhà văn đã bộc lộ cảm xúc khi nhìn con sông
bằng những so sánh tài hoa: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan
sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
– Khi đi trên thuyền, tác giả thấy cảnh vật hai bên bờ Sông Đà vừa hoang sơ nhuốm
màu cổ tích vừa trù phú, tràn trề nhựa sống. Ven sông có những nương ngô “nhú
lên mấy lá ngô non đầu mùa”, có cỏ gianh đồi núi “đang ra những nõn búp”, có
“đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm”. Nhà văn đã có một liên
tưởng độc đáo: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. Dòng sông quãng này “lững lờ như nhớ thương
những hòn đá thác xa xôi để lại trên thượng nguồn Tây Bắc”.
2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
– Tác giả đã miêu tả Sông Đà bằng những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng
độc đáo, bất ngờ và rất thú vị. Từ ngữ trong bài tùy bút thật phong phú, sống động,
giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
– Câu văn của tác giả rất đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân
guốc, khi thì chậm rãi, trữ tình. Con Sông Đà vô tri, dưới ngòi bút của nhà văn đã
trở thành một sinh thể có tâm hồn, tâm trạng.
=> Tóm lại, hình tượng Sông Đà được tác giả khắc họa độc đáo, nổi bật với hai đặc
điểm: vừa hung vĩ, hung bạo, vừa thơ mộng, trữ tình. Qua hình tượng con Sông Đà,

nhà văn ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, thể hiện tình cảm tha thiết của
mình với đất nước. Hình tượng con Sông Đà trong bài tùy bút gợi lên ở người đọc
suy nghĩ về trách nhiệm bảo vệ môi trường cho những dòng sông, bởi đó là quà
tặng vô giá của thiên nhiên giành cho con người.
2.2. Hình tượng người lái đò
2.2.1. Giới thiệu chung về người lái đò
– Cuộc sống của người lái đò là “cuộc chiến đấu” hằng ngày với thiên nhiên Tây
Bắc, có nhiều lúc trông nó ra thành diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của
con người. Trong cuộc mưa sinh đầy gian khổ ấy, phẩm chất của người lái đò được
bộc lộ một cách rõ nét thể hiện qua “cuộc chiến đấu gian lao” trên chiến trường
Sông Đà, trên một quãng thủy chiến ở mặt trận Sông Đà.
2.2.2 Người lái đò trí dũng, tài ba, giàu bản lĩnh và kinh nghiệm
– Phẩm chất của người lái đò được thể hiện qua cuộc vượt thác sông Đà. Thác Sông
Đà bày ra “thạch trận” với ba vòng vây để tiêu diệt con thuyền. Nhưng người lái đò
dũng cảm, bình tĩnh, hiên ngang vượt qua từng vòng vây của thác.
7


– Ở vòng vây thứ nhất: Thác Sông Đà mở ra “năm cửa trận”, có bốn “cửa tử”, một
“cửa sinh”. Cửa sinh nằm “lập lờ ở phía tả ngạn”. Khi con thuyền xuất hiện, phối
hợp với đá, nước thác reo hò làm “thanh viện” cho đá, những hòn đá bệ vệ oai
phong lẫm liệt. Có hòn đá trông nghiêng thì y như là đang hỏi cái thuyền “phải
xưng tên tuổi trước khi giao chiến”. Hòn đá khác thì lùi lại một chút và “thách
thức” cái thuyền có giỏi thì tiến gần vào. Không một chút nao núng, ông đò hai tay
giữ mái chèo để khỏi bị hất lên khi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Nhìn thấy
con thuyền và người lái đò, mặt nước “hò la vang dậy”, ùa vào mà “bẻ gãy cán
chèo”, võ khí của người lái đò. Sóng nước thì như thể quân liều mạng, vào sát nách
mà “đá trái mà thúc gối” vào bụng và hông thuyền, có lúc chúng “đội cả thuyền
lên”. Nước bám lấy thuyền như đô vật “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình
ra”… Ông đò đã bị thương, nhưng ông “cố nén vết thương”, hai chân vẫn “kẹp chặt

lấy cuống lái”. Cuộc chiến đã đến hồi quyết liệt, sóng nước “đánh hồi lùng, đánh
đòn tỉa, đánh đòn âm” vào chỗ hiểm. Nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe
rõ tiếng chỉ huy “ngắn gọn tỉnh táo” của người cầm lái. Và ông lái đò đã phá xong
cái “trùng vi thạch trận” vòng thứ nhất của thác Sông Đà.
– Không một chút nghỉ tay, ông lái đò tiếp tục phá luôn vòng vây thứ hai của thác
Sông Đà. Ở vòng thứ hai này, thác Sông Đà lại “tăng thêm nhiều cửa tử” để đánh
lừa con thuyền. Vẫn chỉ có một cửa sinh. Nếu ở vòng thứ nhất, cửa sinh nằm “lập
lờ phía tả ngạn”, thì ở vòng thứ hai này, cửa sinh lại “bố trí lệch qua phía bờ hữu
ngạn”. Đó chính là khó khăn, thách thức đối với người lái đò. Nhưng ông lái đò đã
“thuộc qui luật phục kích” của lũ đá nơi ải nước hiểm trở này. Ông hiểu rằng cưỡi
lên thác Sông Đà phải “cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ”. Cuộc chiến của ông lái đò ở
vòng thứ hai đã bắt đầu. Nắm chặt cái bờm sóng đúng luồng, ông đò ghì cương lái
bám chắc lấy luồng nước đúng mà “phóng nhanh vào cửa sinh” rồi “lái miết một
đường chéo” về phía cửa đá ấy. Thấy con thuyền tiến vào, bốn năm bọn thủy quân
bên bờ trái liền “xô ra” định níu con thuyền “lôi vào tập đoàn cửa tử” mà tiêu diệt.
Nhưng ông lái đò vẫn “nhớ mặt” bọn này, đứa thì ông tránh mà “rảo bơi chèo lên”,
đứa thì ông “đè sấn lên mà chặt đôi ra” để mở đường tiến. Những luồng tử đã bỏ
hết lại sau thuyền, chỉ còn vẳng tiếng reo hò của của sóng thác luồng sinh. Tuy vậy,
bọn chúng vẫn “không ngớt khiêu khích”, dù cái thằng đá tướng đứng ở cửa vào đã
“tiu nghỉu cái mặt xanh lè” vì bị thua cái thuyền du kích nhỏ bé.
– Vượt qua vòng thứ hai, ông lái đò còn phải vượt qua vòng thứ ba nữa. Ở vòng
vây thứ ba này, thác Sông Đà ít cửa hơn nhưng bên phải bên trái đều là “luồng
chết” cả. Cái “luồng sống” ở chặng thứ ba này lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ. Ông
lái đò đã hiểu điều đó. Ông cứ “phóng thẳng thuyền” chọc thủng cửa giữa đó.
Thuyền của ông đò “vút qua” cổng đá cánh mở cánh khép với ba tầng cửa: cửa
ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng. Con thuyền của ông đò “như một mũi tên tre
xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được”. Vượt qua vòng
8



