ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------ ------------
LẠI VIỆT HƯNG
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI VÀ BƯỚC ĐẦU XÁC ĐỊNH
GIÁ TRỊ BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI MỘC
HƯƠNG (ARISTOLOCHIA L.) Ở VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------ ------------
LẠI VIỆT HƯNG
NGHIÊN CỨU PHÂN LOẠI VÀ BƯỚC ĐẦU XÁC
ĐỊNH GIÁ TRỊ BẢO TỒN CÁC LOÀI THUỘC CHI
MỘC HƯƠNG (ARISTOLOCHIA L.) Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Thực vật học
Mã số: 84.201.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. ĐỖ VĂN TRƯỜNG
2. PGS.TS. NGUYỄN TRUNG THÀNH
HÀ NỘI - 2020
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của các
thầy, cô, các nhà khoa học trong lĩnh vực sinh học, thực vật học.
Trước hết tôi xin được trân trọng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đỗ Văn
Trường – Phòng Sinh học, Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam; PGS. TS. Nguyễn Trung
Thành – Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, là những
người thầy hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ và có những hướng dẫn, ý kiến đóng góp
vô cùng quý báu để tôi thực hiện và hoàn thành tốt luận văn của mình.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô Bộ môn Khoa học Thực vật nói
riêng và Khoa Sinh học, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN nói chung;
thầy cô phòng Đào tạo Sau đại học đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn
thiện luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các cán bộ Khoa Tài nguyên Dược liệu - Viện
Dược liệu, Bảo tàng thiên nhiên Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi trong công tác
và nghiên cứu hoàn thành luận văn.
Tôi xin gửi lời cảm ơn của mình tới những người thân trong gia đình đã luôn
động viên tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Tôi xin cảm ơn Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia –
(NAFOSTED-106-NN.03-2016.01) đã hỗ trợ hoàn thiện luận văn này.
Hà Nội, ngày
tháng
năm 2020
Tác giả luận văn
Lại Việt Hưng
I
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN..................................................................................... 3
1.1. Lịch sử nghiên cứu và hệ thống học chi Mộc hương trên thế giới..................3
1.2. Tình hình nghiên cứu chi Mộc hương tại Việt Nam.....................................10
CHƯƠNG II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU............................... 12
2.1. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 12
2.2. Nội dung nghiên cứu.................................................................................... 12
2.3. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................. 12
2.3.1. Phương pháp hình thái so sánh............................................................ 12
2.3.2. Phương pháp đánh giá giá trị bảo tồn.................................................. 14
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 15
3.1. Hệ thống phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam...............15
3.2. Đặc điểm hình thái chi Mộc hương ở Việt Nam........................................... 16
3.2.1. Dạng sống............................................................................................ 16
3.2.2. Hệ rễ..................................................................................................... 16
3.2.3. Thân và vỏ............................................................................................ 17
3.2.4. Lá......................................................................................................... 18
3.2.5. Cụm hoa............................................................................................... 19
3.2.6. Hoa và bao hoa.................................................................................... 20
3.2.7. Bộ nhị - nhụy (gynostemium)................................................................ 24
3.2.8. Quả....................................................................................................... 24
3.2.9. Hạt........................................................................................................ 25
3.3. Khóa phân loại chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam.....................25
3.4. Mô tả các taxon trong chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam...........28
A.
Phân chi Aristolochia................................................................................ 29
A1. Aristolochia pothieri Pierre ex Lecomte. – Mộc hương pothier, Phòng kỉ
pothier (Hình 3.5; Ảnh 19)............................................................................. 29
A2. Aristolochia acuminata Lam. – Mộc hương lá nhọn, Mã đậu linh lá nhọn
(Hình 3.6; Ảnh 01)......................................................................................... 30
A3. Aristolochia impressinervis Liang. – Mộc hương gân dẹt, Mã đậu linh gân
dẹt (Hình 3.7; Ảnh 12).................................................................................... 33
II
A4. Aristolochia tuberosa Liang & Hwang, – Mộc hương củ, Mã đậu linh củ
(Hình 3.8; Ảnh 23) ...........................................................................................
