Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

luận văn thạc sĩ giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ cho học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay (qua khảo sát tại một số trường trung học phổ thông ở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 89 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
››@›?››

NGUYỄN THỊ THANH THẢO

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
(Qua khảo sát tại một số trường trung học phổ thông ở
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC


2

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
››@›?››

NGUYỄN THỊ THANH THẢO

GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
(Qua khảo sát tại một số trường trung học phổ thông ở
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh)



Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn chính trị
Mã số: 60.14.10

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Minh Duệ


3

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2012
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU..................................................................................................5
B. NỘI DUNG...........................................................................................15
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH
LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG 15
1.1.

Khái quát Luật giao thông đường bộ................................................15

1.2. Vai trò của giáo dục Luật giao thông đường bộ đối với ý thức chấp hành Luật
giao thông đường bộ của học sinh trung học phổ thông.............................16
1.3. Những yếu tố tác động đến ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ đối với
học sinh trung học phổ thông giai đoạn hiện nay........................................34
1.4. Những vi phạm phổ biến của học sinh trung học phổ thông về trật tự an toàn giao
thông............................................................................................................45
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO GIÁO DỤC Ý
THỨC CHẤP HÀNH LUẬT GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO HỌC SINH

TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...............................................46
2.1. Đặc điểm Kinh tế- xã hội Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh ..............46
2.2. Thực trạng ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ của học sinh trung học
phổ thông ở Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh............................................55
2.3. Đánh giá chung về công tác giáo dục ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ
của học sinh THPT Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh…………70
2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao việc giáo dục ý thức chấp hành Luật giao thông
đường bộ cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn Quận

7, Thành phố Hồ

Chí Minh trong giai đoạn hiện nay..............................................................76
C. KẾT LUẬN...........................................................................................84


4

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................86
E. PHỤ LỤC..............................................................................................89

LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện đề tài: “Giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ
cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay”. (Qua khảo sát tại một số trường


5

THPT ở Quận 7, TP.HCM ), tôi đã nhận được sự đóng góp, hướng dẫn tận tình của
các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị; khoa Sau đại học – Trường Đại học

Vinh; Ban giám hiệu Trường THPT Ngô Quyền; Trường THPT Lê Thánh Tôn;
Trường THPT Tân Phong. Đặc biệt xin cảm ơn thầy giáo PGS. TS. Đoàn Minh
Duệ, người trực tiếp hướng dẫn khoa học giúp tôi thực hiện thành công đề tài này.
Tôi mong muốn tiếp tục nhận được sự giúp đỡ và dìu dắt của quý thầy cô trong
tương lai.
Xin chân thành cám ơn!
TP. HCM, tháng 7 năm 2012
Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Thảo


6

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
------------ATGT

: An toàn giao thông

BGD ĐT

:

CSGT

: Cảnh sát giao thông

GDCD

: Giáo dục công dân


GTĐB

: Giao thông đường bộ

Nxb
THPT
TNGT

Bộ Giáo dục - Đào tạo

: Nhà xuất bản
: Trung học phổ thông
: Tai nạn giao thông

TP. HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

TW

: Trung ương

UTGT

: Ùn tắc giao thông


7


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đồng chí Đỗ Mười - nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương (TW)
Đảng Cộng sản Việt Nam tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa X đã chỉ
rõ: “Việc ban hành pháp luật là quan trọng, song điều quan trọng hơn nữa là phải
giải thích, hướng dẫn, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thực thi pháp luật” [12; 3].
Như vậy, trong đời sống xã hội, pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, pháp
luật là phương tiện không thể thiếu để bảo đảm cho sự tồn tại, phát triển của xã hội.
Việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật là điều vô cùng quan trọng, mang tính chất
sống còn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Giáo dục ý thức chấp hành pháp luật
về an toàn giao thông (ATGT) chính là một phần của việc giáo dục ý thức trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội của mỗi người.
Việc hình thành ý thức chấp hành pháp luật nói chung và ý thức chấp hành pháp
Luật ATGT nói riêng đối với mỗi người đều bắt đầu từ những nhận thức ban đầu do
quan sát, tiếp xúc, cùng với sự giáo dục dần dần hình thành. Mục tiêu của giáo dục
ATGT cho học sinh nói chung và học sinh trung học phổ thông (THPT) nói riêng
nhằm đạt được 2 yêu cầu cơ bản là: Có được các hiểu biết cơ bản để phòng, tránh tai
nạn và có ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông.
Giáo dục Luật GTĐB cho học sinh trong đó có học sinh THPT đã từng bước
triển khai theo các văn bản pháp luật. Khoản 3 Điều 6 Luật GTĐB quy định đưa pháp
Luật GTĐB vào giảng dạy trong nhà trường. Điều 12 Nghị định số 36/2001/NĐ-CP
nêu rõ: “Bộ Giáo dục Đào tạo (BGD ĐT) xử lý nghiêm khắc những học sinh cố tình
vi phạm các quy định về trật tự ATGT”[21; 4]. Nhưng thực tế, giáo dục pháp luật nói
chung và giáo dục Luật GTĐB nói riêng đối với học sinh vẫn còn nhiều bất cập, hiệu
quả của những tác động giáo dục chưa cao. Nhận thức của học sinh về những quy
định của Luật GTĐB còn hạn chế, chưa hình thành thái độ tích cực và thói quen chấp
hành đúng Luật GTĐB ở các em [19; 290-291]. Để đảm bảo ATGT một cách bền
vững, trước hết luật giao thông và vấn đề ATGT phải được tuyên truyền, giáo dục sâu
rộng, có hệ thống ngay từ trong trường học. Nếu kiên trì giáo dục pháp luật, chúng ta