vây thứ ba cũng là vượt qua hết thác Sông Đà. Ông lái đò như một người chỉ huy
lão luyện, đầy bản lĩnh và kinh nghiệm. Ông là một nghệ sĩ tài hoa với nghề vượt
thác leo ghềnh.
2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng
– Khắc họa hình tượng người lái đò Sông Đà, nhà văn Nguyễn Tuân đã sử dụng
nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Miêu tả ông lái đò vượt thác, tác giả đã sử
dụng tri thức của nhiều lĩnh vực như thể thao, quân sự, võ thuật…, với những câu
văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, hối hả, gân guốc; với từ ngữ sống động,
giàu hình ảnh, mới lạ, độc đáo.
=> Tóm lại, bằng nhiều biện pháp nghệ thuật, nhà văn Nguyễn Tuân đã khắc họa
thành công hình ảnh người lái đò Sông Đà dũng cảm, tài năng, đầy bản lĩnh và kinh
nghiệm. Qua hình tượng người lái đò, tác giả ngợi ca người lao động Tây Bắc với
những phẩm chất cao quí.
Hình tượng người lái đò, cũng thể hiện quan niệm của nhà văn: người anh hùng
không chỉ có trong chiến đấu mà còn có trong cuộc sống lao động thường ngày.
Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút của Nguyễn Tuân gợi ra ở mỗi chúng ta
suy nghĩ về nhiệm vụ của mình trong công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam yêu
quí.
3. Nghệ thuật
- Những ví von, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng độc đáo, bất ngờ và thú vị.
- Từ ngữ sống động, giàu hình ảnh và có sức gợi cảm cao.
- Câu văn đa dạng, nhiều tầng, giàu nhịp điệu, lúc thì hối hả, gân guốc khi thì chậm
rãi, trữ tình,…
2.4. Ý nghĩa văn bản
- Giới thiệu, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp của thiên nhiên và người lao động ở miền
Tây Bắc của Tổ quốc; thể hiện tình yêu mến, sự gắn bó thiết tha của Nguyễn Tuân
đối với đất nước và con người Việt Nam.
IV. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP
1. Dang 1 : Cảm nhận về đoạn trích văn xuôi
Ví dụ : Đề bài trích dẫn đoạn văn miêu tả dòng sông, hoặc đoạn miêu tả cuộc chiến

của ông lái đò với dòng sông, và yêu cầu học sinh nêu cảm nhận.
Một số đoạn trọng tâm :
- Cảm nhận đoạn văn: “Hùng vĩ của Sông Đà không phải chỉ có thác đá…gậy đánh
phèn”.
- Cảm nhận đoạn văn : “Thạch trận dàn bày vừa xong…Thế là hết thác”. (Đoạn này
chủ yếu phân tích cảnh vượt thác của người lái đò.
9


- Cảm nhận đoạn: “Con sông Đà tuôn dài…nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”. (Chủ yếu là
vẻ đẹp trữ tình)
2. Dạng 2: Cảm nhận về hình tượng nhân vật
Ví dụ: Cảm nhận về hình tượng sông Đà, hình tượng ông lái đò.
Từ cảm nhận về hình tuượng nhân vật học sinh làm nổi bật phong cách nghệ thuật
của Nguyễn Tuân
3. Dạng 3: Nghị luận ý kiến bàn về văn học
Ví dụ: Những ý kiến bàn về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
4. Dạng 4: Dạng đề so sánh, liên hệ
Ví dụ: - So sánh Huấn Cao (Chữ người tử tù ) và ông lái đò.
- So sánh hai đoạn văn miêu tả sông Đà và Sông Hương (Ai đã đặt tên cho
dòng sông– Hoàng Phủ Ngọc Tường).
V. MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN
1. Rèn luyện phương pháp đọc- hiểu cho học sinh
Môn Ngữ văn được coi là môn học công cụ, môn học bắt buộc ở cả 3 cấp
học, hướng tới việc hình thành phát triển năng lực đọc, viết tiếng Việt (năng lực
tiếp nhận và xử lý thông tin, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, năng lực trình bày, năng
lực tạo lập các loại văn bản cần thiết trong cuộc sống). Dạy học đọc hiểu là một
trong những nội dung cơ bản của đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn trong tiếp
nhận văn bản. Nếu như trước đây chúng ta coi phân tích tác phẩm hay giảng văn là
một phương pháp đặc thù của dạy văn, thì hiện nay đã có những thay đổi trong

cách tiếp cận này. Hướng dẫn học sinh đọc hiểu không có nghĩa là nhằm cảm thụ
một chiều cho học sinh những cảm nhận của giáo viên về văn bản được học mà
hướng dẫn cung cấp cho học sinh cách đọc, cách tiếp cận, khám phá những vấn đề
về nội dung và nghệ thuật của văn bản, từ đó hình thành cho học sinh năng lực tự
đọc một cách tích cực, chủ động, có sắc thái cá nhân. Hoạt động đọc hiểu của học
sinh cần được thực hiện theo một trình tự từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đọc
đúng, đọc thông, đến đọc hiểu, từ đọc tái hiện sang đọc sáng tạo. Khi hình thành
năng lực đọc hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ thẩm
mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy.
Trong quá trình đọc hiểu học sinh cần thực hiện các nội dung cơ bản sau:
– Huy động vốn kiến thức và kinh nghiệm của bản thân – là những hiểu biết về chủ
đề hay hiểu biết về các vấn đề văn hóa xã hội có liên quan đến chủ đề, thể loại của
văn bản.
– Thể hiện những hiểu biết về văn bản.
+ Tìm kiếm thông tin, đọc lướt để tìm ý chính, đọc kỹ tìm các chi tiết.
10


+ Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, phân tích, kết nối, tổng hợp…thông tin
để tạo nên hiểu biết chung về văn bản.
+ Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
– Vận dụng những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu vào việc đọc các loại văn bản
khác nhau, sẵn sang thực hiện các nhiệm vụ học tập, các nhiệm vụ trong đời sống
yêu cầu dùng đến hoạt động đọc hiểu.
+ Đọc các văn bản khác (ngoài chương trình, sách giáo khoa) có cùng đề tài/ chủ đề
hoặc hình thức để thực hiện củng cố hiểu biết và rèn luyện kỹ năng đọc hiểu.
+ Trình bày những giải pháp để giải quyết một vấn đề cụ thể từ việc vận dụng
những hiểu biết về văn bản đã đọc hiểu.
– Đọc tác phẩm “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân: học sinh cần làm nổi
bật được:

