Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tiểu luận cơ cấu thu ngân sách nhà nước ở việt nam ngoc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.23 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC......................3
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung thu NSNN.........................3
1.2. Những nguyên tắc tổ chức thu NSNN....................................5
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN.................................7
Phần 2: THỰC TIỄN THU NSNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY............................8
2.1. Bảng cân đối NSNN năm 2016..............................................8
2.1.3. Phân tích đánh giá thu NSNN 2016..................................11
2.2. Thực tiễn thu NSNN ở Việt Nam những năm qua................13
Phần 3: KHUYẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NSNN.....................29
KẾT LUẬN.............................................................................................................34
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................35

1


MỞ ĐẦU
Cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, hệ thống chính sách thuế Việt
Nam đã được cải cách, đổi mới trên nhiều phương diện. Việt Nam đã hình thành
được một hệ thống chính sách thuế thống nhất, phù hợp với đặc điểm của một quốc
gia đang trong quá trình chuyển đổi, góp phần quan trọng trong việc động viên
nguồn lực cho ngân sách cũng như thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước.
Tuy nhiên, diễn biến cán cân tài khóa gần đây đang cho thấy một số rủi ro, thách
thức cần sớm được nhận diện để có sự điều chỉnh chính sách cho phù hợp, nhất là
khi nhìn từ giác độ yêu cầu bền vững về thu ngân sách nhà nước (NSNN). Quy mô
thu NSNN đang có xu hướng giảm trong khi áp lực về tăng thu NSNN vẫn còn rất
lớn. Hệ lụy là bội chi ngân sách cao, kéo dài và sự gia tăng về gánh nặng nợ công.
Cùng với việc phải cơ cấu lại thu NSNN, Việt Nam cần phải nhanh chóng xây dựng
một lộ trình mới về cải cách hệ thống chính sách thuế, phát huy cho được vai trò
của các sắc thuế hiện hành, đồng thời, đảm bảo tính hợp lý hơn trong cơ cấu để


đảm bảo tính bền vững thu NSNN.
Để tìm hiểu việc thu NSNN có mang lại hiệu quả và đạt được mục đích đã đề
ra của Chính phủ hay không, chúng ta cần nắm vững lý luận chung về cơ cấu thu
NSNN và phân tích, đánh giá tình hình thực trạng thu NSNN ở nước ta hiện nay để
từ đó đưa ra các khuyến nghị khắc phục yếu kém, sai lầm.
Xuất phát từ những nhận thức trên, em đã lựa chọn tiểu luận “Cơ cấu thu
ngân sách nhà nước: Lí thuyết, thực tiễn ở Việt Nam và khuyến nghị”.
Do kiến thức còn thiếu, trình độ còn hạn chế nên trong bài viết của em còn
nhiều thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý kiến của thầy, cô giáo để bài tiểu
luận của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!

2


Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nội dung thu NSNN
1.1.1. Khái niệm
Thu Ngân sách nhà nước phản ánh các quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá
trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị để thực hiện phân phối các nguồn tài chính
dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà nước. Như vậy, thu
Ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay nhà
nước để hình thành quỹ Ngân sách nhà nước đáp ứng cho các yêu cầu chi tiêu xác
định của nhà nước.
Nét nổi bật của việc thu Ngân sách nhà nước là: trong bất cứ xã hội nào, cơ
cấu các khoản thu Ngân sách nhà nước đều gắn liền với chức năng, nhiệm vụ và
quyền lực chính trị của Nhà nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước là
điều kiện xuất hiện các khoản thu Ngân sách nhà nước. Ngược lại, các khoản thu
Ngân sách nhà nước là tiền đề vật chất không thể thiếu để thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước.
1.1.2. Đặc điểm

- Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị
và thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước
đều được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước;
- Một đặc trưng khác của thu Ngân sách nhà nước là luôn luôn gắn chặt với
các quá trình kinh tế và các phạm trù gía trị. Kết quả của quá trình hoạt động kinh
tế và hình thức, phạm vi, mức độ vận động của các phạm trù giá trị là tiền đề quan
trọng xuất hiện hệ thống thu Ngân sách nhà nước. Nhưng chính hệ thống thu Ngân
sách nhà nước lại là nhân tố quan trọng có ảnh hưởng to lớn đến kết quả của quá
trình kinh tế cũng như sự vận động của các phạm trù giá trị.

3


- Thu ngân sách nhà nước trước hết và chủ yếu gắn liền với các hoạt động
kinh tế trong xã hội. Mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ tăng trưởng GDP hàng năm là
tiền đề đồng thời là yếu tố khách quan hình thành các khoản thu Ngân sách nhà
nước và quyết định mức độ động viên các khoản thu của Ngân sách nhà nước. Thu
ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế; biểu hiển
ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v...
- Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không
trực tiếp là chủ yếu.
- Thu ngân sách theo hai phương thức: tự nguyện và bắt buộc
1.1.3. Nội dung
1.1.3.1. Thu thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật quy định đối với
các pháp nhân và thể nhân nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thuế phản
ánh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội,thể hiện các mối quan hệ tài
chính giữa nhà nước với các pháp nhân và thể nhân trong phân phối các nguồn tài
chính và là công cụ cơ bản thực hiện phân phối tài chính.
1.1.3.2. Phí và lệ phí

Phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, nhưng mang tính đối giá,
nghĩa là phí và lệ phí thực chất là khoản tiền mà mọi công dân trả cho nhà nước khi
họ hưởng thụ các dịch vụ do nhà nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí
và lệ phí thấp hơn nhiều. Phí gắn liền với vấn đề thu hồi một phần hay toàn bộ chi
phí đầu tư đối với hàng hóa dịch vụ công cộng hữu hình. Lệ phí gắn liền với việc
thụ hưởng những lợi ích do việc cung cấp các dịch vụ hành chính, pháp lý cho các
thể nhân và pháp nhân.
1.1.3.3. Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Các khoản thu này bao gồm:

4


- Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc
sở hữu nhà nước;
- Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của nhà nước;
- Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
1.1.3.4. Thu từ hoạt động sự nghiệp
Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự nghiệp
có thu của nhà nước.
1.1.3.5. Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước
Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất
phân phối lại, vừa có tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử
dụng tài sản quốc gia vừa tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu
từ bán hoặc cho thuê tài sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở
hữu nhà nước.
1.1.3.6. Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản
Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà
nước và được pháp luật quy định...
1.2. Những nguyên tắc tổ chức thu NSNN

Thu NSNN có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội
của quốc gia. Việc bố trí các khoản thu NSNN một cách tùy tiện, thiếu sự phân tích
hoàn cảnh cụ thể sẽ có một ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Do vậy, việc tổ chức các khoản thu NSNN phải đươc tổ chức theo
những nguyên tắc nhất định đó là:
1.2.1. Các nguyên tắc định hướng (Gồm 2 nguyên tắc)
- Nguyên tắc thu thuế theo lợi ích;
- Nguyên tắc thu theo khả năng.
1.2.2. Các nguyên tắc thực hiện thực tế (Gồm 5 nguyên tắc)
- Nguyên tắc ổn định và lâu dài;
5


- Nguyên tắc đảm bảo sự công bằng;
- Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn;
- Nguyên tắc đơn giản.
- Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế
Ngoài ra theo quy định của Nhà nước, nguyên tắc quản lý thu ngân sách nhà
nước được quy định tại Điều 3 Thông tư 328/2016/TT-BTC hướng dẫn thu và quản
lý các khoản thu ngân sách nhà nước qua Kho bạc Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài
chính ban hành, cụ thể như sau:
- Việc tổ chức thu NSNN được thực hiện theo quy định của Luật NSNN,
Luật Quản lý thuế và quy định khác của pháp luật về thu NSNN. Mọi cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân, kể cả các tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh
thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ chấp hành nộp đầy đủ,
đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào NSNN qua tài
khoản của KBNN tại NHTM hoặc nộp trực tiếp vào KBNN theo đúng quy định
hiện hành của pháp luật; trường hợp không nộp hoặc chậm nộp mà không được
pháp luật cho phép thì bị xử lý theo quy định hiện hành của pháp luật.
- Về nguyên tắc, các khoản thu NSNN phải được nộp qua ngân hàng hoặc

nộp trực tiếp tại KBNN. Trường hợp ở những địa bàn có khó khăn trong việc nộp
qua ngân hàng hoặc nộp trực tiếp tại KBNN hoặc không tổ chức thu tiền tại địa
điểm làm thủ tục hải quan, thì cơ quan thu được trực tiếp thu hoặc ủy nhiệm cho tổ
chức thu tiền mặt từ người nộp NSNN và sau đó, phải nộp đầy đủ, đúng thời hạn
vào KBNN theo quy định tại Thông tư này; trường hợp cơ quan Thuế ủy nhiệm thu
tiền mặt đối với số thuế phải nộp của các hộ khoán, thì thực hiện theo quy định của
Bộ Tài chính và hướng dẫn của Tổng cục Thuế. Các khoản viện trợ không hoàn lại
bằng tiền (trừ các khoản viện trợ nước ngoài trực tiếp cho các dự án) phải chuyển
tiền nộp kịp thời vào thu NSNN.

6


- Tất cả các khoản thu NSNN được hạch toán bằng đồng Việt Nam, chi tiết
theo niên độ ngân sách, mục lục NSNN và được phân chia cho các cấp ngân sách
theo tỷ lệ phần trăm (%) do cấp có thẩm quyền quy định. Các khoản thu NSNN
bằng ngoại tệ được quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá hạch toán ngoại tệ tại thời
điểm hạch toán.
- Việc hoàn trả các khoản thu NSNN được thực hiện theo quy định tại Điều
10 Thông tư này. Quy trình thu, thủ tục thu, nộp, miễn, giảm, hoàn trả các khoản
thu NSNN phải được thông báo và niêm yết công khai tại cơ quan thu và KBNN
nơi giao dịch trực tiếp với người nộp NSNN.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN
- Thu nhập GDP bình quân đầu người.
- Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế: đây là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
đầu tư phát triển kinh tế, tỷ suất này càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn, do đó
thu NNN phụ thuộc vào mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước.
- Khả năng xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ và khoáng sản): đây là
yếu tố làm tăng thu NSNN, ảnh hưởng đến việc nâng cao tỉ suất thu NSNN.
- Mức độ trang trải các khoản chi phí của Nhà nước.