A5. Aristolochia longgangensis Liang. – Mộc hương long châu, Mã đậu linh
long châu (Hình 3.9, Ảnh 14). ..........................................................................
A6. Aristolochia cochinchinensis Do & Luu. – Mộc hương nam bộ, Mã đậu
linh nam bộ, Phòng kỷ nam bộ (Hình 3.10; Ảnh 08). ......................................
A7. Aristolochia binhthuanensis T.V. Do, sp. nov. – Mộc hương bình thuận
(Hình 3.11, Ảnh 05) .........................................................................................
A8. Aristolochia chlamydophylla Wu ex Hwang. – Mộc hương lá mỏng (Hình
3.12; Ảnh 07). ...................................................................................................
A9. Aristolochia cambodiana Pierre ex Lecomte. – Mộc hương cămpuchia,
Mã đậu linh cămpuchia (Hình 3.13; Ảnh 06) ...................................................
B. Phân chi Siphisia. ...................................................................................
B1. Aristolochia utriformis Hwang. – Mộc hương hoa lưỡi liềm, Mã đậu linh
lưỡi liềm (Hình 3.14; Ảnh 24). .........................................................................
B2. Aristolochia quangbinhensis Do. – Mộc hương quảng bình, Phòng kỉ
quảng bình (Hình 3.15; Ảnh 20) ......................................................................
B3. Aristolochia faviogonzalezii Do & Wanke. – Mộc hương favio, Phòng kỉ
favio (Hình 3.16; Ảnh 10). ...............................................................................
B4. Aristolochia tadungensis Do & Luu – Mộc hương tà đùng, Phòng kỉ tà
đùng, Mã đậu linh tà đùng (Hình 3.17; Ảnh 21). .............................................
B5. Aristolochia xuanlienensis Huong N. T. T, Quang B. H. & Ma J. S. – Mộc
hương xuân liên, Phòng kỉ Xuân Liên, Mã đậu linh xuân liên (Hình 3.18; Ảnh
25). .................................................................................................................... 48
B6. Aristolochia balansae Franch. – Mộc hương balansa, Phòng kỉ balansa
(Hình 3.19; Ảnh 03). ........................................................................................
B7. Aristolochia neinhuisii Do. – Mộc hương neinhuis, Phòng kỉ neinhuis,
Mã đậu linh neinhuis (Hình 3.20; Ảnh 16) ......................................................
B8. Aristolochia hainanensis Merr. – Mộc hương hải nam, Phòng kỉ hải nam.
(Hình 3.21; Ảnh 11) .........................................................................................
B9. Aristolochia tonkinensis Do & Wanke. – Mộc hương bắc bộ, Phòng kỉ
bắc bộ (Hình 3.22; Ảnh 22) ..............................................................................
B10. Aristolochia nuichuaensis V.T. Do & H.T. Luu – Mộc hương núi chúa,
Phòng kỉ núi chúa. (Hình 3.23; Ảnh 17) ..........................................................
B11. Aristolochia petelotii Schmidt. – Mộc hương pê tê lốt, Phòng kỉ pê tê lốt
(Hình 3.24; Ảnh 18) .........................................................................................
III
B12. Aristolochia fangchi Wu ex Chow & Hwang. – Mộc hương fang, Phòng
kỉ fang, Mã đậu linh fang (Hình 3.25; Ảnh 09).............................................. 58
B13. Aristolochia annamensis Do, Wanke & Neinhuis. – Mộc hương trung
bộ, Phòng kỷ trung bộ, Mã đậu linh trung bộ (Hình 3.26; Ảnh 02)................60
B14. Aristolochia bidoupensis Do. – Mộc hương bì đúp, Phòng kỉ bì đúp.