8

sẽ có một thế hệ, những công dân có thói quen tôn trọng pháp luật nói chung và Luật
GTĐB nói riêng, cần tập trung vào những đối tượng thiếu niên, thanh niên. Đặc biệt
là học sinh THPT.[19; 290-291]
Tai nạn giao thông (TNGT) là vấn đề quan tâm mang tính toàn cầu. Nhận thức
được điều này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB
cho học sinh THPT khi tham gia giao thông. Học sinh THPT ý thức chấp hành luật
chưa tốt, điều này liên quan tới nhận thức, thái độ và cả hành vi, thói quen,... của chủ
thể khi tham gia giao thông và thực tế hiệu quả giáo dục Luật GTĐB cho học sinh nói
chung và học sinh THPT nói riêng còn nhiều bất cập.
Ý thức chấp hành các quy định về ATGT của học sinh có chuyển biến nhưng
tính tự giác chưa cao và chưa bền vững. Vẫn còn một bộ phận học sinh chưa tự giác
chấp hành quy tắc giao thông. Một số trường còn chưa thật quan tâm đúng mức trong
công tác này, việc kiểm tra còn chưa được thường xuyên, chưa có sự phối hợp chặt
chẽ với các cấp, các ngành trong địa bàn. Việc phối hợp với phụ huynh học sinh trong
công tác này chưa được quan tâm thường xuyên, nhiều nơi còn mang tính hình thức.
Việc tập trung nghiên cứu giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB cho học sinh THPT
sẽ có lợi ích nhiều mặt.
Như vậy, thực tiễn ATGT đường bộ và ý thức chấp hành luật khi tham gia
GTĐB của học sinh THPT đã đặt ra những vấn đề cần phải nghiên cứu. Hiện nay, có
rất nhiều thông tin từ báo chí, phương tiện truyền thông, các bậc phụ huynh, ... cũng
có nhiều đề tài nghiên cứu, nhưng chưa có đề tài nghiên cứu về thực trạng và đề xuất
những giải pháp để giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB cho hoc sinh THPT trong
giai đoạn hiện nay, nhằm giúp cho học sinh THPT nhận thức về tầm quan trọng, ý
nghĩa của việc chấp hành nghiêm chỉnh luật giao thông khi tham gia giao thông. Vì
vậy, chúng tôi chọn vấn đề: “Giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB cho học sinh
THPT trong giai đoạn hiện nay”. (Qua khảo sát tại một số trường THPT ở Quận 7,
TP. HCM) làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học thạc sỹ.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan tới đề tài


9

Xác định bảo đảm ATGT cho học sinh là hết sức quan trọng trong mỗi năm
học. Bởi vậy, ngay từ đầu công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật về GTĐB cho
học sinh, sinh viên được chú ý ngay từ các trường mẫu giáo, tiểu học. Việc giáo dục
ATGT cho học sinh được nhà trường tổ chức thường xuyên qua nhiều hình thức. Bởi
đây không những là hoạt động được thực hiện theo sự chỉ đạo của ngành dọc cấp
trên, mà cần xác định đó là một việc làm hết sức cần thiết để bảo vệ sức khỏe, tính
mạng của học sinh mỗi khi đến lớp. Chính sự thiếu ý thức, chưa được hiểu biết về
pháp luật giao thông mà dẫn đến nhiều hậu quả rất đáng tiếc cho gia đình và xã hội.
Nếu các em được trang bị tốt về kiến thức, về văn hóa, những kiến thức về pháp luật
ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường sẽ là một điều kiện mang tính chiến lược cho
thế hệ trẻ bước tiếp chặng đường lịch sử của đất nước. Vì lẽ đó, ngay từ rất sớm
Đảng, Nhà nước và ngành Công an đã xác định vai trò của việc tuyên truyền giáo
dục pháp luật về GTĐB cho học sinh THPT là rất quan trọng và cần thiết. Giáo dục ý
thức chấp hành Luật GTĐB cho mọi người nói chung và học sinh, sinh viên nói
riêng đã và đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước cũng như
các ban ngành, tổ chức, cá nhân.
Thời gian qua, có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chủ trương, nghị quyết,
chính sách, kế hoạch về công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật.
Điều 6 Luật GTĐB, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất trong việc đảm bảo trật
tự ATGT đường bộ “Các cơ quan quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo có trách
nhiệm đưa pháp Luật GTĐB vào chương trình giảng dạy trong nhà trường và các cơ
sở giáo dục khác phù hợp với từng ngành học, cấp học”.
Ngày 11/01/1968, Hội đồng Chính phủ đã ra chỉ thị 141/CP về việc tăng cường
biện pháp bảo đảm giao thông vận tải và trật tự ATGT trong thời chiến. Chính phủ đã

giao trách nhiệm cho từng bộ, ngành trong công tác bảo đảm an ninh trật tự, trong đó
giao cho “Ngành giáo dục cần đưa việc giáo dục những điều cơ bản về giữ gìn trật
tự an toàn giao thông công cộng vào chương trình giảng dạy thường xuyên vào các
trường phổ thông cho học sinh”.


10

Chỉ thị 601/TTg ngày 23/9/1995 của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: “Bộ
Giáo dục và Đào tạo triển khai ngay trong năm học 1995- 1996 việc giảng dạy luật lệ
giao thông trong các trường phổ thông cơ sở, phổ thông trung học, các trường đại
học phối hợp với Bộ giao thông vận tải biên soạn giáo trình đào tạo lái xe cơ giới
đường bộ để áp dụng thống nhất trong cả nước”.
Chỉ thị 22/CT-TW chỉ rõ: “Đưa chương trình giảng dạy về an toàn giao thông
thành chương trình chính thức của các cấp học từ mầm non đến đại học"
Tại khoản 7 điều 20 Nghị định 14/2003/NĐ-CP ngày 19/2/2003 quy định “Lực
lượng Cảnh sát giao thông có trách nhiệm với các lực lượng, các ngành có liên quan
trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật về trật tự an toàn giao thông trong đó có
học sinh phổ thông”.
Nghị quyết 32/2007/NQ-CP về một số giải pháp cấp bách nhằm kiềm chế
TNGT và UTGT. Bộ GD-ĐT có trách nhiệm: “Ban hành chương trình giáo dục trật
tự an toàn giao thông phù hợp trong nhà trường, tăng thời lượng giảng dạy chính
khóa, các hoạt động ngoại khóa về trật tự an toàn giao thông. Thực hiện chương
trình giảng dạy trật tự an toàn gio thông mới từ niên học 2008-2009 ở tấc cả các
cấp học”;
“Chỉ đạo hiệu trưởng các trường phổ thông, các trường cao đẳng, đại học,
trung học chuyên nghiệp quản lý chặt chẽ học sinh, sinh viên về chấp hành pháp luật
trật tự an toàn giao thông; thường xuyên nhắc nhở, đưa thông tin liên quan đến trật
tự an toàn giao thông vào nội dung sinh hoạt đầu tuần, lễ chào cờ, sinh hoạt lớp,
sinh hoạt Đoàn, Đội; quy định việc đánh giá đạo đức đối với học sinh, sinh viên vi

phạm pháp luật trật tự an toàn giao thông. Từ ngày 01 tháng 09 năm 2007 kiên
quyết xử lý nghiêm đối với học sinh, sinh viên chưa đủ tuổi, không có giấy phép lái
xe điều khiển mô tô, xe gắn máy; Bộ GD-ĐT quy định trách nhiệm của hiệu trưởng
các trường không tổ chức thực hiện nghiêm túc những quy định trên”.
Chỉ thị 52/2007/CT-BGDĐT ban hành ngày 31/08/2007 về việc tăng cường
công tác giáo dục an toàn giao thông trong các sở giáo dục.