- Tổ chức bộ máy thu nộp: Nhân tố nhà ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả thu
- Các nhân tố khác…

7


Phần 2: THỰC TIỄN THU NSNN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bảng cân đối NSNN năm 2016
ĐÁNH GIÁ CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC NĂM 2016
Đơn vị: tỷ đồng
STT

A
1

NỘI DUNG

DỰ TOÁN

Tổng thu cân đối NSNN
Thu nội địa
T.đó: Thu tiền sử dụng đất
Thu nội địa trừ thu tiền sử dụng đất

2

Thu từ dầu thô

3


Thu từ xuất, nhập khẩu

4

Thu viện trợ không hoàn lại
Thu chuyển nguồn NSĐP năm 2015 sang năm

B
C

2016
Tổng chi cân đối NSNN

KẾT QUẢ
THỰC HIỆN

1,014,500

1,101,377

785,000

879,360

50,000

98,753

735,000


780,607

54,500

40,186

172,000

173,312

3,000

8,519

4,700

4,700

1,273,200

1,360,077

Trong đó:
1

Chi đầu tư phát triển

254,950

268,181


2

Chi trả nợ và viện trợ

155,100

155,100

3

Chi thường xuyên

823,995

836,764

4

Chi cải cách tiền lương, tinh giản biên chế

13,055

13,055

5

Dự phòng

26,000


D

Bội chi NSNN
Tỷ lệ bội chi so GDP

2.1.1. Thu NSNN năm 2016
8

254,000

254,000

4.95%

4.95%


ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN THU NSNN THEO LĨNH VỰC NĂM 2016
Đơn vị: tỷ đồng
STT

NỘI DUNG

DỰ TOÁN

Tổng thu cân đối NSNN

KẾT QUẢ
THỰC HIỆN


1,014,500

1,101,377

I

Thu nội địa

785,000

879,360

1

Thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước

256,308

257,321

2

Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn ĐTNN

159,010

163,535

3


Thu từ khu vực công thương nghiệp - NQD

143,488

157,034

4

Thuế sử dụng đất nông nghiệp

31

60

5

Thuế thu nhập cá nhân

63,594

65,239

6

Lệ phí trước bạ

22,805

27,311


7

Thuế bảo vệ môi trường

38,472

43,632

8

Các loại phí, lệ phí

15,798

17,211

9

Các khoản thu về nhà, đất

62,664

122,603

1,398

1,419

Thu tiền thuê đất, thuê mặt nước


10,859

20,297

Thu tiền sử dụng đất

50,000

98,753

407

2,134

21,521

23,696

Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp

Thu bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước
10

Thu khác ngân sách

11
II
III


Thu từ quỹ đất công ích, hoa lợi công sản tại xã
Thu từ dầu thô
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu

1,308
54,500
172,000

1,718
40,186
173,312

Tổng số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu

270,000

271,312

Thuế XK, NK, TTĐB, BVMT hàng NK

91,000

96,247

179,000

175,065

1


Thuế GTGT hàng nhập khẩu (tổng số thu)
2
IV

Hoàn thuế giá trị gia tăng
Thu viện trợ

-98,000
3,000

2.1.2. Chi NSNN năm 2016
9

-98,000
8,519


ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN CHI NSNN NĂM 2016
Đơn vị: tỷ đồng
STT

NỘI DUNG

DỰ TOÁN

Tổng chi cân đối NSNN

KẾT QUẢ
THỰC HIỆN


1,273,200

1,360,077

Trong đó:
I

Chi đầu tư phát triển

254,950

268,181

1

Chi đầu tư xây dựng cơ bản

252,333

265,023

2

Chi đầu tư phát triển khác

2,617

3,158

II


Chi trả nợ và viện trợ

155,100

155,100

1

Chi trả nợ

153,950

153,950

2

Chi viện trợ

1,150

1,150

Chi thường xuyên
Trong đó:

823,995

836,764


1

Chi giáo dục - đào tạo, dạy nghề

195,604

195,635

2

Chi y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình

75,607

76,217

3

Chi khoa học công nghệ

10,471

10,471

4

Chi văn hóa thông tin

6,270


6,330

5

Chi phát thanh, truyền hình, thông tấn

3,755

3,805

6

Chi thể dục thể thao

2,820

2,840

7

Chi lương hưu và bảo đảm xã hội

120,125

122,905

8

Chi sự nghiệp kinh tế


72,779

78,615

9

Chi sự nghiệp bảo vệ môi trường

12,290

12,930

10

Chi quản lý hành chính

117,984

118,169

IV

Chi cải cách tiền lương, tinh giản biên chế

13,055

13,055

V


Dự phòng

26,000

III

10


2.1.3. Phân tích đánh giá thu NSNN 2016
Bên cạnh việc tổ chức chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các luật thuế và nhiệm
vụ thu NSNN năm 2016, trong năm 2016 đã triển khai nhiều giải pháp nhằm tiếp
tục ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện phát triển sản xuất - kinh doanh, thúc đẩy
tăng trưởng. Chính phủ đã tiếp tục rà soát để ban hành và trình cấp có thẩm
quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các chính sách về tài chính, thuế phù hợp
với tình hình thực tế và thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế, như: trình Quốc
hội thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi và Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và
Luật quản lý thuế...; đồng thời Chính phủ đã chỉ đạo triển khai quyết liệt cải
cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, nâng cao chất lượng công tác quản
lý thu. Cụ thể:
- Triển khai Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28 tháng 4 năm 2016 của
Chính phủ, và Nghị quyết số 35/NQ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2016, trong đó tập
trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính,
nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư,
khuyến khích doanh nghiệp phát triển sản xuất - kinh doanh, góp phần tăng nguồn
thu cho ngân sách.
- Thực hiện tốt công tác quản lý thu thuế, trong đó tập trung đẩy mạnh công
tác tuyên truyền, tư vấn pháp luật và hỗ trợ người nộp thuế; đẩy mạnh chống buôn
lậu, gian lận thương mại, trốn thuế; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, đôn