+ Đề tài: Viết về dòng sông quê hương Việt Nam.
+ Thể loại: Tùy bút (bút kí) có cấu trúc tự do phóng túng, hầu như không có luật lệ,
quy phạm gì chặt chẽ, câu thúc bởi cốt truyện cụ thể nào…Tùy bút mang tính chất
chủ quan, chất trữ tình rất đậm, nhân vật chính là cái tôi của nhà văn, bộc lộ cảm
xúc suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc sống hiện tại.
Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ.
+ Cảm hứng sáng tạo: Nguyễn Tuân đề từ cho tác phẩm: “Đẹp vậy thay tiếng hát
trên dòng sông”.(Wladyslow Broniewski); “Chúng thủy giai Đông tẩu- Đà giang
độc Bắc lưu” (Thơ Nguyễn Quang Bích)
Nguyễn Tuân đã cảm nhận vẻ đẹp độc đáo của sông Đà. Không chỉ sông Đà, sông
nước quê hương, sông tuyến (Bến Hải), sông Gianh – đã chảy vào tâm hồn nhà
văn, đã hóa thân thành những trang viết đẹp. Viết “sông Đà”, Nguyễn Tuân muốn
đề thơ, phổ nhạc vào sông nước quê hương. Cảm hứng sông Đà đã thành nghệ thuật
“thành một gợi cảm mênh mang” về sông quê, về con người Việt Nam trong bối
cảnh ấy. Và ông cũng là “Đà giang độc Bắc lưu” trên bình diện nghệ thuật.
+ Nội dung của văn bản:
- Hình tượng con sông Đà: Hung bạo, trữ tình
- Hình tượng người lái đò: Tài hoa, điêu luyện trong nghệ thuật vượt thác leo ghềnh
+ Đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Tuân:
Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ: tài hoa uyên bác và dụng nhiều tri
thức của nhiều ngành văn hóa, nghệ thuật khác nhau để quan sát miêu tả (địa lý,
lịch sử, nghệ thuật, quân sự, võ thuật, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, thơ ca…) thiên
nhiên và con người Tây Bắc. Thể tùy bút phóng túng ngôn từ phong phú và điêu
luyện.
+ Yêu cầu học sinh tìm đọc toàn văn bản “Người lái đò sông Đà”.
11


2. Dạy học tác phẩm theo đặc trưng thể loại.
a. Khái quát về thể kí

- Kí là một loại văn xuôi tự sự, có nguồn gốc từ kí lịch sử, dùng để ghi chép về con
người, sự vật, phong cảnh…kí bao gồm nhiều thể như: Bút kí, hồi kí, du kí, phóng
sự, kí sự, nhật kí, tùy bút…
- Trong văn học cổ phương Đông, thể kí vốn có mặt từ thời kỳ tiền Tần và về sau
phân thành 2 nhánh: có kí của sử và kí của truyện. Trong một thời gian khá dài thì
kí là tiền thân của tiểu thuyết, có khi tên gọi kí cũng dùng cho tiểu thuyết hay một
câu chuyện có kịch tính như Tây du kí, Tây sương kí…
- Trong nền văn học Việt Nam, kí có từ rất lâu đời, nhưng phải đến thế kỉ XVII, đặc
biệt là từ thế kỷ XIX, khi đời sống các dân tộc ngày càng phát triển nâng cao, khi
kỹ nghệ in ấn và báo chí phát triển, khi văn học cũng đã thâm nhập vào các lĩnh
vực hoạt động tinh thần khác của xã hội và nhà văn có ý thức tham gia vào các
cuộc đấu tranh xã hội, kí mới thực sự phát triển và là thể loại phức tạp nhất trong
văn xuôi tự sự thời trung đại.
b. Những đặc trưng cơ bản thể kí
Các nhà nghiên cứu văn học đã nêu ra nhiều cách tiếp cận để nhận diện kí, nhưng
cho đến nay vẫn chưa có được một hệ thống lý thuyết thống nhất cho thể loại văn
học này. Song, tựu trung, có thể thấy nổi bật ở kí (có nghĩa là cả tùy bút và bút kí)
những đặc trưng cơ bản sau:
- Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung thực,
chính xác. Người viết kí thường quan tâm, tôn trọng những sự kiện xã hội lịch sử,
những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra trong đời sống.
- Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần
gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành, có thời gian,
địa điểm, hành động, và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh, gợi không khí.
- Tác giả kí khéo sử dụng tài liệu đời sống kết hợp với tưởng tượng, cảm thụ, nhận
xét, đánh giá. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện suy
tưởng nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.
- Cái thú vị của kí là ở những ý riêng, suy nghĩ riêng của tác giả được đan cài với
việc tái hiện đối tượng. Vì vậy, sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự
thật một cách sinh động của tác giả.

- Kí ít chấp nhận sự hư cấu, do đó phải dựa vào những liên tưởng, tưởng tượng bất
ngờ, tài hoa của tác giả khi phản ánh sự vật, cuộc sống. Điều ấy làm nên cái hay cái
đẹp của một tác phẩm kí.

12


- Nổi bật lên trong tác phẩm kí chính là tính chủ quan, chất trữ tình sâu đậm của cái
tôi tác giả. Cho nên, sức hấp dẫn của kí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của cái tôi
ấy (thường là những cái tôi phong phú, uyên bác, tài hoa, độc đáo…).
Những đặc trưng cơ bản trên đây của tác phẩm kí sẽ là điểm tựa cho giáo viên trong
việc giảng dạy tác phẩm kí theo đặc trưng thể loại.
Biểu hiện trong Người lái đò sông Đà:
+ Tổ chức cho học sinh phát hiện ra nét tương đồng và khác biệt của sông Đà được
tác giả phản ánh trong tác phẩm kí, so với những đối tượng tương tự có thật ở ngoài
đời. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật, kí đòi hỏi sự trung
thực, chính xác.
+ Sông Đà khi đi vào tác phẩm của Nguyễn Tuân trở thành đối tượng thẩm mĩ của
nhà văn. Con sông Đà nếu chỉ được Nguyễn Tuân ghi chép bằng những số liệu đơn
thuần như một nhà địa lí thì cái phần hồn hung bạo và thơ mộng của nó sẽ không
được phát hiện. Sức hấp dẫn của kí chính là ở khả năng tái hiện sự thật một cách
sinh động của tác giả. Nếu chỉ đơn thuần là ghi chép thì tác phẩm kí sẽ hết sức khô
khan, không gây được ấn tượng đối với người đọc.
+ Khi khám phá vẻ hung bạo của con sông, cần nhận thấy liên tưởng nhất quán của
Nguyễn Tuân. Nhà văn hình dung sông Đà như một con thủy quái khổng lồ, có tâm
địa đen tối, với biết bao tướng dữ quân tợn vây quanh. Đã thế, con thủy quái mang
tên sông Đà còn có hành động, mưu mô ác độc đối với thuyền và người trên sông.
+ Như vậy, nhờ vào khả năng sử dụng ngôn ngữ liên ngành và trí tưởng tượng tài
hoa của tác giả, học sinh vừa hiểu về đặc điểm thực của sông Đà ở thượng nguồn,
vừa bị cuốn hút vào tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân.