11

Ngày 4 tháng 9 năm 2007 giữa BGD ĐT, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công an,
TW Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đài Truyền hình Việt Nam ký kế hoạch liên tịch số
9337/KHLT/BGDĐT-BCA-BGTVT-TWĐTN-ĐTHVN về tăng cường công tác
tuyên truyền, giáo dục, xử lý các vi phạm pháp luật về trật tự ATGT cho học sinh,
sinh viên. Ngày 12 tháng 5 năm 2009 BGD- ĐT cũng ban hành đề cương tuyên
truyền, phổ biến luật GTĐB cho học sinh, sinh viên theo chủ đề năm học. (QĐ
3442/QĐ-BGDĐT).
Quyết định 3442/QĐ-BGDĐT ngày 15/05/2009 Đề cương tuyên truyền, phổ
biến Luật giao thông đường bộ cho học sinh, sinh viên theo chủ đề năm 2009.
Công văn số 5902/BGDĐT-CTTHSSV về việc chấn chỉnh việc học sinh vi
phạm quy định về ATGT CTHSSV ngày 18/8/2010 của BGD-ĐT triển khai một số
nội dung: “Chỉ đạo các trường trung học phổ thong yêu cầu học sinh ký cam kết
không điều khiển mô tô, xe gắn máy khi chưa đủ tuổi quy định và chưa có giấy phép
lái xe; đề nghị phụ huynh cùng lý cam kết với nhà trường để bảo đảm thực hiện
nghiêm túc quy định của pháp luật và bảo đảm an toàn tính mạng cho học sinh”.
Công văn số 345/BGDĐT-CTHSSV về việc tăng cường đảm bảo trật tự ATGT
cho học sinh, sinh viên. Nhắc nhở học sinh, sinh viên chấp hành nghiêm túc các quy
định của Luật giao thông.
“Đẩy mạnh công tác giáo dục ATGT trong trường học, nâng cao ý thức tự giác
chấp hành pháp luật cho học sinh, sinh viên trong năm học 2011-2012”, (BGD ĐT)

ban hành, gửi cho các sở giáo dục và đào tạo, các trường đại học, cao đẳng, trung cấp
chuyên nghiệp ngày 29 tháng 8 năm 2011 nhằm: Thực hiện chỉ thị số 718/TTg ngày
1 tháng 9 năm 1997 của Thủ tướng Chính phủ quy định tháng 9 hằng năm là tháng
ATGT. Kế hoạch số 304/KH-UBATGTQG ngày 3 tháng 8 năm 2011 của Chủ tịch
Ủy ban ATGT Quốc gia về tháng ATGT năm 2011 với chủ đề “Phòng chống uống
rượu, bia đối với người điều khiển phương tiện giao thông”.
Chuyên đề: “Phổ biến, giáo dục pháp luật cho học sinh, sinh viên trong các
trường học thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” nhằm nâng cao ý thức pháp luật, văn
hóa pháp lý cho mọi thành viên trong xã hội, trong đó có học sinh, sinh viên: “Góp


12

phần giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành nhân cách, rèn luyện hành vi ứng xử
cho thế hệ trẻ ngay từ khi trên ghế nhà trường tạo nếp sống, hành động: Sống và
làm việc theo pháp luật”, Thạc sỹ Phạm Thị Kim Dung, Đặc san tuyên truyền pháp
luật, số 3/2011, Vụ phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ tư pháp. [12; 7]
Mặc dù đã có nhiều công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức chấp hành luật giao
thông nhưng vẫn chưa tạo điều kiện đầy đủ và phát huy mạnh mẽ cho học sinh trong
việc chấp hành tốt luật: “Để đảm bảo ATGT một cách bền vững, trước hết Luật giao
thông và vấn đề ATGT phải được tuyên truyền, giáo dục sâu rộng, có hệ thống ngay
trong trường học. Nên đưa môn Luật GTĐB vào giảng dạy ngay từ cấp tiểu học” [9;
2] nhằm nhấn mạnh tầm quan trọng cần phải giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB
cho học sinh.“Nghiên cứu hành vi chấp hành Luật GTĐB của học sinh THCS khi
tham gia giao thông”, luận án tiến sỹ của Nguyễn Như Chiến, 2008
Để giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB cho học sinh THPT, ngày 20 tháng 4
năm 2011 tác giả Ngô Xuân Thắng có bài viết: “Đối với học sinh THPT phải củng cố
kiến thức ở cấp học dưới và phát triển phù hợp với yêu cầu của cấp học, học sinh
hiểu được nguyên nhân xảy TNGT và biết cách phòng tránh tai nạn, hiểu được trách
nhiệm công dân của bản thân, tôn trọng mọi người và quy định của pháp luật, thể

hiện được hành vi văn hóa khi tham gia giao thông”, trong bài viết “Giáo dục ATGT
đường bộ cho học sinh, sinh viên - Thực trạng và giải pháp”, ,
Bộ Giao thông Vận tải, Ủy ban ATGT Quốc gia.[32]
Các giải pháp cụ thể nâng cao ý thức cho mọi người trong việc chấp hành Luật
GTĐB: Hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật vể bảo đảm trật tự ATGT đường bộ;
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, hướng dẫn pháp luật về trật tự
ATGT; nâng cao hiệu quả an toàn của kết cấu hạ tầng GTĐB, phương tiện GTĐB;
…“ATGT đường bộ: Thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Chính, Trần Văn Luyện,
Trần Sơn, Nxb chính trị quốc gia, 2003.
Các tài liệu nghiên cứu đã cung cấp cho tôi những hiểu biết về lý luận và thực
tiễn ATGT cũng như giáo dục ý thức cho học sinh, sinh viên chấp hành luật khi tham
gia GTĐB. Về cơ bản các công trình đã nêu nhiều giá trị khoa học bổ ích, tuy nhiên