đốc, quyết liệt xử lý nợ đọng thuế, thu đầy đủ, kịp thời các khoản thu theo kết luận
của cơ quan Thanh tra, Kiểm toán nhà nước;,...
Thực hiện nhiệm vụ thu NSNN
Dự toán thu NSNN Quốc hội quyết định là 1.014,5 nghìn tỷ đồng; kết quả
thực hiện đạt 1.101,38 nghìn tỷ đồng, vượt 8,6% so với dự toán. Trong đó:
a) Thu nội địa
11


Dự toán thu là 785 nghìn tỷ đồng; kết quả thực hiện đạt 879,36 nghìn tỷ
đồng, vượt 12,0% so dự toán. Trong đó: Thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài vượt 2,8%; khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh vượt
9,4%; thu từ nhà, đất vượt 97,5%; lệ phí trước bạ vượt 19,8% so dự toán.
b) Thu từ dầu thô
Dự toán thu là 54,5 nghìn tỷ đồng, trên cơ sở sản lượng là 14,02 triệu tấn và
giá bán 60 USD/thùng. Thực hiện thu từ dầu thô năm 2016 đạt 40,18 nghìn tỷ
đồng, giảm 26,3% so dự toán; trên cơ sở tính giá dầu thanh toán bình quân đạt 43,6
USD/thùng, giảm 16,4 USD/thùng so giá xây dựng dự toán; sản lượng dầu thanh
toán đạt 15,4 triệu tấn, tăng 1,38 triệu tấn so với kế hoạch.
c) Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu
Dự toán thu 172 nghìn tỷ đồng, trên cơ sở dự toán tổng số thu từ hoạt động
xuất nhập khẩu (XNK) là 270 nghìn tỷ đồng, hoàn thuế giá trị gia tăng (GTGT)
theo chế độ là 98 nghìn tỷ đồng.
Đánh giá cả năm, thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 173,3 nghìn
tỷ đồng, tăng 0,8% so dự toán; trên cơ sở: tổng số thu từ hoạt động XNK đạt 271,3
nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so dự toán; hoàn thuế GTGT 98 nghìn tỷ đồng, bằng
100% dự toán.
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt được kết quả nêu trên nhờ hoạt
động xuất nhập khẩu tăng trưởng cao hơn dự báo (kim ngạch xuất khẩu tăng 9,0%,
kim ngạch nhập khẩu tăng 5,2%, kim ngạch xuất nhập khẩu chịu thuế tăng 8,8% so

năm 2015), kết hợp với triển khai quyết liệt các giải pháp quản lý thu, góp phần
tăng thu cho NNN từ lĩnh vực này so với dự toán.
d) Thu viện trợ: Dự toán thu 3 nghìn tỷ đồng; thực hiện cả năm đạt 8,5 nghìn
tỷ đồng, tăng 184,0% so dự toán do tăng số viện trợ ghi thu - ghi chi cho các dự án.
Tóm lại, với các giải pháp phấn đấu quyết liệt, kết quả thu NSNN năm 2016
vượt 8,6% so dự toán; trong đó, theo phân cấp hiện hành, không kể số vượt thu
12


viện trợ ghi thu - ghi chi cho các dự án, thu NSTW giảm khoảng 396 tỷ đồng so dự
toán; thu NSĐP vượt khoảng 82,39 nghìn tỷ đồng so dự toán, không kể thu tiền sử
dụng đất thì vượt 41,3 nghìn tỷ đồng so dự toán.
2.2. Thực tiễn thu NSNN ở Việt Nam những năm qua
2.2.1. Quy mô và cơ cấu thu NSNN
Chính sách tài khóa có vai trò quan trọng trong ổn định và tăng trưởng kinh
tế, tuy nhiên, luôn tồn tại những mâu thuẫn giữa nhu cầu chi tiêu và nguồn lực ngân
sách. Trong khi khả năng thu ngân sách nhà nước (NSNN) luôn bị ràng buộc bởi
nhiều yếu tố khác nhau và rất khó để tăng lên thì việc đảm bảo cân đối NSNN ngày
càng trở thành thách thức lớn với Chính phủ Việt Nam.
Trong giai đoạn vừa qua áp lực về chi dẫn tới áp lực tăng thu để đảm bảo
tính ổn định của NSNN. Tốc độ tăng chi cân đối NSNN trung bình giai đoạn 20072016 là 17,4% và chi thường xuyên là 18,3%, tốc độ tăng thu cân đối NSNN trung
bình là 15%.
Mặc dù, thu thường xuyên có tốc độ tăng khá cao là trung bình 14,5% nhưng
vẫn thấp hơn so với chi thường xuyên. Điều này đe dọa tính bền vững của NSNN
về dài hạn.
So sánh thu NSNN và GDP giai đoạn 2006-2016 cho thấy, quy mô danh
nghĩa GDP tăng 4,78 lần nhưng quy mô thu NSNN chỉ tăng 3,94 lần, thu từ các
khoản ngoài thuế tăng chậm hơn so với thu thuế.
Những cố gắng của Chính phủ nhằm giảm quy mô tương đối của ngân sách
Việt Nam có thể thấy rõ trong vài năm gần đây. Chi tiêu ngân sách từ mức trên 30%