+ Khi khám phá vẻ đẹp thơ mộng trữ tình của con sông, lại cần phải phát hiện ra sự
thay đổi di chuyển điểm nhìn và cách miêu tả. Sông Đà không chỉ là quái thú sông
nước nữa, mà đã lột xác trở thành người thiếu nữ có mái tóc tuôn dài, thành cố
nhân đầy nỗi niềm lâu ngày gặp lại... Điểm nhìn đa chiều bao quát vẻ đẹp của dáng
sông, màu nước sông Đà bằng cái nhìn xuyên thời gian qua mấy mùa trong năm;
của bờ bãi hoang sơ, của mặt nước lặng yên như tờ thảng hoặc đôi con cá quẫy làm
giật mình đàn hươu.
+ Còn với hình tượng ông lái đò: Nhân vật này không được khắc họa thành số phận
như trong tác phẩm tự sự. Thực ra, đó chỉ là một khoảnh khắc trên sông nước để
qua đó Nguyễn Tuân tôn vinh con người lao động trong thời kì mới - thời kì tái
thiết đất nước xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Thực ra, sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa để làm nền cho ông lái nổi
bật lên. Sông Đà càng hung bạo, ông lái đò càng trí dũng, tài hoa. Sông Đà có thơ
mộng, hiền hòa với những vẻ hoang sơ mới thấy ông lái là người yêu thiên nhiên,
chan hòa trong cuộc sống, là một người lao động bình dị như bao con người
13


khác.Từ đó thấy được cách để Nguyễn Tuân tôn vinh vẻ phi thường của một con
người bình thường - một hạt “vàng mười” mà ông đã bỏ công bao ngày để đi tìm
trên mảnh đất Tây Bắc.
c. Tổ chức cho học sinh phát hiện được đặc điểm của cái “tôi” tác giả
Là nhà văn có phong cách nghệ thuật đặc sắc Nguyễn Tuân hấp dẫn người
đọc bởi “cái tôi” độc đáo, sự tài hoa, uyên bác, giác quan sắc nhọn, tinh tế, nghệ
thuật sử dụng ngôn từ điêu luyện, giàu hình ảnh, cảm xúc. Sức hấp dẫn của ngòi
bút Nguyễn Tuân trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là ở sự độc đáo, sự giàu
có về chữ nghĩa, sự công phu trong quan sát và lựa chọn ngôn từ…
+ Cái tôi tài hoa: Luôn nhình cuộc sống, sự vật, con người ở phương diện,
góc độ văn hóa thẩm mỹ nên phát hiện ra nhiều vẻ đẹp hùng vĩ và mỹ lệ của thiên
nhiên, đất nước. Với đôi mắt của nhà văn suốt đời “duy mĩ”, Nguyễn Tuân đã nhìn

sông Đà ở góc độ thẩm mỹ để phát hiện ra vẻ đẹp trữ tình của con sông: Sông Đà
được ông ví như một người con gái đẹp kiều diễm với “áng tóc mun ngàn ngàn vạn
vạn sải” với màu sắc của nước sông Đà thay đổi theo mùa, sông Đà gợi cảm, sông
Đà “hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi
xưa”. Không chỉ nhìn cảnh vật ở điểm nhìn văn hóa thẩm mỹ, Nguyễn Tuân còn
nhìn người lái đò ở góc độ nghệ sĩ để phát hiện ra tài năng trong nghệ thuật vượt
thác leo ghềnh, khi đã nắm chắc được “binh pháp” của thần sông, thần đá “thuộc
lòng các luồng sinh tử” của các con thác dữ nên chủ động trong mọi tình huống, có
thể lái con thuyền vút vút qua hàng trăm ghềnh đá ngổn ngang hiểm hóc và Nguyễn
Tuân đã gọi đó là “tay lái ra hoa” của một người nghệ sĩ có tâm hồn cao thượng,
một phong thái ung dung, tự tại, một trí thông minh lão luyện và lòng dũng cảm
được tôi luyện trong lao động và chiến đấu.
+ Cái tôi “uyên bác”: “Uyên bác” là sự hiểu biết sâu rộng nhiều lĩnh vực,
nhiều ngành nghệ thuật và có thể cung cấp, đóng góp, lý giải những kiến thức đó
cho người khác.
3. Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy
Bản đồ tư duy là phương pháp được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận
dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách ghi nhớ chi tiết để tổng
hợp hay để phân tích một vấn đề thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Cách ghi
chép này khoa học, giúp cho học sinh dễ nhớ và dễ ôn tập hơn. Việc nhớ và ghi lại
các thông tin sau này sẽ dễ dàng, đáng tin cậy hơn so với khi sử dụng phương pháp
truyền thống. Sử dụng phương pháp bản đồ tư duy sẽ có những ưu điểm sau:
– Ý chính sẽ ở trung tâm và được xác định rõ ràng.
– Quan hệ hỗ trợ tương ứng giữa mỗi ý được chỉ ra tường tận. Ý càng quan trọng
thì sẽ nằm vị trí càng gần ý chính.
– Liên hệ giữa các khái niệm then chốt sẽ được tiếp nhận lập tức bằng thị giác.
14


– Ôn tập và ghi nhớ sẽ rất hiệu quả và nhanh hơn.

– Thêm thông tin (ý) dẽ dàng hơn bằng cách vẽ chèn thêm vào bản đồ.
– Mỗi bản đồ sẽ phân biệt nhau tạo sự dễ dàng cho việc gợi nhớ.
– Các ý mới có thể được đặt vào đúng vị trí trên hình một cách dễ dàng, bát chap
thứ tự của sự trình bày, tạo điều kiện cho việc thay đổi một cách nhanh chóng và
linh hoạt cho việc ghi nhớ.
Như vậy, bản đồ tư duy là một công cụ lý tưởng cho việc giảng dạy và trình
bày các khái niệm trong lớp học. Bản đồ tư duy giúp cho giáo viên tập trung vào
các vấn đề cần trao đổi cho học sinh, cung cấp một cái nhìn tổng quan về chủ đề
mà không có thông tin thừa. Học sinh sẽ không phải tập trung vào việc đọc chép
dài dòng, mà thay vào đó sẽ lắng nghe những gì mà thầy cô giáo diễn đạt. Hiệu quả
bài học sẽ tăng lên.
Khi dạy học bài “Người lái đò sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân, giáo viên
có thể tóm tắt hoặc cho học sinh ghi lên bảng tóm tắt lại nội dung bài học theo bản
đồ tư duy.

VI. BÀI TẬP VÀ LỜI GIẢI MINH HỌA
1. Ma trận đề
Nội
dung

Đọc –
hiểu

Nhận biết

Thông hiểu

– Nhận biết, nhớ
được tên tác giả
và hoàn cảnh ra

đời của các tác
phẩm.