13

các công trình này vẫn còn đề cập những nét chung, bình diện rộng, có thể giúp cho
tôi những hiểu biết căn bản về lý luận, còn trong thực tiễn cần thiết phải có những
công trình được tiếp tục nghiên cứu. Do vậy, chúng tôi cho rằng đề tài mà chúng tôi
đang nghiên cứu đáp ứng mục tiêu đề ra. Đề tài: “Giáo dục ý thức chấp hành luật
GTĐB cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay”. (Qua khảo sát tại một số
trường THPT ở Quận 7, TP. HCM) là sự đòi hỏi tất yếu khách quan.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Mục đích nghiên cứu đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh THPT về ATGT đường bộ trên địa
bàn TP. HCM nhằm đưa ra các giải pháp kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục ý thức pháp luật cho học sinh, sinh viên trên địa bàn TP. HCM nói
riêng và cả nước nói chung.
3.2. Nhiệm vụ

Phân tích những nguyên nhân, điều kiện về tình trạng vi phạm pháp luật ATGT
đường bộ của học sinh THPT trên địa bàn TP. HCM
Đánh giá thực trạng của vấn đề chấp hành Luật GTĐB của học sinh THPT
trong giai đoạn hiện nay.
Bước đầu xác lập phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao giáo dục ý thức
chấp hành luật GTĐB của học sinh một số trường THPT ở Quận 7, TP. HCM trong
giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm đạt hiểu quả cao trong nghiên cứu, ngoài sử dụng phương pháp luận khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật, quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đề tài tôi còn vận dụng các
phương pháp mang tính đặc thù sau đây: phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo sát,
đánh giá thực tế, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học và một số phương pháp khác.
5. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu


14

Ý thức chấp hành Luật GTĐB của hoc sinh THPT khi tham gia giao thông và
các yếu tố ảnh hưởng đến ý thức đó.
5.2. Đối tượng nghiên cứu
- Học sinh khối 12 (3 lớp), Trường THPT Lê Thánh Tôn, Q7, TP. HCM
- Học sinh khối 11 (3 lớp), Trường THPT Tân Phong, Q7, TP. HCM
- Học sinh khối 10 (3 lớp ), Trường THPT Ngô Quyền, Q7, TP. HCM
6. Giả thuyết khoa học
Chúng tôi giả thuyết rằng: Nếu ý thức chấp hành Luật Giao thông đường bộ
được nâng cao thì kết quả về an toàn giao thông sẽ ngày càng tốt hơn.
7. Ý nghĩa của đề tài
Trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận về ý thức chấp hành Luật GTĐB

cho học sinh THPT trong giai đoạn hiện nay. Làm rõ thực trạng ở khu vực khảo sát và
đưa ra các giải pháp cơ bản tăng cường giáo dục ý thức chấp hành Luật GTĐB cho
học sinh THPT.
Đề tài khoa học sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho giáo viên, sinh viên của chuyên
ngành cao học chính trị, sẽ là tài liệu tham khảo cho hoạt động giảng dạy của giáo
viên cấp THPT, THCS trong giáo dục ý thức chấp hành luật giao thông cho học sinh
thông qua giảng dạy bộ môn GDCD.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, nội dung được
kết cấu làm 2 chương
Chương 1. Cơ sở lý luận của việc giáo dục ý thức chấp hành Luật giao thông
đường bộ cho học sinh trung học phổ thông.
Chương 2. Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao giáo dục ý thức chấp hành
Luật giao thông cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh trong giai đoạn hiện nay


15

B. NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC CHẤP HÀNH LUẬT
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CHO HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Khái quát Luật giao thông đường bộ
Luật GTĐB là một loại chuẩn mực pháp luật thuộc phạm trù cách mạng xã hội,
là văn bản pháp luật có giá trị cao, tạo hành lang pháp lý đầy đủ cho công tác đảm
bào ATGT đường bộ ở nước ta.
Những năm gần đây, lĩnh vực GTĐB mới có các nghị định của Chính phủ, chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ, các văn bản quy phạm pháp luật của các ngành, việc
triển khai chưa đồng bộ, nhiều khi mang tính của giải pháp tình thế… Ngày nay với

xu thế hội nhập, toàn cầu hóa thì hoạt động GTĐB ở nước ta cũng không ngoài quy
luật đó và đang có sự phát triển hết sức mạnh mẽ.
Từ thực tiễn trên nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, đề cao ý thức
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân để đảm bảo GTĐB thông suốt, trật tự, an
toàn, thuận lợi, phục vụ cho nhu cầu đi lại của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới, Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 9 ngày 29 tháng 06
năm 2001 đã thông qua “Luật giao thông đường bộ”, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01
năm 2002.
Cấu trúc của luật GTĐB: Luật GTĐB ngoài phần nói đầu, Luật có 09 chương
với 77 điều: Chương I từ Điều 1 đến Điều 8, đề cập tới “Những quy định chung”;
Chương II từ Điều 9 đến Điều 36, nêu “Quy tắc giao thông đường bộ”; Chương III từ
Điều 37 tới Điều 47, quy định “Kết cấu hạ tầng Giao thông đường bộ”; Chương IV
từ Điều 48 đến Điều 52, đề cập tới “Phương tiện tham gia giao thông đường bộ”;
Chương V từ Điều 53 tới Điều 58, quy định “Người điều khiển phương tiện tham gia
giao thông đường bộ”; Chương VI từ Điều 59 tới Điều 67, quy định “Vận tải đường
bộ”; Chương VII từ Điều 68 đến Điều 73, đề cập tới “Quản lý nhà nước về giao
thông đường bộ”; Chương VIII từ Điều 74 đến Điều 75, quy định “Khen thưởng, xử
lý vi phạm” và Chương IX từ Điều 76 đến Điều 77 nêu “Điều khoản thi hành”.[18]