(Hình 3.27; Ảnh 04)....................................................................................... 61
B15. Aristolochia muluensis Y. S. Huang & Yan Liu, - Mộc hương mu lu
(Ảnh 15)......................................................................................................... 63
B16. Aristolochia kwangsiensis Chun et How ex Liang. – Mộc hương quảng
tây, Mã đậu linh quảng tây (Hình 3.28; Ảnh 13)............................................ 64
3.5. Hiện trạng phân bố và bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài thuộc chi Mộc
hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam................................................................... 66
3.5.1. Hiện trạng phân bố............................................................................... 66
3.5.2. Hiện trạng quần thể và bước đầu giá trị bảo tồn.................................. 66
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ........................................................................... 69
4.1. Kết luận........................................................................................................ 69
4.2. Kiến nghị...................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................... 70
IV
Bảng 1.1. Thống kê các hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia L.)
Bảng 3.1.
Phân loại các
Bảng 3.2.
Đánh giá mức
V
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1.
Mối quan hệ phát sinh và hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia)
Hình 3.1.
Hình thái gân lá
Hình 3.2.
Cấu trúc bao hoa điển hình và đặc điểm hình thái của chi Aristolochia
Hình 3.3.
Đặc điểm hình thái cơ quan sinh sản chi Aristolochia ở Việt Nam
Hình 3.4.
Dạng quả và hạt của chi Aristolochia ở Việt Nam.
Hình 3.5.
Aristolochia pothieri
Hình 3.6.
Aristolochia acuminata
Hình 3.7.
Aristolochia impressinervis
Hình 3.8.
Aristolochia tuberosa
Hình 3.9.
Aristolochia longgangensis
Hình 3.10.
Aristolochia cochinchinensis
Hình 3.11.
Aristolochia binhthuanensis
Hình 3.12.
Aristolochia chlamydophylla
Hình 3.13.
Aristolochia cambodiana
Hình 3.14.
Aristolochia utriformis
Hình 3.15.
Aristolochia quangbinhensis
Hình 3.16.
Aristolochia faviogonzalezii
Hình 3.17.
Aristolochia tadungensis
Hình 3.18.
Aristolochia xuanlienensis
Hình 3.19.
Aristolochia balansae
Hình 3.20.
Aristolochia neinhuisii
Hình 3.21.
Aristolochia hainanensis
Hình 3.22.
Aristolochia tonkinensis
Hình 3.23.
Aristolochia nuichuaensis
VI
Hình 3.24. Aristolochia petelotii
Hình 3.25. Aristolochia fangchi
Hình 3.26. Aristolochia annamensis
Hình 3.27. Aristolochia bidoupensis
Hình 3.28. Aristolochia kwangsiensis
VII
1
MỞ ĐẦU
Phân loại học thực vật giúp chúng ta không những hiểu biết về sự khác nhau
của thực vật, mà còn cho ta thấy các mối quan hệ giữa chúng với nhau. Do có mối
quan hệ với nhau, nên những taxon có quan hệ họ hàng thường mang nhiều đặc
điểm giống nhau về hình thái, sinh thái, về tổng hợp và tích lũy các hợp chất hữu
cơ... Do vậy, việc nghiên cứu phân loại học thực vật sẽ giúp ích to lớn cho các
ngành khoa học ứng dụng khác như: nông nghiệp, lâm nghiệp, y dược học, bảo vệ
môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên.
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, với đặc điểm địa hình phong
phú và đa dạng, 3/4 diện tích đất là đồi núi với độ cao biến động mạnh, có nhiều
nguồn tài nguyên thực vật phong phú và đa dạng. Thống kê gần đây cho thấy, khu
hệ thực vật Việt Nam gồm khoảng 10,500 loài thuộc 265 họ thực vật bậc cao. Tuy
nhiên phần lớn các họ thực vật chưa được nghiên cứu đầy đủ. Hằng năm, nhiều loài
thực vật ở Việt Nam vẫn đang được phát hiện và mô tả mới cho khoa học thế giới.