- Nội dung đoạn
văn.
-Hiệu quả nghệ
thuật của từ ngữ,
liên tưởng và
tưởng tượng...

NLVH

Vận dụng
Vận dụng thấp

.

Vẻ đẹp của
hình
tượng
sông Đà và
sông Hương từ
15

Vận dụng cao

- Bình luận ý kiến
nhận xét về Ông
lái đò, về con
sông Đà.



đó suy nghĩ về
việc bảo vệ
cảnh
quan
thiên nhiên đất
nước

-Suy nghĩ về hai
ý kiến đánh giá
về tác phẩm.
-Phân tích đoạn
văn nhằm sáng tỏ
vấn đề LLVH
-Cảm nhận sông
Đà để làm nổi bật
quan niệm về cái
đẹp, PCNT của
NT
-Phân tích nhân
vật người lái đò
để làm sáng tỏ
phương diện nội
dung, nghệ thuật
của tác phẩm

2. Đề bài và lời giải minh họa
2.1. Đề 1. Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Ông đò Lai Châu bạn tôi làm nghề chở đò dọc sông Đà đã 10 năm liền và

thôi làm đò cũng đã đôi chục năm nay. Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông
lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng. Giọng
ông nói ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông. Nhỡn giới ông vòi vọi như lúc
nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù. Quê ông ở ngay chỗ ngã tư
sông sát tỉnh. Ông chở đò dọc, chở chè mạn, chè cối từ Mường Lay về Hòa Bình,
có khi chở về đến tận bến Nứa Hà Nội. Ông bảo: Chạy thuyền trên sông không có
thác, nó sẽ dễ dại tay chân và buồn ngủ. Cho nên ông chỉ muốn cắm thuyền ở Chợ
Bờ, cái chỗ biên giới thủy phận cuối cùng của đá thác sông Đà…
Trên dòng sông Đà, ông xuôi ngược hơn trăm lần rồi. Chính tay ông giữ lái
đò độ sâu chục lần cho những chuyến thuyền then đuôi én sâu mái chèo. Trí nhớ
ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng
tất cả những luồng nước, những con thác hiểm trở sông Đà, với người lái đò ấy,
như thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc lòng từ dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm
than, chấm xuống dòng…
16


(Người lái đò sông Đà – Tuyển tập Nguyễn Tuân – NXBVH
2008)
Câu 1. Xác định thể loại văn bản và những phương thức biểu đạt của đoạn văn
trên. Việc kết hợp nhiều phương thức biểu đạt như thế mang lại hiệu quả gì?
Câu 2. Chỉ ra và nêu tác dụng của biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất, có hiệu
quả nhất trong đoạn văn.
Câu 3. Vì sao ông đò Lai Châu chỉ muốn cắm thuyền ở chỗ biên giới thủy phận
cuối cùng của đá thác Sông Đà?
Câu 4. Viết từ 3- 5 câu về tình cảm của tác giả với ông đò qua đoạn văn trên?
Đáp án:
Câu 1.
- Thể loại văn bản: tùy bút.
- Những phương thức biểu đạt của đoạn văn: tự sự, miêu tả, biểu cảm.

- Việc kết hợp nhiều phương thức biểu đạt giúp nhà văn vừa tái hiện chân thực,
sinh động đối tượng, sự việc vừa bày tỏ tư tưởng, tình cảm một cách dễ dàng, hiệu
quả, giúp người đọc dễ hiểu, dễ tiếp cận.
Câu 2.
- Biện pháp tu từ được sử dụng nhiều nhất, có hiệu quả nhất trong đoạn văn: biện
pháp so sánh.
- Tác dụng: Khắc họa ông lái đò với vẻ đẹp từng trải, hiểu biết, thành thạo nghề lái
đò và nắm chắc đối tượng chiến đấu của mình.
Câu 3.
- Ông đò Lai Châu chỉ muốn cắm thuyền ở chỗ biên giới thủy phận cuối cùng của
đá thác Sông Đà là vì “Chạy thuyền trên sông không có thác, nó sẽ dễ dại tay chân
và buồn ngủ”
- Điều đó chứng tỏ ông đò là người gan dạ, quen với việc đối mặt với hiểm nguy,
biến những thử thách khó khăn trở thành thuận lợi.
Câu 4.
Tình cảm của tác giả với ông đò:
Nguyễn Tuân khắc hoạ hình tượng người lái đò sông Đà với vẻ đẹp bình dị mà phi
thường, như một biểu tượng đẹp của con người Việt Nam trong công cuộc xây
dựng đất nước. Đó là một cách nhìn, một cách khám phá và khẳng định vẻ đẹp của
con người Việt Nam trong thời đại mới. Ca ngợi hình tương người lái đò sông Đà
chính là một cách tôn vinh tài năng, ý chí, nghị lực của con người trong công cuộc
chinh phục thiên nhiên.
17


2.2. Đề 2. Đọc đoạn văn sau và thực hiện các yêu cầu:
Con Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn
hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù
khói núi Mèo đốt nương xuân. Tôi đã nhìn say sưa làn mây mùa xuân bay trên
Sông Đà, tôi đã xuyên qua đám mây mùa thu mà nhìn xuống dòng nước Sông Đà.

Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước Sông Đà không xanh màu xanh canh
hến của Sông Gâm Sông Lô. Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt một
người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì
mỗi độ thu về. Chưa hề bao giờ tôi thấy dòng Sông Đà đen như thực dân Pháp đã
đè ngửa con sông ta ra đổ mực Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây láo lếu, rồi cứ
thế mà phiết vào bản đồ lai chữ.
Đã có lần tôi nhìn Sông Đà như một cố nhân. Chuyến ấy ở rừng đi núi cũng đã
hơi lâu, đã thấy thèm chỗ thoáng. Mải bám gót anh liên lạc, quên đi mất là mình
sắp đổ ra Sông Đà. Xuống một cái dốc núi, trước mắt thấy loang loáng như trẻ con
nghịch chiếu gương vào mắt mình rồi bỏ chạy. Tôi nhìn cái miếng sáng lóe lên
một màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Bờ Sông
Đà, bãi Sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên Sông Đà. Chao ôi, trông con sông,
vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng.
Đi rừng dài ngày rồi lại bắt ra Sông Đà, đúng thế, nó đằm đằm ấm ấm như gặp lại
cố nhân, mặc dầu người cố nhân ấy mình biết là lắm bệnh lắm chứng, chốc chốc
dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy.
Thuyền tôi trôi trên Sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như từ đời Lí
đời Trần đời Lê, quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua
một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người.
Cỏ gianh đồi núi đang ra những nõn búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh
đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi
xúp-lê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ – Yên Bái – Lai Châu.
(Người lái đò sông Đà – Tuyển tập Nguyễn Tuân – NXBVH
2008)
Câu 1: Nêu nội dung của đoạn trích trên.
Câu 2: Phân tích giá trị thẩm mĩ của các từ ngữ được in đậm trong đoạn văn.
Câu 3: Để làm nổi bật vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của con sông Đà, Nguyễn Tuân đã
có những liên tưởng như thế nào? Hiệu quả nghệ thuật của những liên tưởng đó?
Câu 4: Văn bản trên gợi trong em những cảm xúc gì?