16

Đối tượng áp dụng Luật GTĐB: Luật GTĐB áp dụng đối với cơ quan, tổ chức,
cá nhân hoạt động, sinh sống trên lãnh thổ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong trường hợp Điều ước Quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
ký kết hoặc tham gia có quy định khác với Luật này thì áp dụng quy định của Điều
ước quốc tế đó.
Và như vậy, Luật GTĐB cũng áp dụng đối với học sinh THPT, trong đó có học
sinh của ba trường THPT-khách thể nghiên cứu đề tài luận án.
1.2. Vai trò của giáo dục Luật giao thông đường bộ đối với ý thức chấp

hành Luật giao thông của học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Ý thức pháp luật và vai trò của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội
1.2.1.1. Ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật là tổng hợp những quan điểm, tư tưởng, học thuyết thể hiện
thái độ của con người, các nhóm xã hội, giai cấp,… đối với pháp luật, pháp chế cũng
như những quan điểm của họ về sự hợp pháp và không hợp pháp. Ý thức pháp luật
được xem như là một hình thái ý thức xã hội, là hệ tư tưởng pháp luật, dựa trên
những lập trường khoa học và xã hội nhất định. Ý thức pháp luật bao gồm: Sự hiểu
biết về pháp luật, thái độ đối với pháp luật, khả năng thực hiện và áp dụng pháp luật.
Ý thức pháp luật gắn bó mật thiết với văn hóa pháp luật và văn hóa nói chung. Nâng
cao ý thức pháp luật của mọi thành viên trong xã hội, biến việc tuân thủ nghiêm chỉnh
pháp luật thành niềm tin nội tâm ở mỗi người, là bộ phận cấu thành của giáo dục
Cộng sản chủ nghĩa đối với nhân dân lao động ở Việt Nam hiện nay. Cùng với sự
phát triển của xã hội Việt Nam, ý thức pháp luật của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động sẽ trở thành một hệ thống tư tưởng và quan điểm pháp luật chung thống nhất
của toàn xã hội. [8; 421]
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội được phát sinh và hình thành
cùng với ý thức chính trị của các giai cấp trong xã hội. Cũng như bất cứ một hình thái
ý thức nào khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội quyết định. Việc bồi dưỡng, giáo
dục ý thức pháp luật cần được tiến hành trên cơ sở giải quyết mối quan hệ này. Đó là
tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm thịnh hành trong xã hội,


17

thể hiện mối quan hệ của con người đối với pháp luật hiện hành, pháp luật đã qua và
pháp luật hiện có, thể hiện sự đánh giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong
hành vi xử sự của con người, cũng như trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước và các tổ chức xã hội. Trong xã hội tồn tại nhiều học thuyết, tư tưởng, và
các quan điểm khác nhau về pháp luật. Sở dĩ như vậy vì điều kiện sinh hoạt về vật

chất và đời sống tinh thần của mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp xã hội không hoàn toàn
giống nhau dẫn đến sự nhận thức pháp luật cũng có những khác biệt nhất định. [8;
421-422]
Ý thức pháp luật mang tính chính trị sâu sắc. Nội dung của ý thức pháp luật
luôn phản ánh những nhu cầu về chính trị, thể hiện mối quan hệ của các giai cấp đối
với các quy định của pháp luật do nhà nước ban hành có liên quan trực tiếp đến đời
sống chính trị xã hội. Chẳng hạn những quy định về hình thức nhà nước, chế độ bầu
cử và quyền bầu cử, nguyên tắc làm việc của bộ máy nhà nước… Ý thức pháp luật
cũng thể hiện những nhu cầu về kinh tế, đạo đức văn hóa của xã hội. Ví dụ: Những
quan điểm, tư tưởng, quan niệm về những phương pháp và điều kiện để thỏa mãn các
nhu cầu sinh hoạt vật chất của công dân, về quan hệ hôn nhân và gia đình, về hình
thức và phương pháp giáo dục thanh niên, thiếu niên… Tuy nhiên những quan điểm
tư tưởng này trở thành ý thức pháp luật khi chúng được đặt trong mối quan hệ với
nhà nước và pháp luật.
Ý thức pháp luật còn đồng thời bao gồm cả những yếu tố tâm lý xã hội như cảm
giác, tình cảm, quan niệm, thể hiện những mối quan hệ cụ thể của con người đối với
các quy phạm pháp luật, đối với quyền và nghĩa vụ… Ví dụ: Cảm giác của nhân dân
về tính nhân đạo của pháp luật và sự tôn trọng đối với pháp luật, cảm giác lo lắng và
thái độ căm phẫn trước những hành vi phạm pháp, mong muốn đấu tranh chống tội
phạm bảo vệ nền pháp chế… Vì vậy, việc giáo dục ý thức pháp luật, giáo dục tình
cảm và quan niệm đúng đắn sẽ có ý nghĩa lớn trong việc làm cho nhân dân quan tâm
đến pháp luật, xây dựng động cơ độc lập tương đối của ý thức pháp luật và hạn chế
tới mức thấp nhất mặt tiêu cực của những biểu hiện đó.
1.2.1.2. Vai trò của ý thức pháp luật đối với đời sống xã hội


18

Ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội.
Đó là việc nó phản ánh những điều kiện, những nhu cầu điều chỉnh bằng pháp

luật đối với các quan hệ xã hội. Ý thức pháp luật ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã
hội, tùy thuộc vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu mà sự tác động của nó sẽ có
vai trò tích cực hay tiêu cực đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội. Trước hết
ý thức pháp luật liên quan đến việc xác định nhu cầu xuất hiện, tồn tại của pháp luật,
sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với các quan hệ xã hội. Chẳng hạn, quan hệ xã hội
nào cần điều chỉnh bằng pháp luật? Những tư tưởng, quan điểm pháp luật có tính
vượt trội còn có thể định hướng, soi đường, dự báo và lên kế hoạch cho sự phát triển
của chúng trong tương lai.
Ý thức pháp luật ảnh hưởng rất lớn tới các hình thái ý thức xã hội khác nhau:
Chính trị, đạo đức, tôn giáo.
Là một bộ phận quan trọng của ý thức xã hội, ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất
lớn tới các hình thái ý thức xã hội khác nhau, ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức
tôn giáo… Tư tưởng, quan điểm pháp luật góp phần củng cố, phát huy những nhân tố
tích cực của hình thái ý thức xã hội khác đồng thời khắc phục những tư tưởng quan
niệm không khoa học, không phù hợp, có ảnh hưởng xấu đến lợi ích giai cấp thống
trị, đến đời sống cộng đồng và tiến bộ xã hội, xâm phạm quyền tự do dân chủ của
nhân dân.
Ý thức pháp luật có vai trò to lớn trong quá trình phản ánh nhận thức đời sống
xã hội.
Để củng cố, hoàn thiện các quy phạm pháp luật hiện hành, xây dựng, bổ sung,
các quy phạm pháp luật mới đòi hỏi các chủ thể tham gia xây dựng pháp luật phải
phân tích hiện thực khách quan, nhận thức đời sống xã hội về tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội…dưới góc độ pháp lý. Thông qua đó mà con người có được
những tri thức pháp lý cần thiết cho cuộc sống của mình, giúp cho họ có những hành
vi đúng đắn, phù hợp với quy định pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội
được pháp luật điều chỉnh, ngoài ra còn giúp cho ta khả năng nhận thức, đánh giá về
đời sống pháp luật.