Chi Mộc hương (Aristolochia L.) – họ Mộc hương (Aristolochiaceae) gồm
khoảng 600 loài, phân bố rộng khắp vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới [16], [34]. Nhóm
này là nguồn thức ăn quan trọng cho sâu non của nhiều loài bướm Phượng họ
Papilionidae (Simonsen et al., 2000) [30], và cũng là nhóm chính trong nghiên cứu
đồng tiến hóa của sinh giới, đặc biệt mối tương quan giữa bướm-thực vật
(Condamine et al., 2012)[12].
Trên thế giới chi nay được nghiên cứu phân loại ở nhiều quốc gia và vùng lãnh
thổ như Bắc và Trung Mỹ, Địa Trung Hải, bán đảo Madagascar, khu vực Malesiaca,
Nhật Bản, Ấn Độ... Nghiên cứu phân loại chi này cũng được nghiên cứu khá đầy đủ
ở một số nước láng giềng của Việt Nam như: Trung Quốc, Thái Lan.
Ở Việt Nam, chi này tuy không lớn, nhưng các taxon lại có giá trị trong nghiên
cứu khoa học, cũng như trong thực tiễn, đặc biệt trong lĩnh vực bảo tồn và y học. Trước
đây, chi Mộc hương ở Việt Nam cũng đã được đề cập đến trong các công trình nghiên
cứu chung về hệ thống học và phân loại họ Mộc hương ở trong và ngoài nước, với
khoảng 11-13 loài đã được ghi nhận, không có loài mới nào được mô tả từ Việt
Nam. Trong giai đoạn 2014 đến 2017, nhiều loài Mộc hương mới được phát hiện và
mô tả ở Việt Nam, đưa tổng số loài của chi này tại Việt Nam lên 23 loài. Tuy nhiên,
nhưng nghiên cứu đó hoặc đã từ lâu, hoặc danh pháp và vị trí các taxon đã thay đổi,
1
hoặc mới chỉ nghiên cứu mô tả các taxon mới cho khoa học, chưa có một công trình
nào nghiên cứu hệ thống học và phân loại đầy đủ toàn bộ chi Mộc hương ở Việt
Nam. Để góp phần vào việc nghiên cứu phân loại thực vật Việt Nam, tiến tới phục
vụ biên soạn bộ sách “Thực vật chí Việt Nam”, đồng thời để nâng cao sự hiểu biết
về các taxon, cũng như góp phần phục vụ công tác nghiên cứu ứng dụng, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu phân loại và bước đầu xác định giá trị
bảo tồn các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam”.
Kết quả của đề tài nhằm mục tiêu: Hoàn thành việc phân loại chi Mộc hương
ở Việt Nam một cách đầy đủ và có hệ thống, làm cơ sở để biên soạn thực vật chí về
họ Mộc hương ở Việt Nam
Ngoài ra, những kết quả trong đề tài này cũng mang ý nghĩa khoa học và thực
tiễn trong xây dựng tài liệu cơ bản về chi Mộc hương tại Việt Nam
* Ý nghĩa khoa học: Kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần bổ sung và hoàn
chỉnh vốn tài liệu về phân loại chi Mộc hương (Aristolochia) nói riêng và họ Mộc
hương (Aristolochiaceae) nói chung. Đây là tài liệu cơ bản về phân loại chi Mộc
hương, phục vụ cho các nghiên cứu sâu hơn.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở khoa học phục vụ
thiết thực cho nghiên cứu Bảo tồn, Y - Dược, Tài nguyên thực vật, Đa dạng sinh
học, Bảo vệ môi trường.
2
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử nghiên cứu và hệ thống học chi Mộc hương (Aristlochia L.) trên
thế giới
Chi Mộc hương (Aristolochia) là chi lớn nhất của họ Mộc hương
(Aristolochiaceae), thuộc bộ Hồ tiêu (Piperales) (Wagner et al., 2012)[33]. Chi này
được C. Linnaeus (1753) mô tả lần đầu tiên trong tác phẩm "Species Plantarum"
gồm 15 loài[10]. Trong đó, tác giả đi sâu phân tích một số đặc điểm hình thái của lá
và thân trong chi Mộc hương. Trong cuốn “Systema Nature” (1767), tác giả bổ sung
thêm 5 loài so với nghiên cứu đã công bố trước đó, đưa tổng số loài của chi Mộc
hương lên 20 loài.