Đáp án:
Câu 1: Nội dung : Vẻ đẹp trữ tình thơ mộng của sông Đà
18


Câu 2: Các từ
+ Xanh ngọc bích: sắc xanh trong trẻo, tinh khiết của làn nước Sông Đà mùa xuân
+ Xanh canh hến: sắc xanh đục, xanh lờ lờ của sông Gâm, sông Lô.
+ Lừ lừ chín đỏ: sắc nước mùa lũ đỏ dần bởi lớp phù sa cuộn xoáy trong lòng sông,
sắc đỏ báo hiệu nỗi giận dữ đang lớn dần của dòng sông theo mùa.
+ Màu nắng tháng ba Đường thi: cảm nhận về màu sắc thông qua thời gian nghệ
thuật của thi ca cổ.
Câu 3:
Nguyễn Tuân hình dung sông Đà như một thiếu nữ đang buông mái tóc mà làm
duyên, làm dáng trên sông: mái tóc tuôn dài tuôn dài, đầu tóc chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo. Có khi, Nguyễn Tuân lại thấy
sông Đà đằm đằm ấm ấm, quen thuộc, như một cố nhân – lắm bệnh lắm chứng,
chốc chốc dịu dàng đấy, rồi chốc lại bẳn tính và gắt gỏng thác lũ ngay đấy. Những
liên tưởng của Nguyễn Tuân hết sức thú vị, khơi gợi trong người đọc những cảm
xúc mới mẻ về một dòng sông đẹp vẻ đẹp thơ mộng, dịu dàng, trữ tình, đằm thắm.
Câu 4: Cảm xúc yêu thiên nhiên, tự hào về vẻ đẹp phong phú của quê hương đất
nước mình.
2.3.Đề 3.
Trong tác phẩm “Người lái đò sông Đà”, có đoạn Nguyễn Tuân viết: “Đá ở đây
từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc
thuyền nào xuất hiện ở quãng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào
nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Lại có đoạn: “Và con sông như đang lắng nghe những giọng nói êm êm của
người xuôi, và con sông đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải nó
khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên”.

Cảm nhận về hai đoạn văn trên, anh (chị) hãy lí giải điểm khác biệt trong cách
miêu tả con sông Đà của nhà văn Nguyễn Tuân.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
– Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, độc đáo, thành tựu trên các các thể loại: truyện
ngắn và tùy bút. Là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật và cuộc sống.
Tuy cuộc đời cầm bút vắt qua hai giai đoạn trước và sau Cách mạng Tháng Tám
nhưng sáng tác của ông thống nhất ở cái nhìn duy mĩ về con người và sự vật.
– Tác phẩm được sáng tác nhân một chuyến đi công tác của nhà văn lên vùng núi
Tây Bắc và được in trong tập tùy bút “Sông Đà” (1960)
- Dẫn vấn đê cần nghị luận (2 đoạn văn): Vẻ đẹp phong phú của Sông Đà- nét tính
cách đối lập.
19


b. Thân bài
b.1. Phân tích hình ảnh con sông Đà trong hai đoạn văn trên:
+ Giống nhau: hai đoạn văn đều miêu tả con sông Đà trong mối quan hệ với người
lái đò trên dòng sông. Bút pháp nhân hóa, làm cho con sông trở thành một sinh vật
có cá tính độc đáo. Thể hiện cái nhìn biện chứng của nhà văn về hai nét tính cách
khác biệt của dòng sông
+ Khác nhau:
+ Đoạn 1: hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ tợn như con thủy quái khổng lồ. Học
sinh phân tích đoạn con sông mai phục trong đoạn thủy chiến với người lái đò
+ Đoạn 2: hình ảnh con sông Đà đằm thắm, trữ tình. Học sinh phân tích hình ảnh
con sông ở đoạn hạ lưu: hai bên bờ sông, dòng sông lững lờ như nhớ thương những
hòn đá thác xa xôi ở thượng nguồn.
b.2.Lý giải điểm khác biệt trong cách miêu tả con sông Đà của nhà văn trong hai
đoạn văn kể trên:
– Sự khác biệt trong cách sử dụng từ ngữ, câu văn miêu tả về dòng sông.

+ Đoạn 1: ngôn ngữ gân guốc, góc cạnh, sắc sảo (mai phục, nhổm dậy, vồ lấy
thuyền…) thể hiện tính cách dữ tợn, với âm mưu nham hiểm của các thạch trận đá.
+ Đoạn 2: ngôn ngữ mượt mà, uyển chuyển, sâu lắng (lắng nghe, giọng nói êm êm,
đang trôi những con đò…) thể hiện tính cách hiền hòa, thơ mộng, trữ tình của dòng
sông.
– Do sự tiếp cận của nhà văn về dòng sông ở hai thời điểm khác nhau. Đoạn 1 là
hình ảnh con sông ở thượng nguồn với những đá hai bên bờ sông dựng vách thành,
những quãng mặt ghềnh, những cái hút nước và những thác nước… Nên dòng sông
trở nên dữ tợn, nguy hiểm. Còn ở đoạn 2 sông Đà được miêu tả ở đoạn hạ lưu, mặt
nước chậm trôi, hiền hòa, cảnh hai bên bờ sông tĩnh lặng, thơ mộng như lắng lại ở
người đọc nỗi nhớ thương những hòn đá thác xa xôi nơi thượng nguồn.
– Sự khác biệt trong cách miêu tả hai nét tính cách tưởng như đối lập mà lại thống
nhất biện chứng với nhau.
+ Đoạn 1: Tính cách hung bạo, dữ tợn của con sông Đà là do con sông đang “làm
mình làm mẩy” với con người Tây Bắc và “phản ứng giận dỗi vô tội vạ với người
lái đò sông Đà”. Đó là cách con sông thể hiện tình yêu đối với con người Tây Bắc.
+ Đoạn 2: Tính cách trữ tình: cái nhìn bao quát từ cao và xa, con sông gợi cảm, trữ
tình. Biết làm duyên làm dáng “tuôn dài như một áng tóc trữ tình”, biết lắng nghe
“giọng nói êm êm của người xuôi”.
Hai nét tính cách đối lập tạo nên cá tính độc đáo của dòng sông Đà.
– Sự khác biệt trong hai nét tính cách của con sông Đà giúp nhà văn thể hiện quan
niệm về cuộc sống:
20