19


Các tri thức thu được trong quá trình phản ánh tồn tại xã hội ngày càng phong
phú, con người được hiểu biết đầy đủ hơn về khách thể, trình độ ý thức được nâng
cao và khi ý thức pháp luật của chủ thể được nâng cao thì sự phản ánh đời sống pháp
luật càng cụ thể, chính xác hơn. Chính sự phản ánh sáng tạo của ý thức pháp luật giúp
ta hiểu biết, hình dung ra được tình trạng của đời sống pháp luật, đời sống xã hội,
giúp chủ thể dễ dàng nhận thức một cách chính xác các quy định pháp luật hiện hành
đồng thời giúp chủ thẻ có khả năng nhận thức được những công việc phải làm trong
hiện tại cũng như trong tương lai.
Ý thức pháp luật tác động, điều chỉnh hành vi con người thông qua yếu tố tư
tưởng, tâm lý.
Phạm vi điều chỉnh của ý thức pháp luật rất rộng, vì không có hành vi pháp lý
nào của con người lại không cần đến tư duy, nhận thức, kể cả việc xây dựng pháp
luật. Trong thực tế khi gặp những vụ việc cần giải quyết nhưng lại chưa có pháp luật
điều chỉnh thì những chủ thể có liên quan có thể dựa vào ý thức pháp luật để điều
chỉnh hành vi của mình và của người khác sao cho phù hợp với những nguyên tắc và
tinh thần của pháp luật. Đó là một trong những nhân tố giúp chủ thể tự điều chỉnh
hành vi một cách hợp lý và hợp pháp, trở thành nhân tố quan trọng trong việc hợp
thành và quyết định nhân cách, phẩm giá, năng lực, trình độ con người. Với tập thể, ý
thức pháp luật trở thành chất xúc tác mạnh, tạo nên sự gắn bó, đoàn kết để từ đó phát
huy sức mạnh và năng lực sáng tạo tối đa mọi thành viên. Với quốc gia, ý thức pháp
luật cao của nhân dân trở thành một trong những vốn quý, động lực mạnh mẽ thúc
đẩy tiến bộ xã hội, là cơ sở cho việc hình thành, duy trì và phát triển nền pháp chế,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở cửa, hội nhập với cộng đồng quốc tế, bảo vệ và
phát triển đất nước.
Ý thức pháp luật là điều kiện, tiền đề tư tưởng trực tiếp cho việc xây dựng phát
triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật. [29; 18]
Bất kỳ một tổ chức, cá nhân nào tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật
cũng cần phải có trình độ nhận thức pháp luật nhất định. Đời sống pháp luật có phạm
vi rộng, phức tạp và luôn biến động không ngừng, chúng được ý thức con người phản



20

ánh. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh khi ý thức được đầy đủ hiện thực khách quan
của đời sống pháp luật, mức độ hoàn thiện pháp luật cao hay thấp và tính ổn định ít
hay nhiều phụ thuộc vào các hoạt động nhận thức, đánh giá, tổng kết, hệ thống hóa và
sáng tạo pháp luật trong từng thời điểm lịch sử cụ thể. Nó cũng là một trong những
điều kiện giúp cho việc soạn thảo và ban hành pháp luật được tiến hành nhanh chóng
và thuận lợi. Nếu có nhận thức đúng đắn và đầy đủ về tình hình kinh tế - xã hội, xác
định đúng những quan hệ xã hội cơ bản cần có sự điều chỉnh của pháp luật co quy
trình và kỹ thuật lập pháp khoa học phù hợp thì hệ thống pháp luật của đất nước sẽ
đạt mức độ hoàn thiện cao.
Ý thức pháp luật thể hiện sự nhận thức của chủ thể và thái độ của họ đối với các
quy định của pháp luật, từ đó chủ thể xác định động cơ, mục đích, lực chọn phương
án xử sự thực hiện hành vi pháp luật, do vậy ý thức pháp luật càng cao thì tinh thần
tôn trọng và thực hiện pháp luật càng được bảo đảm và chính xác. Khi chủ thể có
những nhận thức pháp luật cần thiết họ sẽ có niềm tin vào pháp luật, vào những hoạt
động hợp pháp của mình thấy được giá trị của việc tôn trọng và thực hiện chính xác
đầy đủ các quy định pháp luật từ đó tự giác thực hiện chính xác, đầy đủ các quy định
pháp luật, vận động những người khác cùng sống, làm việc theo pháp luật, lên án đấu
tranh không khoan nhượng đối với mọi hành vi vi phạm pháp luật.
Ý thức pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong hoạt động áp dụng pháp luật, đối với
người áp dụng pháp luật, cũng như đối với người bị áp dụng pháp luật.
Chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật cũng như chủ thể bị áp dụng pháp
luật, đều cần có ý thức pháp luật để điều chỉnh hành vi của mình và hành vi của các
chủ thể khác phù hợp với mục đích, yêu cầu của pháp luật và có đủ khả năng bảo vệ
lợi ích của mình, lợi ích cho các chủ thể khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Áp
dụng pháp luật là quá trình sử dụng cái chung (quy phạm pháp luật) để giải quyết cái
riêng cái cụ thể. Thực tế cho thấy để giải quyết tốt một vụ việc cụ thể nào đó, đòi hỏi

cơ quan có thẩm quyền hay nhà chức trách phải nhanh chóng thu thập, phân tích
chính xác các tình tiết vụ việc, xác định rõ đặc trưng pháp lý của nó, lựa chọn quy
phạm pháp luật thích ứng để giải quyết vụ việc, làm sáng tỏ nội dung, tư tưởng của