Duchartre (1854) đã mô tả 29 loài trong chi Mộc hương [23],[24]. Trên cơ sở
đặc điểm hình thái và cấu trúc của bộ nhị - nhụy (gynostemium) tác giả lần đầu đề
xuất hệ thống học chi Mộc hương, bao gồm 2 nhóm (tương đương phân chi): nhóm
gynostemium 3 thùy và nhóm gynostemium 6 thùy. Trong đó, nhóm gynostemium 3
thùy được chia làm 3 section: Asterolytes, Siphisia và Hexondon; 3 nhóm này phân
biệt nhau ở đặc điểm hình thái của ống bao hoa. Nhóm với cấu trúc gynostemium 6
thùy được phân chia thành 2 section: Gymnolobus và Diplolobus dựa vào đặc điểm
hình thái của ống bao hoa và cánh môi.
Trong quá trình nghiên cứu phân loại họ Mộc hương (Aristolochiaceae), F.
Klotzsch (1859) đã xây dựng một hệ thống phân loại mới cho tông Aristolochieae.
Theo đó, tông Aristolochieae gồm 2 phân tông với 05 chi (Aristolochia, Endodeca,
Siphisia, Einomeida và Howardia.). Trong đó, chi Aristolochia gồm 2 phân chi:
Euaristolochia và Podanthemum; chi Siphisia gồm 4 phân chi: Eusiphisia,
Nepenthesia, Pentodon và Bracthycalyx [31].
3
Bảng
Hệ thống
phân loại
Chi
Duchartre
(1854)
Aristolochia
Aristolochia
Klotzsch (1859)
Siphisia
Bentham
Hooker (1880)
Schmidt (1935)
et.
Aristolochia
Aristolochia
5
Ma (1989)
Aristolochia
6
Bentham et Hooker (1880), trên cơ sở đặc điểm hình thái và sự khác nhau giữa
cấu tạo của bao hoa, tác giả đã phân chia họ Aristolochiaceae trong 5 chi: Asarum,
Bragantia, Thottea, Holostylis và Aristolochia. Trong đó chi Aristolochia gồm 4
phân chi: Diplolopus, Polyanthera, Gymnolobus và Siphisia; các phân chi này phân
biệt với nhau bởi cấu tạo bao hoa, ống bao hoa và gynostemium [9].
Schmidt (1935) cho rằng tông Aristolochieae gồm 2 chi: Holostylis
và
Aristolochia; trong đó chi Aristolochia được phân chia trong 3 phân chi: Siphisia,
Orthoaristolochia và Pararistolochia [11].
Nghiên cứu hệ thống học, phân bố và phân loại chi này tại khu vực Đông và
Đông Á, dựa trên cơ sở các hệ thống phân loại của Duchartre (1854, 1864) và Schmidt
(1935), Ma (1989) đã sắp xếp 68 loài Mộc hương ở khu vực Đông và Đông Á trong 3
phân chi: Siphisia, Pararistolochia và Aristolochia. Trong đó phân chi Siphisia gồm
3 nhánh Asterolytes, Siphisia và Hexodon; phân chi Aristolochia gồm 2 nhánh là
Gymnolobus và Diplolobus; phân chi Pararistolochia phân bố duy nhất ở khu vực
Malaysia và châu Đại Dương (Úc). Tác giả cũng chỉ ra khu vực phía Nam Trung
Quốc là trung tâm đa dạng của chi này, tuy nhiên trong tài liệu chỉ có 6 loài được
ghi nhận cho hệ thực vật Việt Nam [11],[23],[24],[25],[26].