+ Thiên nhiên vừa là hoàn cảnh thử thách nghiệt ngã vừa là người bạn của con
người.
+ Nhà văn nhìn sự vật ở góc độ văn hóa thẩm mĩ. Bởi trong mỗi sự vật, mỗi con
người đều có cá tính độc đáo, cần được thấu hiểu.
+ Thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống lao động của con người Tây Bắc

trong hành trình xây dựng cuộc sống mới XHCN
b.3. Đánh giá
– Con sông Đà với hai nét tính cách đối lập tạo nên cá tính độc đáo khác biệt trong
văn chương
– Khẳng định bút pháp tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nghệ thuật xây dựng
hình tượng văn học.
c. Kết bài
- Đánh giá khái quát vấn đề.
2.4. Đề 4.
Cảm nhận của anh (chị) về hình tượng sông Đà trong đoạn trích. Từ đó, anh
(chị) hãy đánh giá sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân
được thể hiện qua hình tượng trên.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà.
- Dẫn vấn đề cần nghị luận: Vẻ đẹp hình tượng con sông Đà và quan niệm về cái
Đẹp của Nguyễn Tuân.
b. Thân bài
b.1. Hình tượng sông Đà hung bạo,
–- Hình tượng sông Đà hung bạo: được khám phá chủ yếu ở khúc thượng nguồn
nhiều ghềnh lắm thác- Sông Đà dữ dội trước hết ở những vách đá dựng thẳng đứng.
– Sông Đà dữ dội còn bởi cảnh ghềnh đá dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm...
– Sông Đà hung bạo bởi những hút nước giống như những cái giếng bê tông…
Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc…
– Sự dữ dội của sông Đà còn được biểu hiện qua tiếng thác nước réo gần mãi lại,
réo to mãi lên…
– Sông Đà chỉ thực sự bộc lộ đầy đủ tính cách hung bạo trong cuộc giao chiến với
con người tại thạch trận.


21


+ Sông Đà bày thạch trận hiểm ác mai phục sẵn để quyết tiêu diệt bất cứ người lái
đò nào đi qua. Đội quân thạch trận hùng hậu từ đá tướng đến đá tiền vệ, hậu vệ với
những boongke chìm, pháo đài đá nổi.
+ Chúng trổ đủ mưu ma chước quỷ để lừa người lái đò vào tập đoàn cửa tử với ba
trùng vi đã bày sẵn.
+ Khi dụ được thuyền tiến sâu vào thế trận, sông Đà giở đủ các chiến thuật: đánh
khuýp quật vu hồi, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đòn âm vào chỗ hiểm; sóng nước
hò la vang dậy để uy hiếp tinh thần đối phương…
Sông Đà được miêu tả với diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một của con
người.
b.2. Hình tượng sông Đà trữ tình:
– Vẻ đẹp này của sông Đà được tập trung miêu tả ở khúc hạ lưu, dòng sông chảy
êm ả nơi thoáng rộng, bằng phẳng.
– Nguyễn Tuân quan sát sông Đà từ điểm nhìn rất động để giúp người đọc nhận ra
vẻ đẹp trữ tình của con sông:
+ Từ xa, trên cao, sông Đà như một giai nhân tuyệt sắc, duyên dáng, yêu kiều với
dòng chảy tuôn dài, tuôn dài như một mái tóc trữ tình…
+ Theo dòng chảy của mùa, tác giả phát hiện màu nước sông Đà thay đổi theo mùa:
mùa xuân dòng xanh ngọc bích… mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da một
người bầm đi vì rượu bữa.
+ Ngắm con sông bằng cảm giác của một người đi rừng lâu ngày mong tìm chỗ
thoáng, nhà văn phát hiện ra sông Đà như một cố nhân xa lâu thì nhớ, gặp lại thấy
đằm đằm ấm ấm, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm…
+ Ngồi thuyền đi trên mặt sông, tác giả lại đem đến cho người đọc cảm nhận sống
Đà giống như một người tình nhân chưa quen biết. Sông Đà thật quyến rũ nên thơ,
gợi cảm với cảnh bờ bãi lặng lẽ… hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa, nương ngô đang nhú mấy lá ngô non, cỏ gianh đồi

núi đang ra những nón búp, con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ dương,
cá dầm xanh quẫy vọt lên mặt sống… Một bức tranh sông nước cổ kính, hoang sơ,
huyền ảo, bình yên, trù phú.
b.3. Đánh giá ý nghĩa, vai trò của hình tượng
– Hình tượng sông Đà biểu trưng cho chất vàng mười của thiên nhiên Tây Bắc – 1
hiện diện của cái Đẹp mà nhà văn khao khát kiếm tìm và thể hiện trong các sáng tác
sau cách mạng.
– Hình tượng sông Đà là phông nền để nhà văn khắc hoạ nổi bật vẻ đẹp trí dũng
tuyệt vời, chất tài hoa nghệ sĩ của hình tượng ông lái đò.
22


– Từ hình tượng sông Đà, người đọc cảm nhận được lòng yêu nước, tinh thần dân
tộc mang sắc thái riêng của Nguyễn Tuân.
– Hình tượng sông Đà thể hiện sự độc đáo trong quan niệm về cái đẹp của Nguyễn
Tuân sau cách mạng:
+ Sau cách mạng, Nguyễn Tuân vẫn là người say mê khao khát cái Đẹp, nhưng
Nguyễn Tuân đã biết tìm kiếm và khai thác Cái Đẹp trong lòng cuộc sống của cả
dân tộc.
+ Nguyễn Tuân vẫn luôn đi tìm vẻ đẹp độc đáo của cuộc sống, vì vậy ông đã bị
sông Đà cuốn hút bởi sự khác thường:
“Chúng thuỷ giai Đông tẩu / Đà giang độc Bắc lưu”.
+ Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng luôn nhìn sự vật ở phương diện văn hoá,
mĩ thuật. Với cách nhìn này, sông Đà trong mắt ông hiện lên như một kì quan của
tạo hoá.
+ Nguyễn Tuân còn quan niệm cái đẹp phải gây ấn tượng mạnh. Vì vậy, ông
thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt đích: hoặc phải thơ mộng, trữ tình đến mức
tuyệt mĩ, hoặc hoành tráng đến dữ dội, dữ dằn. Sông Đà hội tụ được cả hai vẻ đẹp
ấy.
b.3. Nghệ thuật xây dựng hình tượng

Hình tượng sông Đà được xây dựng dựa trên:
– Các thủ pháp đối lập, nhân hoá, so sánh.
– Những liên tưởng, tưởng tượng táo bạo, bất ngờ- Hệ thống ngôn từ giàu có,
phong phú, thể hiện vốn sống, vốn kiến thức uyên bác của tác giả thuộc nhiều
ngành: lịch sử, thơ ca, hội hoạ, quân sự, thể thao.
c. Kết bài
– Đánh giá khái quát vấn đề.
– Có thể nêu suy nghĩ riêng của bản thân
2.5. Đề 5. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của hình tượng sông Đà trong tác
phẩm “Người lái đò sông Đà” – Nguyễn Tuân và hình tượng sông Hương trong
tác phẩm “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” – Hoàng Phủ Ngọc Tường. Từ đó,
trình bày suy nghĩ của mình về việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê
hương, đất nước.
Hướng dẫn:
a. Mở bài
– Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và Người lái đò sông Đà.
– Giới thiệu tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường và Ai đã đặt tên cho dòng song.
23