21

quy phạm pháp luật được lựa chọn, ra quyết định áp dụng pháp luật tổ chức thi hành
quyết định đó trên thực tế.
Do vậy, ý thức pháp luật của chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật càng cao
thì hoạt động áp dụng pháp luật của họ càng đúng đắn và hiệu quả. Chủ thể áp dụng
pháp luật nhân danh quyền lực nhà nước tiến hành áp dụng pháp luật có tính chất bắt
buộc với chủ thể bị áp dụng, vì thế hoạt động này không chỉ thể hiện ý chí pháp luật
mà còn đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành, thay đổi thái độ tình cảm pháp luật
của người bị áp dụng pháp luật. Vì vậy, trong bất cứ trường hợp nào, chủ thể áp dụng
pháp luật cũng không được tùy tiện giải thích, áp dụng pháp luật, không được làm trái
pháp luật.
Ý thức pháp luật là một trong những điều kiện quan trọng để có thái độ đúng
đắn đối với pháp luật, với quá trình tích cực, tự giác thực hiện pháp luật, đặc biệt là
đối với đội ngũ cán bộ công chức. Đối với cán bộ công chức tư pháp thì ý thức pháp
luật lại càng phải được chú trọng, bởi một trong những thẩm quyền quan trọng của họ
là có thể ban hành những quyết định làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền
hạn hay nghĩa vụ pháp lí, có thể đưa lại lợi ích hoặc thiệt hại về vật chất tinh thần cho
các tổ chức và cá nhân khác có liên quan. Ngoài ra nó có thể làm phát sinh, ảnh
hưởng đến tư tưởng tình cảm và các hành vi pháp luật của rất nhiều đối tượng khác
trong xã hội. Việc thực hiện các giá trị trong các văn bản pháp luật phụ thuộc rất lớn
vào những người có quyền “cầm cân, nẩy mực” này. Việc vận dụng pháp luật vào
từng trường hợp cá biệt phải thông qua lăng kính ý thức pháp luật và trình độ chuyên
môn cũng như đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành hoạt động tư pháp. Vì vậy,
việc cập nhật kiến thức pháp luật một cách thường xuyên cho cán bộ, công chức là

một trong những yêu cầu bắt buộc và trách nhiệm của mỗi cán bộ công chức để giúp
họ tự tin, thực hiện đúng nghiêm túc nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Ý thức pháp luật còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong trường hợp các quy
phạm pháp luật hiện hành lạc hậu, không thích ứng đầy đủ, chính xác những đòi hỏi
của sự phát triển xã hội hoặc trường hợp giải quyết những vụ việc không có pháp luật
trực tiếp điều chỉnh thì áp dụng pháp luật theo nguyên tắc tương tự. Trong trường hợp


22

đó người trực tiếp giải quyết sẽ căn cứ vào ý thức pháp luật, các nguyên tắc của pháp
luật để giải quyết vụ việc theo những nguyên tắc tốt nhất, phù hợp nhất.
Việc tạo dựng ý thức pháp luật trong nhân dân là một quá trình nâng cao sự hiểu
biết pháp luật của mỗi người dân, khuyến khích thói quen sống và làm việc theo pháp
luật tạo năng lực đánh giá đúng đắn và thực hiện các hành vi trong xã hội. Khi có đủ
tri thức pháp luật cần thiết sẽ hình thành ở chủ thể tình cảm và lòng tin đối với chuẩn
mực của pháp luật, tạo điều kiện cho chủ thể chủ động xác lập và chịu trách nhiệm về
hành vi của mình. Nếu chủ thể nhận thức được sự cần thiết của pháp luật, của quá
trình điều chỉnh pháp luật, tin tưởng vào sự công bằng, lẽ phải thì họ sẽ tự giác thực
hiện những yêu cầu, đòi hỏi của pháp luật một cách nhanh chóng chính xác với một
tình cảm tin tưởng, phấn khởi. Ngược lại chủ thể cũng có thể miễn cưỡng chấp hành
hoặc do sợ hãi mà chấp hành các quy định của pháp luật. Khi đã có kiến thức pháp
luật đầy đủ, tâm lý pháp luật đúng đắn sẽ hình thành ở chủ thể động cơ và hành vi
hợp pháp, sự tuân thủ nghiêm minh. Hành vi của chủ thể vừa là hệ quả, vừa là thước
đo đối với ý thức pháp luật đồng thời nó cũng thể hiện ý thức pháp luật và trình độ
văn hóa pháp luật của chủ thể một cách cụ thể.
Tóm lại, trình độ cao của ý thức pháp luật có liên quan chặt chẽ tới việc hoàn
thiện pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Bởi lẽ, nếu không hoàn thiện pháp luật
thì không thể tạo lập được ý thức pháp luật cao trong nhân dân và cũng không thể
hoạt động thực hiện áp dụng pháp luật được. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật kém thì

khó có thể xây dựng và hoàn thiện được một hệ thống pháp luật khoa học, đồng thời
các chủ thể cũng khó có thể nhận thức, thực hiện và áp dụng pháp luật chính xác, đạt
hiệu quả cao được.
1.2.2. Giáo dục ý thức pháp luật giao thông đường bộ đối với học sinh trung
học phổ thông
1.2.2.1. Vấn đề giáo dục ý thức pháp luật hiện nay
Trong đời sống xã hội, pháp luật giữ một vai trò đặc biệt quan trọng, là phương
tiện không thể thiếu để đảm bảo cho sự tồn tại, phát triển của xã hội hiện nay. Giới trẻ
lại là lực lượng đông đảo trong dân số Việt Nam, là những người khả năng xây dựng


23

đất nước Việt Nam giàu mạnh trong tương lai. Chính vì vậy nếu các em được học tập
và có hiểu biết thì sẽ cống hiến nhiều cho đất nước, nhưng ngược lại nếu không được
giáo dục, đặc biệt là không được giáo dục ý thức pháp luật sẽ dẫn đến hành vi vi
phạm pháp luật, gây tổn thất, mất đi lực lượng lớn những người có thể giúp phát triển
đất nước.
Tuy được sống trong môi trường văn minh hơn, được giáo dục tốt hơn ngày xưa
nhiều nhưng tỉ lệ vi phạm pháp luật của lứa trẻ vẫn rất cao. Hiện tượng thanh thiếu
niên vi phạp pháp luật diễn ra thường xuyên luôn trong tình trạng báo động.
Những hành vi vi phạm pháp luật của giới trẻ dường như diễn ra hàng ngày mà
đôi khi chúng ta coi như đó là chuyện nhỏ và bỏ qua như vượt đèn đỏ, không đội mũ
bảo hiểm, học sinh chưa đến tuổi nhưng đi xe máy, hút thuốc là nơi công cộng, vứt
rác bừa bãi… Vi phạm pháp luật từ những việc nhỏ sẽ dẫn đến những hành vi phạm
tội lớn sau này. Như vậy, tất cả đều đặt ra một vấn đề về việc giáo dục, nâng cao ý
thức pháp luật cho bộ phận quần chúng nhân dân, đặc biệt là giới trẻ. Vậy giáo dục ý
thức pháp luật là gì, và giáo dục như thế nào là một vấn đề quan trọng.
Việc giáo dục, trong đó có giáo dục ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia
đình, xã hội, thế giới tự nhiên hay ý thức pháp luật là điều vô cùng quan trọng, mang