Hwang et al. (2003) đã mô tả 45 loài của chi này cho khu hệ thực vật Trung
Quốc, và duy nhất 3 loài được ghi nhận cho Việt Nam [22].
Ngày nay, ứng dụng kĩ thuật sinh học phân tử đã đóng góp đáng kể trong nghiên
cứu hệ thống học thực vật, tiến hóa, mối quan hệ phát sinh chủng loại và đa dạng nguồn
gen. Trong các phương pháp sinh học phân tử khác nhau đã được sử dụng, giải trình tự
DNA (Deoxyribo Nucleic Acid) đã trở thành ứng dụng rộng rãi, bao gồm số lượng lớn
của các trình tự lặp lại trong toàn bộ hệ gen đã được giải mã thông qua các phản ứng
chuỗi trùng hợp hay phản ứng khuếch đại gen PCR (Polymerase Chain Reaction) với
cặp mồi thích hợp (Hillis et al., 1996; Philip et al., 1997). Mức độ biến đổi trình tự
trong vùng gen mã hóa và các vùng đệm - vùng không mã hóa của nhiều gen lục lạp và
gen nhân đã được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu hệ thống học và mối quan hệ
phát sinh chủng loại ở thực vật (Chase et al., 1993; Clegg et al., 1994).
Nghiên cứu mối quan hệ phát sinh chủng loại trong phạm vi họ Mộc hương
(Aristolochiaceae) hoặc giữa các họ trong bộ Hồ tiêu (Piperales) đã được thực hiện
trong suốt hai thập kỉ qua trên cơ sở đặc điểm hình thái hoặc kết hợp giữa đặc điểm
7
hình thái và dữ liệu phân tử. Murata et al. (2001) và Ohi-Toma et al. (2006) đã kiểm
tra mối quan hệ phát sinh loài của chi Mộc hương với hầu hết các đại diện từ khu
vực Đông Á (Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc) và khu vực Bắc-Trung Mỹ, trên
cơ sở trình tự của các gen rbcL, matK và phyA [27],[29]. Tuy nhiên, kết quả nghiên
cứu phần lớn không thể hiện mối quan hệ phát sinh của các loài được nghiên cứu.
Những phân tích về mối quan hệ phát sinh chủng loại của họ Aristolochiaceae hoặc
phân họ Aristolochioideae trên cơ sở đặc điểm hình thái học (González &
Stevenson, 2002) hay dữ liệu phân tử (trnL intron, trnL-trnF spacer) (Neinhuis et
al., 2005) cũng duy nhất bộc lộ đơn phát sinh dòng (monophyly) của một vài chi đã
được ghi nhận trước đó[18],[28]. Kể từ khi gene matK có thể dễ dàng nhân bản
cùng với phần intron liền kề trnK, vùng trnK-matK đã được sử dụng trong nghiên
cứu mối quan hệ phát sinh loài ở chi Aristolochia (Wanke et al., 2006a)[34]. Kết
quả nghiên cứu không chỉ ủng hộ quan điểm trước đó khi phân chia chi Aristolochia
trong 3 phân chi (Aristolochia, Siphisia và Pararistolochia), và cũng thể hiện mối
quan hệ phát sinh loài ở một số nhánh chính (Hình 1.1).