GDP trong nhiều năm đã hạ xuống khoảng 27-28% trong giai đoạn 2012 - 2014,
song lại tăng nhẹ vào 2015 trước khi giảm xuống vào năm 2016 (theo ước tính sơ
bộ).

13


Việc cắt giảm này một phần là do áp lực của việc giảm quy mô thu NSNN so
với GDP trong vài năm gần đây nhằm có một quy mô NSNN/GDP ở mức hợp lý
hơn. Số liệu bảng 1 cho thấy mặc dù quy mô thu NSNN/GDP của Việt Nam đã
giảm đi rõ rệt trong vòng 5 năm qua, song vẫn cao hơn tương đối so với các quốc
gia đang phát triển có thu nhập thấp.
Có nhiều ý kiến lo ngại về việc thực thi các cam kết theo các Hiệp định
Thương mại tự do (FTA) sẽ làm giảm mạnh nguồn thu NSNN. Ví dụ với ô tô, theo
Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN thì từ năm 2006, các loại xe ô tô chở
người từ 10 chỗ trở lên và xe tải đều đã phải cắt giảm thuế nhập khẩu xuống mức
5%. Riêng đối với các loại xe chở người 9 chỗ trở xuống vào năm 2018 sẽ phải cắt
giảm xuống 0%. Tuy nhiên, thực tế thu NSNN từ hoạt động ngoại thương có thể
giảm, song không quá lớn vì các cam kết đều chỉ yêu cầu giảm thuế suất thuế nhập
khẩu còn các thuế khác đánh trên hàng nhập khẩu như thuế tiêu thụ đặc biệt
(TTĐB) hay thuế giá trị gia tăng (GTGT) trên hàng nhập khẩu thì lại không bị ảnh
hưởng bởi các hiệp định này.
14


Vì vậy, lượng nhập khẩu tăng lên có thể sẽ bù đắp một phần cho việc giảm
thuế suất. Có thể thấy điều này qua số liệu về tỷ lệ của thu từ hoạt động xuất nhập
khẩu trong NSNN.

Áp lực giảm thu ngân sách trong giai đoạn tới chủ yếu sẽ đến từ việc chính

sách liên quan đến thu ngân sách hiện nay là chưa tạo ra nguồn thu bền vững. Xét
cả giai đoạn dài từ 1996-2016, số liệu tính toán cho thấy, mặc dù số thu từ thuế liên
tục tăng lên ở giai đoạn 2011-2016 song tỷ lệ huy động từ thuế giai đoạn này cũng
chỉ là 76,1% tổng thu NSNN, tương đương với tỷ lệ của giai đoạn đoạn 1996-2000.
Số thu từ các nguồn tài nguyên không thể tái tạo như đất đai và dầu thô vẫn chiếm
20% thu cân đối NSNN trong giai đoạn 2009-2013 và khoảng 18% năm 2014. Giá
dầu cao có thể giúp cho NSNN thu vượt dự toán như năm 2012 (đạt 166% dự toán),
song cũng sẽ làm cho NSNN gặp khó khăn như hiện nay (năm 2015 ước chỉ đạt
65% dự toán thu từ dầu thô).

15


Trong thu nội địa có một nhóm các khoản thu giữ vai trò rất quan trọng là
thu từ đất đai, chiếm tỷ lệ trung bình 9,6% số thu NSNN giai đoạn 2006-2011 và
vẫn chiếm 6,3% năm 2014 và khoảng hơn 7% năm 2015. Tuy nhiên, chiếm tỷ lệ
cao nhất trong nhóm này lại là một khoản thu có tính chất một lần là thu từ giao
quyền sử dụng đất (chiếm trung bình 7,6%) trong khi thuế từ nhà đất chỉ chiếm
0,2% tổng thu NSNN.
Cũng cần lưu ý là giai đoạn từ 2005-2015, thu NSNN từ đất đai luôn vượt dự
toán rất nhiều, năm 2007 và năm 2010 còn đạt gấp hơn 2 lần dự toán và là một
trong những lý do giúp thu NSNN vượt dự toán.
Thu NSNN vẫn còn trông chờ nhiều vào các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo. Dù thu NSNN Việt Nam không phụ thuộc quá lớn vào xuất khẩu tài nguyên,
16


song nhiều tỉnh tập trung một nguồn lực lớn cho phát triển dựa vào đất đai, khoáng
sản là điều đáng quan ngại.
Việc nguồn thu thiếu bền vững dẫn tới rủi ro vi phạm một trong những

nguyên tắc căn bản về cân đối ngân sách là thu thường xuyên phải lớn hơn chi
thường xuyên và góp phần tích lũy ngày càng cao cho chi đầu tư phát triển.
Quy mô thu ngân sách giảm đi sẽ dẫn đến việc Chính phủ không có đủ nguồn ngân
sách để tài trợ cho các hoạt động dịch vụ công. Điều này buộc các địa phương và
một số cơ quan quản lý nhà nước phải tự tìm nguồn tài chính để bù đắp.