tính chất sống còn đến sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con người từ khi sinh ra
cho đến lúc trưởng thành đều chịu sự tác động của giáo dục, đó chính là giáo dục từ
gia đình, nhà trường và xã hội. Bằng những nhận thức ban đầu do quan sát, tiếp xúc
cùng với sự giáo dục, dần dần ý thức mới hình thành trong con người. Do đó, chúng
ta có thể thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng, hình thành ý thức pháp luật
trong học sinh, là một việc làm vô cùng khó khăn, nó đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu
tư, chuẩn bị thật kỹ càng và thật nghiêm túc ngay từ ban đầu.
Như vậy, “giáo dục ý thức pháp luật” cho học sinh, chính là đào tạo, bồi dưỡng
nâng cao giá trị đạo đức, ý thức chấp hành nội quy, kỷ luật trong nhà trường và được
hình thành trong suốt quá trình học tập để từ đó có những nhận thức đúng đắn về
pháp luật, tôn trọng và tự giác xử sự theo yêu cầu của pháp luật.


24

Giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục nói chung, được hiểu là một
dạng hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính định hướng tác động lên các đối
tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành
vi xử xự phù hợp với pháp luật hiện hành. Với ý nghĩa đó, giáo dục pháp luật hướng
tới những mục tiêu cơ bản như: Trang bị tri thức ở cấp độ khác nhau cho đối tượng
giáo dục, hình thành lòng tin, tình cảm đối với pháp luật, định hướng hành vi cách xử
sự theo tri thức và tình cảm của đối tượng giáo dục với pháp luật. Ngày nay đời sống
của các tầng lớp nhân dân đang được nâng cao, đi cùng với nó là sự nâng lên của
trình độ tri thức, nhận thức nói chung và nhận thức pháp luật nói riêng. Nhân dân
ngày càng quan tâm hơn đến pháp luật, ý thức chấp hành, thực hiện pháp luật có
những tiến bộ rõ rệt.
Tuy nhiên, bên cạnh đó ý thức pháp luật trong nhân dân vẫn còn nhiều hạn chế,
công tác giáo dục ý thức pháp luật chưa có hiệu quả cao. Một bộ phận không nhỏ
nhân dân trình độ nhận thức pháp luật kém, kiến thức pháp luật của nhân dân, đặc
biệt những vùng nông thôn, miền núi còn rất thấp. Rất nhiều người tham gia pháp

luật mà không biết những quy định của pháp luật mặc dù nó rất gần gũi, phổ biến
trong cuộc sống. Hiện nay trên địa bàn cả nước, số lượng phương tiện giao thông
đang tăng nhanh, số người tham gia GTĐB rất nhiều, nhưng điều đáng buồn là rất
nhiều trong số đó không biết Luật GTĐB quy định bao nhiêu tuổi được phép điều
khiển xe máy, khi tham gia giao thông bằng xe máy phải cần những giấy tờ gì.
Điều đáng cảnh báo là số người vi phạm pháp luật ở nước ta ngày càng tăng.
Các hành vi vi phạm pháp luật của nhân dân đa dạng: Hình sự, dân sự, hành chính,…
với các mức độ nặng nhẹ khác nhau, như các vụ tranh chấp đất đai, kiện tụng, buôn
lậu, trốn thuế, giết người… Đặc biệt, hàng ngày, hàng giờ xung quanh chúng ta là các
vụ vi phạm luật giao thông. Hiện nay, ở nước ta một bộ phận thanh thiếu niên trình độ
văn hóa nói chung, trình độ nhận thức pháp luật cũng như ý thức pháp luật rất thấp.
Số vụ vi phạm pháp luật ở tuổi thanh thiếu niên ngày càng tăng và phức tạp hơn…
trởi thành nỗi lo ngại cho gia đình và xã hội. Tất cả những điều đó đã và đang gióng


25

một tiếng chuông cảnh báo về tình trạng vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay.
Những vi phạm đó phải chăng xuất phát rất nhiều vấn đề về ý thức pháp luật.
Những hạn chế về ý thức pháp luật xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết
là do công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân chưa hoàn thiện, chưa
sâu rộng, chưa hiệu quả. Những hành vi vi phạm pháp luật của người dân có thể do
không nhận thức được hành động của mình, có thể nhận thức được nhưng vẫn cố tình
vi phạm vì mục đích cá nhân. Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như những ảnh
hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường, sự tác động của tư tưởng. tâm lý xã hội
tiêu cực, lạc hậu,…
1.2.2.2. Giáo dục ý thức chấp hành Luật giao thông đường bộ đối với học sinh
THPT
Ý thức chấp hành Luật GTĐB của học sinh THPT khi tham gia giao thông là ý
thức của học sinh THPT phải thực hiện các quy định của Luật GTĐB trong thời gian

tham gia GTĐB.
Ý thức chấp hành Luật GTĐB của học sinh THPT khi tham gia giao thông bao
gồm:
- Căn cứ vào tiêu chí chấp hành đúng hay không đúng quy định của Luật
GTĐB; ý thức chấp hành Luật GTĐB của học sinh THPT khi tham gia giao thông
như ý thức chấp hành đúng Luật GTĐB khi tham gia giao thông và hành vi vi phạm
Luật GTĐB khi tham gia giao thông.
- Căn cứ vào việc sử dụng loại phương tiện giao thông thì ý thức chấp hành
Luật GTĐB của học sinh THPT khi tham gia giao thông bao gồm: Những nhận thức
chấp hành quy định của Luật GTĐB đối với hành vi đi bộ trên đường; hành vi điều
khiển xe đạp; hành vi khi ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp hay việc tụ tập đông
người trái phép trên đường bộ; nô đùa trên đường bộ,…
Luật GTĐB không có điều, khoản điều chỉnh riêng hành vi tham gia GTĐB của
học sinh THPT, nhưng khi tham gia GTĐB, học sinh THPT phải chấp hành những
quy định của Luật GTĐB đối với các hành vi trên. Cụ thể là khi tham gia GTĐB, học


×