8
Hình 1.1: Mối quan hệ phát sinh và hệ thống học chi Mộc hương (Aristolochia)
(dựa trên nghiên cứu kết hợp đặc điểm hình thái và dữ liệu phân tử
của vùng gen trnK-matK (Wanke et al., 2006))
9
1.2. Tình hình nghiên cứu chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
Chi Mộc hương đã được nghiên cứu khá đầy đủ về mặt hệ thống học và phân
loại học ở các nước vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản,
Ấn Độ, Malesiana và Thái Lan. Tuy nhiên, ở Việt Nam còn thiếu những nghiên cứu
phân loại chi Mộc hương một cách có hệ thống. Franchet (1898) là người đầu tiên
nghiên cứu chi Mộc hương ở Việt Nam và vùng lân cận, tác giả đã mô tả 3 loài mới của
chi này ở khu vực Đông Dương, trong đó duy nhât 1 loài cho khu hệ thực vật Việt Nam
(A. balansae Franch.)[17]. Sau đó, Lecomte (1909; 1910) đã đề cập 8 loài của chi này ở
Việt Nam, Lào và Campuchia, trong đó 5 loài mới được mô tả [19],[20]. Kể từ thời
điểm đó, không có loài mới nào của chi Mộc hương được phát hiện và mô tả ở Việt
Nam. Tuy nhiên một số loài được ghi nhận thêm vùng phân bố cho khu hệ thực vật Việt
Nam bởi các nghiên cứu sau đó của các nhà thực vật bản địa. Đỗ Tất Lợi (1999) đã liệt
kê 2 loài Mộc hương cho hệ thực vật Việt Nam, trong đó loài A. heterophylla đc dùng
như vị thuốc chữa các chứng thủy thũng, phong thũng, cước khí thấp thũng [7]. Phạm
Hoàng Hộ (2000) đã liệt kê và mô tả sơ bộ đặc điểm 11 loài của chi Mộc hương ở Việt
Nam, sau đó Nguyễn Tiến Bân (2003) đã bổ sung thêm 2 loài (A. kwangsiensis Chun &
F. C. How ex Liang and A. saccata Wall.) cho khu hệ thực vật Việt Nam [5],[1]. Võ
Văn Chi (2011) đã thống kê và mô tả ngắn gọn đặc điểm hình thái, sinh thái, và thành
phần hóa học của 10 loài Mộc hương được sử dụng làm thuốc trong nền y học cổ
truyền Việt Nam[3],[4]. Tuy nhiên danh pháp khoa học, đặc điểm phân loại và giới hạn
loài của các loài kể trên là chưa rõ ràng. Đỗ Văn Trường (2015) khi nghiên cứu hệ
thống học và tiến hóa của chi Mộc hương ở Việt Nam và vùng lân cận đã chỉ ra rằng,
chi này ở Việt Nam được phân chia trong 2 phân chi (Aristolochia và Siphisia) gồm
khoảng hơn 25 loài. Tuy nhiên tác giả mới chỉ đề cập đến một số loài Mộc hương mới
được mô tả gần đây (Huong et al., 2014; Do et al., 2014a; 2015a; 2015c; 2015d)) với
phần lớn các loài thuộc phân chi Siphisia [21],[32],[13],[14],[15] . Gần đây, Đỗ Văn
Trường & cs. cũng phát hiện và mô tả thêm một số loài Mộc hương mới cho khoa học
thế giới (Do et al. 2017, 2018), cũng như những ghi nhận mới bổ sung cho khu hệ thực
vật Việt Nam (Do 2016). Thêm vào đó, tác giả cũng xem xét lại danh pháp và phân loại
một số loài Mộc hương đã được ghi nhận trước đó ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng, một số loài của
10
chi Mộc hương như: A. impressinervis, A. longgangensis, A. cambodiana, A. fangchi,
A. acuminata lần lượt bị định loại nhầm với các loài A. pierrei, A. heterophylla
(synonym của A. kaempferi), A. indica, A. westlandii, A. zolligeriana (Do & Nghiem
2017). Do đó, 3 loài: A. heterophylla, A. westlandii và A. zollingeriana (Đỗ Tất Lợi
(1999), Võ Văn Chi & Trần Hợp (2001), Nguyễn Tiến Bân (2003), Võ Văn Chi
(2011)) vẫn chưa được ghi nhận ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cũng chứng minh
rằng loài A. indica không có vùng phân bố tự nhiên ở Việt Nam, loài này có thể
được trồng ở Vườn Bách Thảo Sài Gòn do đó, việc đánh giá ở mức độ Nguy cấp
(EN) trong Sách Đỏ Việt Nam, phần thực vật (2007) là không cần thiết. Với những
phát hiện mới của chi Mộc hương thì việc nghiên cứu phân loại chi Mộc hương ở
Việt Nam là cần thiết để đánh giá đúng tính đa dạng và giới hạn của mỗi loài, làm
cơ sở cho công tác định loại mẫu vật.