Chính sách thuế giai đoạn vừa qua cho thấy, có nhiều nguồn thu có xu hướng
giảm (về tương đối) mà chưa có nguồn thu thay thế. Khi so sánh tốc độ tăng thu
ngân sách hàng năm giai đoạn 2007-2016 cho thấy, có 2 loại thuế GTGT và TTĐB
(với hàng tiêu dùng nội địa) là có tốc độ tăng trung bình hàng năm bằng với tốc độ
tăng tổng thu NSNN.
17


Một số loại thuế có tốc độ tăng trung bình cao hơn mức tăng trung bình tổng
thu NSNN như thuế thu nhập cá nhân (TNCN), thuế bảo vệ môi trường. Ngược lại,
số thu từ các loại thuế như xuất nhập khẩu, thu nhập doanh nghiệp (TNDN), thuế
tài nguyên, thuế sử dụng đất nông nghiệp có mức tăng trung bình thấp hơn.
Sự thay đổi thuế suất thuế TNDN là lý do quan trọng dẫn tới sự sụt giảm tốc
độ tăng thu từ thuế này trong khi tốc độ tăng thu thuế tài nguyên giảm một phần do
giá tài nguyên giảm và phần khác do sản lượng khai thác cũng giảm đi.
Quy mô thu ngân sách giảm cũng dẫn đến việc Chính phủ buộc phải thực
hiện xã hội hóa nhiều dịch vụ công. Tuy nhiên, mô hình được kỳ vọng nhiều nhất
trong việc giải quyết tình trạng thiếu hụt ngân sách cho đầu tư là hợp tác công tư
(PPP) cũng có nhiều mặt trái. Vì vậy, yêu cầu tìm nguồn thu thay thế để đảm bảo
tính bền vững của ngân sách là rất quan trọng.
2.2.2. Xu hướng cải thiện nguồn thu thuế ở Việt Nam
Trong vài năm gần đây, xu hướng cải cách các khoản thu bắt buộc diễn ra
mạnh mẽ ở nhiều nước nhất là các quốc gia phát triển (OECD, 2016). Một số xu
hướng chính gồm:

Thứ nhất, các khoản thu liên quan đến sử dụng lao động như bảo hiểm xã
hội, thuế lao động được cắt giảm ở nhiều quốc gia, nhất là các quốc gia phát triển
như: Bỉ, Hungari, Mỹ. Tuy nhiên, ở một vài nước, các khoản thu này lại tăng lên
như Israel, Thụy Điển.
Thứ hai, nhiều nước giảm nhẹ các khoản thu từ thuế TNDN và tăng các
khoản thu từ thuế tiêu dùng và thuế môi trường. Giữa năm 2000 và 2015, đóng góp
của thuế GTGT tăng lên ở hầu hết các nước châu Á như: Indonesia, Malaysia,
Singapore.

18


Xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay là tăng cường vai trò
của thuế GTGT, đồng thời từng bước giảm dần thuế suất thuế thu nhập để tăng tính
hấp dẫn của môi trường đầu tư. Trong 3 năm gần đây (2009-2011) đã có 13/27
quốc gia trong Liên minh châu Âu (EU) điều chỉnh tăng mức thuế suất phổ thông
thuế GTGT của mình.
Trong khu vực châu Á, chính sách thuế GTGT cũng đang được nhiều nước
xem xét sửa đổi. Tháng 7/2012, Hạ viện Nhật Bản đã thông qua lộ trình điều chỉnh
tăng thuế suất thuế GTGT từ 5% hiện hành lên 8% vào tháng 4/2014 và sau đó lên
10% vào tháng 10/2015. Thái Lan đang xem xét kế hoạch điều chỉnh tăng mức thuế
suất thuế GTGT từ 7% lên 10%.
Thứ ba, các khoản thu từ thuế xuất nhập khẩu giảm ở hầu hết các quốc gia do
quá trình tự do hóa thương mại dẫn đến việc cắt giảm thuế quan ở hầu hết các quốc
gia (UNESCAP, 2014).
Cơ cấu thu thuế của Việt Nam cũng có một số điểm chung với xu hướng trên
khi mà số thu từ xuất khẩu và từ thuế TNDN cũng giảm đi một cách tương đối.
19