– Giới thiệu vấn đề nghị luận : vẻ đẹp của sông Hương, sông Đà, và về việc bảo vệ
cảnh quan thiên nhiên của quê hương, đất nước.
b. Thân bài
b.1.Nét tương đồng của 2 dòng sông:
+ Sông Đà và sông Hương đều được các tác giả miêu tả như một nhân vật trữ tình
có tính cách với những vẻ đẹp đặc trưng riêng biệt, thể hiện tình yêu thiên nhiên,
tình yêu quê hương, đất nước.
+ Sông Đà và sông Hương đều mang nét đẹp của sự hùng vĩ, dữ dội.
– Vẻ đẹp hùng vĩ của sông Đà được thể hiện qua sự hung bạo và dữ dội của nó trên
nhiều phương diện khác nhau cảnh trí dữ dội, âm thanh ghê rợn, đá sông Đà như

đang bày trùng vi thạch trận.
– Khi chảy giữa lòng Trường Sơn, sông Hương chảy dữ dội tựa 1 bản trường ca của
rừng già, tựa cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại….
+ Sông Đà và sông Hương đều có vẻ đẹp thơ mộng và trữ tình:
– Sông Đà: dáng sông mềm mại tựa mái tóc tuôn dài tuôn dài, màu nước thay đổi
qua từng mùa, vẻ đẹp hoang sơ, cổ kính…
– Sông Hương: với dòng chảy dịu dàng và đắm say giữa những dặm dài chói lọi
màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng. Sông Hương còn mang vẻ đẹp của người con gái
ngủ mơ màng chờ người tình mong đợi đánh thức. Nó còn được ví như điệu slow
tình cảm dành riêng cho Huế…
+ Cả 2 đều được miêu tả qua ngòi bút tài hoa, uyên bác:
– Tài hoa: 2 dòng sông đều được miêu tả trên phương diện văn hóa, thẩm mĩ:
+ Sông Đà là nơi hội tụ 2 nét tiêu biểu, đặc trưng của thiên nhiên Tây Bắc vừa hùng
vĩ, uy nghiêm, dữ dội lại vừa trữ tình, thơ mộng.
+ Sông Hương là dòng sông của âm nhạc, dòng sông của thơ ca, của lịch sử gắn
liền với những nét đặc sắc về văn hóa, với vẻ đẹp của người dân xứ Huế.
– Uyên bác: cả 2 tác giả đều vận dụng cái nhìn đa ngành, vận dụng kiến thức trên
nhiều lĩnh vực nghệ thuật để khắc họa hình tượng 2 dòng sông. 2. Nét độc đáo
riêng trong từng hình tượng dòng sông:
Sông Đà:
– Trong đoạn trích, nhà văn tập trung tô đạm nét hung bạo, dữ dội của sông Đà
giống như 1 kẻ thù hiểm độc và hung ác.
-> Thể hiện rõ nhất qua hình ảnh nước dữ, gió dữ, đá dữ đặc biệt đá bày trùng vi
thạch trận chực lấy đi mạng sống của con người. – Sông Đà được cảm nhận ở chính
nét dữ dội, phi thường, khác lạ: tiếng thét của sông Đà như tiếng thét của ngàn con
trâu mộng, đá trên sông đà mỗi viên đều mang 1 khuôn mặt hung bạo, hiếu chiến…
24


– Đặc biệt, tác giả miêu tả sự hung bạo của sông Đà để làm nổi bật sự tài hoa, tài trí

của người lái đò. Lúc này đây, sông Đà như 1 chiến địa dữ dội. Và mỗi lần vượt
thác của người lái đò là mỗi lần ông phải chiến đấu với thần sông, thần đá…
Sông Hương:
– Sông Hương được tô đậm ở nét đẹp trữ tình, thơ mộng, gợi cảm và nữ tính, luôn
mang dáng vẻ của 1 người con gái xinh đẹp, mong manh có tình yêu say đắm. Khi
ở thượng nguồn, nó là cô gái Digan phóng khoáng, man dại; khi ở cánh đồng Châu
Hóa, nó là cô thiếu nữ ngủ mơ màng; khi lại như người tài nữ đánh đàn giữa đem
khuya, hay là nàng Kiều tài hoa, đa tình mà lại chung tình, là người con gái dịu
dàng của đất nước.
– Sông Hương được miêu tả qua chiều sâu văn hóa xứ Huế, nó như người mẹ phù
sa bồi đắp cho vùng đất giàu truyền thống văn hóa này từ bao đời nay
.– Sông Hương được cảm nhận qua lăng kính của tình yêu: thủy trình của sông
Hương là thủy trình có ý thức tìm về người tình mong đợi. Khi chảy giữa Huế,
sông Hương mềm hẳn đi như 1 tiếng ” vâng” không nói ra của tình yêu. Trước khi
đổ ra cửa biển, sông Hương như người con gái dùng dằng chia tay người yêu, thể
hiện 1 nỗi niềm vương vấn với 1 chút lẳng lơ kín đáo.
– Thông qua hình tượng sông Hương mang nét đẹp nữ tính, nhà văn thể hiện nét
đẹp lãng mạn, trữ tình của đất trời xứ Huế.
b.2. Trách nhiệm bản thân trong việc bảo vệ cảnh quan thiên nhiên của quê hương,
đất nước.
Học sinh có thể trình bày quan điểm cá nhân dựa trên những gợi ý sau: Thế hệ trẻ
cần có trách nhiệm bảo vệ cảnh quan đất nước qua hành động cụ thể như: yêu quí,
bảo vệ môi trường, quảng bá thắng cảnh…
c. Kết bài
Đánh giá chung về đóng góp của hai nhà văn.
– Qua vẻ đẹp tương đồng của 2 dòng sông, ta bắt gặp sự tương đồng độc đáo của 2
tâm hồn có tình yêu thiên nhiên tha thiết và niềm tự hào với vẻ đẹp của non sông
đất nước Việt Nam.
– Mỗi nhà văn đều có 1 phong cách nghệ thuật độc đáo trong việc thể hiện hình
tượng các dòng sông, giúp người đọc có những cách nhìn phong phú, đa dạng về vẻ

đẹp của quê hương, đất nước mình.
2.6. Đề 6.
Về nhân vật Ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn
Tuân, có ý kiến cho rằng: “Ông lái đò là một nghệ sĩ tài hoa”. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: “Ông lái đò là một người lao động bình thường”.
25


×