Về giá trị sử dụng, theo các nhà thực vật Việt Nam, một số loài của chi Mộc
hương có giá trị làm thuốc. Kết quả nghiên cứu của Viện Dược liệu (2016) ghi nhận
10 loài Mộc hương có giá trị làm thuốc. Tuy nhiên, một số loài trong danh sách này
cần được định loại và nghiên cứu lại [6].
Như vậy, Ở Việt Nam bước đầu đã có một số công trình nghiên cứu về chi
Mộc hương, tuy nhiên những nghiên cứu đó hoặc mô tả ngắn gọn, thiếu thông tin
phân loại (Phạm Hoàng Hộ, 2000) hoặc mới chỉ liệt kê thành phần loài (Nguyễn
Tiến Bân, 2003) hoặc mới chỉ tập trung vào mô tả một số taxon mới cho khoa học
thể giới (Huong et al., 2014; Do et al., 2014a; 2015a; 2015c; 2015d). Vì vậy, còn
thiếu những nghiên cứu phân loại một cách hệ thống của chi này ở Việt Nam. Hơn
nữa, những phát hiện loài mới của chi Mộc hương gần đây không chỉ làm tăng số
lượng loài ở Việt Nam, nhưng cũng khẳng định tính đa dạng và tiềm năng cho phát
hiện các loài Mộc hương mới cho khoa học.
11
CHƯƠNG II. NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này bao gồm:
a) Các loài thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
b) Các mẫu tiêu bản thuộc chi Mộc hương (Aristolochia L.) ở Việt Nam
đang được lưu giữ tại các phòng tiêu bản trong và ngoài nước.
c). Các mẫu tiêu bản của chi Mộc hương (Aristolochia L.) được thu thập
trong các đợt điều tra và khảo sát ngoài thực địa.
2.2. Nội dung nghiên cứu
- Lựa chọn hệ thống phân loại thích hợp cho việc sắp xếp các taxon của chi
Mộc hương (Aristolochia L.), họ Mộc hương (Aristolochiaceae) ở Việt Nam.
- Phân tích đặc điểm hình thái của chi Mộc hương qua các đại diện ở Việt
Nam, bao gồm các đặc điểm: dạng sống; hình thái lá; cụm hoa và hoa; quả và hạt.
- Xây dựng khóa định loại các taxon (phân chi và loài) trong chi Mộc hương
(Aristolochia L.) ở Việt Nam.
- Mô tả chi tiết đặc điểm hình thái các taxon trong chi Mộc hương
(Aristolochia L.) ở Việt Nam.
- Bước đầu xác định giá trị bảo tồn các loài thuộc chi Mộc hương
(Aristolochia L.) ở Việt Nam.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp hình thái so sánh
Để nghiên cứu phân loại chi Mộc hương ở Việt Nam, chúng tôi dùng phương
pháp hình thái so sánh. Đây là phương pháp kinh điển và phổ biến nhất trong nghiên
cứu phân loại thực vật từ trước đến nay, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu do
trang thiết bị không phức tạp, dễ sử dụng, và về mặt khoa học vẫn cho những kết
quả đáng tin cậy. Phương pháp này dựa vào đặc điểm hình thái của cơ quan sinh
dưỡng và cơ quan sinh sản để nghiên cứu. Trong đó, chủ yếu dựa vào đặc điểm của
cơ quan sinh sản vì nó ít biến đổi và ít phụ thuộc vào điều kiện của môi trường bên
ngoài. Dựa vào phương pháp hình thái so sánh, nhiều tác giả đã xây dựng thành
công các hệ thống phân loại cũng như các hệ thống phát sinh của thực vật.
12