Ngoài ra, số thu từ đất đai, dầu thô cũng không ổn định và có rủi ro giảm mạnh
trong những năm tới. So sánh cho thấy, tỷ trọng thu NSNN từ thuế GTGT, thuế
TNDN và thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam trong tổng thu NSNN đã ở mức cao.
Tuy nhiên, có một số loại thuế mà tỷ lệ trong tổng thu NSNN vẫn thấp hơn mức
trung bình các nước đang phát triển châu Á. Những sắc thuế mà Việt Nam có thể kỳ
vọng tăng thu trong tương lai là thuế TNCN, thuế TTĐB, thuế tài nguyên và thuế
với bất động sản:
- Với thuế tài nguyên, việc điều chỉnh tăng thuế sẽ vừa tăng thu NSNN và
vừa góp phần hạn chế khai thác cạn kiệt tài nguyên. Tuy nhiên, việc tăng thuế cần
hướng tới mục tiêu khuyến khích tinh chế tài nguyên và xem xét đến sức chịu đựng
của DN.
- Thu thuế từ đất đai (không tính lệ phí trước bạ và thuế thu nhập) hiện chỉ
chiếm khoảng 0,17% tổng thu NSNN của Việt Nam so với mức trung bình trên 1%
ở các nước đang phát triển trong khi đây là nguồn thu rất quan trọng cho ngân sách
địa phương.
- Thuế TNCN cũng là nguồn thu thuế mà Việt Nam có thể kỳ vọng để thay
thế cho các khoản thu bị sụt giảm. Những cố gắng của Bộ Tài chính về cải cách
quản lý thuế đã góp phần tích cực cho việc tăng số thu thuế từ thuế TNCN năm
2015 lên gần 10%.
Tuy nhiên, tỷ lệ thu từ thuế TNCN trong thu ngân sách bình quân giai đoạn
2010-2013 mới chỉ bằng khoảng ½ các quốc gia khác. Vì vậy, đây là khoản thu
NSNN có thể góp phần cải thiện thiếu hụt nguồn thu NSNN trong giai đoạn tới.

20


Song, trước khi có thể hy vọng nguồn thu này tăng lên thì cần phải có cơ chế
để kiểm soát được các nguồn thu nhập và nhất là nâng cao thu nhập của người dân
nhờ vào tăng trưởng kinh tế cao và ổn định.
- Thuế TTĐB cũng là loại thuế còn có dư địa để có thể xem xét điều chỉnh để

tăng nguồn thu. Vì vậy, những điều chỉnh về thuế TTĐB cho giai đoạn tới cần được
xem xét.
Bên cạnh đó, hiện mức đóng góp của Giá trị gia tăng so với GDP của Việt
Nam 2016 là 5,8 % GDP nên sẽ không dễ dàng tăng nguồn thu. Vì vậy, dù sẽ cần
điều chỉnh một số chính sách thuế để đảm bảo tính bền vững của ngân sách về dài
hạn, song những điều chỉnh về chính sách thuế cần xem xét mức thuế suất phù hợp
với khả năng chịu thuế cũng như những tác động tiêu cực của tăng thuế. Nguyên
tắc chung là nên mở rộng đối tượng chịu thuế hơn là tăng gánh nặng thuế suất.
Trong những năm tới, nguồn thu NSNN vẫn có những rủi ro lớn. Những rủi ro này
đến từ việc giảm nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu, sự sụt giảm nguồn thu từ dầu
21


khí, đất đai cũng như thuế TNDN. Vì vậy, chính sách tài khóa đứng trước những áp
lực lớn phải cải cách để duy trì quy mô thu NSNN ở mức hợp lý.
Những phân tích trong bài viết cho thấy, đã đến lúc Việt Nam cần có sự đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện nhằm hướng tới việc xây dựng một hệ thống thu ngân sách
bền vững, hiệu quả. Dù hiện nay quy mô nợ công của Việt Nam vẫn trong ngưỡng
an toàn, song với việc duy trì thâm hụt ngân sách nhiều năm ở mức xấp xỉ 5% GDP
trong khi hiệu quả chi tiêu công chưa được cải thiện thì nguy cơ mất ổn định tài
khóa không chỉ là cảnh báo.
Về nguyên tắc, mọi kế hoạch chi tiêu công phải được xây dựng trên cơ sở về
nguồn lực từ thu ngân sách. Do vậy, ngay cả khi Luật Đầu tư công và Luật NSNN
đã được thông qua với nhiều kỳ vọng tích cực, song nếu không có những cải cách
mạnh mẽ trong chính sách thu NSNN thì Việt Nam sẽ vẫn tiếp tục phải đối mặt với
những khó khăn lớn trong tương lai
2.3. Những vấn đề đặt ra
Trong gần 30 năm qua, cùng với quá trình phát triển của nền kinh tế, hệ
thống chính sách thuế Việt Nam đã liên tục được cải cách, đổi mới. Nội hàm của
từng chính sách thuế trong hệ thống thuế đã được hoàn thiện theo hướng mở rộng

đối tượng chịu thuế, thu gọn số lượng, từng bước giảm dần mức thuế suất và đơn
giản phương thức tính thuế, phù hợp với xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Đồng
thời, mọi hình thức phân biệt về thuế theo thành phần kinh tế đã được xóa bỏ. Việt
Nam được đánh giá là một trong số các nước đang phát triển đạt kết quả cải cách
thuế thành công, nhất là từ phương diện huy động nguồn lực cho NSNN. Cơ cấu
thu ngân sách cũng đã có sự dịch chuyển theo hướng bền vững hơn.
Thu NSNN ở Việt Nam thời gian qua đã đạt được một số kết quả tích cực
như sau:
(1) Quy mô thu NSNN có sự thay đổi qua từng giai đoạn, sau một thời gian
dài liên tục mở rộng, thì từ năm 2011 đến nay đã bắt đầu xu hướng giảm. Tỷ lệ
22


động viên NSNN bình quân đã tăng từ 24,2% GDP giai đoạn 2001 - 2005 lên
26,3% GDP giai đoạn 2006 - 2010. Tuy nhiên, trong 5 năm gần đây, quy mô thu
NSNN của Việt Nam đang giảm dần, bình quân giai đoạn 2011 - 2015 ước chỉ đạt
22,7% GDP. Sự giảm dần về quy mô thu NSNN những năm gần đây do nhiều
nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân chủ yếu là: (i) Tăng trưởng kinh tế thấp
hơn dự báo; (ii) Chủ trương giảm mức động viên để thúc đẩy sản xuất trong bối
cảnh tăng trưởng kinh tế khó khăn; (iii) Sự sụt giảm số thu từ dầu thô do giá dầu
giảm; (iv) Tỷ trọng thu từ thuế nhập khẩu giảm do cắt giảm hàng rào thuế quan và
(v) Nguồn thu từ đất đai tăng chậm.
Hình 1. Diễn biến quy mô thu NSNN
Đơn vị: % GDP danh nghĩa

Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính
(2) Cơ cấu thu NSNN đã dịch chuyển theo hướng bền vững hơn với sự tăng
dần về tỷ trọng của các loại thuế ổn định, gắn với sản xuất, tiêu dùng trong nước
như thuế TNDN, TNCN, GTGT và TTĐB. Tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu
NSNN (trừ dầu) đã tăng từ 50,8% năm 2001 lên 64,4% năm 2010 và đến năm 2015

ước bằng khoảng 74,1%. Tốc độ tăng thu từ thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT
và thuế TTĐB cơ bản luôn cao hơn so với tốc độ tăng của tổng thu NSNN từ thuế,
23


phí, lệ phí. Cụ thể, so với năm 2001, quy mô thu NSNN năm 2015 từ thuế TNDN
(không kể dầu thô) ước tăng 10,1 lần, từ thuế TNCN tăng 27,03 lần, từ thuế GTGT
(từ hàng trong nước) tăng13,23 lần và thuế TTĐB (hàng trong nước) tăng 10,01
lần, trong khi tốc độ tăng thu NSNN từ thuế, phí và lệ phí ước chỉ ở mức 8,74 lần.
Hình 2. Sự thay đổi về cơ cấu thu NSNN năm 2015 so 2001
(năm 2001 = 1 lần)

Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính
(3) Trong hệ thống thuế Việt Nam hiện nay, các sắc thuế tiêu dùng đóng vai
trò rất quan trọng và có xu hướng ngày càng tăng. Diễn biến này cũng phù hợp với
xu hướng trên thế giới những năm gần đây khi nhiều quốc gia đã liên tục đưa ra các
biện pháp nhằm tăng cường vai trò của thuế tiêu dùng, giảm dần mức động viên từ
thuế thu nhập để tăng cường tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Riêng tỷ trọng
tổng thu từ thuế GTGT (bao gồm cả hàng trong nước và hàng nhập khẩu, trừ phần
hoàn thuế) trong tổng thu NSNN đã tăng từ 18,6% năm 2001 lên khoảng 28,6%
năm 2015. Trong khi đó, tỷ lệ động viên từ thuế TNDN và thuế TNCN tuy có tăng
từ mức 16,4% năm 2001 ước lên 22,3% năm 2015 nhưng từ năm 2011 đến nay thay
đổi rất ít (năm 2011, tỷ lệ này đã là 21,7%). Vai trò của thuế thu nhập trong thu
NSNN của Việt Nam dự báo sẽ tiếp tục giảm khi mức thuế suất thuế TNDN phổ
thông giảm theo lộ trình từ 22% xuống 20% từ ngày 01/01/2016.
24


Hình 3. Tỷ trọng thuế tiêu dùng và thuế thu nhập trong cơ cấu thu NSNN
(% tổng thu NSNN)


Nguồn: Tính toán từ số liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính
(4) Sự phụ thuộc vào các khoản thu từ dầu thô và từ đất đã có xu hướng giảm
đáng kể, đặc biệt là trong 5 năm gần đây. Tỷ trọng thu NSNN từ dầu thô trong tổng
thu NSNN sau khi tăng từ 25,3% năm 2001 lên 29,2% năm 2005 (bình quân giai
đoạn 2001 - 2005 là 25,2%) đã giảm dần, bình quân giai đoạn 2006 - 2010 khoảng
20% và giai đoạn 2011 - 2015 ước còn khoảng 13,5%, riêng năm 2015 ước chỉ còn
khoảng 6,6% tổng thu NSNN5. Việc giảm dần tỷ trọng thu NSNN từ dầu thô những
năm gần đây xuất phát từ các nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Giá dầu thô giảm mạnh;
(ii) Một phần dầu thô khai thác đã được sử dụng cho ngành hóa dầu trong nước và
(iii) Các nguồn thu khác từ thuế, phí, lệ phí đã có sự mở rộng đáng kể.
Thu từ giao quyền sử dụng đất và bán nhà thuộc sở hữu nhà nước sau một số
năm tăng nhanh đã xuất hiện xu hướng giảm. Tỷ trọng của hai khoản này trong
tổng thu NSNN sau khi tăng từ 2,72% năm 2001 lên 9,5% năm 2007 đã có xu
hướng giảm dần từ năm 2008 và đến năm 2014 chỉ còn khoảng 5,21%. Tuy nhiên,
nhờ sự phục hồi của thị trường nhà đất cũng như chính sách khai thác quỹ đất của
25


×