Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Phân tích tài chính nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanhtại tổng công ty xây dựng công trình giao thông 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.15 KB, 76 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong nền kinh tế mở cửa hiện nay để đứng vững trên thị trường là một
điều hết sức khó khăn, nhất là từ khi Việt Nam gia nhập WTO, điều đó đặt
doanh nghiệp vào một tình thế vô cùng khó khăn, đòi hỏi doanh nghiệp phải
luôn luôn đổi mới và hoàn thiện mình. Để vừa đáp ứng được những yêu cầu
trên, vừa tạo uy tín cạnh tranh với các đối thủ, doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển phải xác định các tiềm lực của bản thân đơn vị. Vì vậy, hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp là một vấn đề được chú trọng đặc biệt, để làm
sao sử dụng có hiệu quả các nguồn lực hiện có của công ty sao cho phù hợp
nhất, tránh tình trạng lãng phí, thất thoát. Để làm được việc này, việc cần thiết
trước tiên là phải nắm bắt được những thông tin chính trị, xã hội, nhất là thông
tin kinh tế để kịp thời có những thay đổi cho phù hợp với nền kinh tế mới.
Tổng công ty Xây dựng Công trình Giao thông 4 với những nỗ lực và thông
tin nắm bắt được đã dần tạo được nguồn vốn, nguồn lao động, tăng tích tũy để
mở rộng sản xuất kinh doanh. Công việc sản xuất kinh doanh của Tổng công
ty đang trên đà phát triển. Tuy nhiên, để có thể đứng vững được trên thị trường
trong nước đồng thời phát triển ra toàn cầu thì Tổng công ty cần phải phấn đấu
hơn nữa và nỗ lực hết mình. Nhận thức rõ vai trò và vị trí quan trọng của vấn
đề trên, trong thời gian tìm hiểu, thực tập tại Tổng công ty xây dựng công
trình giao thông 4 (CIENCO 4) một doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh
doanh trên lĩnh vực xây dựng em đã lựa chọn đề tài “Phân tích tài chính
nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanhtại Tổng công ty Xây dựng Công trình
Giao thông 4”.
2. Mục đích của đề tài
Mục đích của đề tài: Nghiên cứu thực trạng hiệu quả sản xuất kinh
doanh hay hiệu quả sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp bao gồm nhận
1



dạng được điểm mạnh, điểm yếu, khó khăn, thuận lợi và phát hiện những yếu
kém trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh. Đồng thời tìm hiểu các
nguyên nhân đứng sau thực trạng đó để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm
khắc phục và cải thiện những yếu kém đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài : Đối tượng là diễn biến tình
hình hoạt động, kết quả và các yếu tố đến hoạt động sản xuất kinh doanh tại
Tổng công ty Xây dựng Công trình giao thông 4. Phạm vi nghiên cứu, thuộc
Tổng công ty Xây dựng Công trình giao thông 4, số liệu phân tích từ năm
2012 đến năm 2014 và định hướng phát triển trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Thu thập các tài liệu như tủ sách chuyên
ngành, internet, thư viện…Thống kê các số liệu thứ cấp từ phòng kế toán
(2012-2014) để phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
tại Tổng công ty Xây dựng Công trình giao thông 4.
5. Kết cấu của đề tài
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính và hiệu quả kinh doanh
của doanh ngiệp
Chương 2: Thực trạng hiệu quả kinh doanh tại Tổng công ty Xây dựng
Công trình giao thông 4 (Cienco4)
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của Tổng công ty Xây dựng Công trình Giao thông 4

2


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH VÀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH CỦA DOANH NGHỆP
1 c

1.1.PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm phân tích TCDN
Phân tích trong lĩnh vực tự nhiên được hiểu là sự chia nhỏ sự vật hiện
tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện
tượng đó như phân tích các chất hóa học bằng những phản ứng, phân tích các
vi sinh vật bằng kính hiển vi. Còn trong lĩnh vực kinh tế xã hội, các hiện tượng
cần phân tích chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng. Do đó, việc phân
tích phải bằng những phương pháp trừu tượng.
Phân tích kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và
các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó, bằng
phương pháp liên hệ, so sánh, đối chiếu và tổng hợp nhằm tổng hợp lại và rút
ra tính quy luật và xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu. Phân
tích kinh doanh gắn liền với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con
người. Khi nền kinh tế càng phát triển, những đòi hỏi về quản lý nền kinh tế
quốc dân không ngừng tăng lên. Để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh doanh ngày
càng cao và phức tạp, phân tích kinh doanh được hình thành và ngày càng
hoàn thiện với hệ thống lý luận độc lập. Quá trình đó hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu khách quan của sự phát triển các bộ môn khoa học. Cũng là một môn
khoa học độc lập, phân tích kinh doanh có đối tượng nghiên cứu riêng. Nói
chung, lĩnh vực nghiên cứu của phân tích kinh doanh không ngoài các hoạt
động doanh như là một hiện tượng kinh tế, xã hội đặc biệt. Để phân chia tổng
hợp và đánh giá các hiện tượng của hoạt động kinh doanh, đối tượng nghiên
cứu của phân tích kinh doanh là những kết quả kinh doanh cụ thể, được thể
hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế, với sự tác động của các tác nhân kinh tế.

3


Kết quả kinh doanh thuộc đối tượng phân tích có thể là kết quả riêng
biệt của từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh như mua

hàng, bán hàng, sản xuất ra hàng hóa hoặc có thể là kết quả tổng hợp của cả
quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đó là kết quả tài chính cuối
cùng của doanh nghiệp.
Từ các khái niệm trên, ta rút ra được khái niệm của phân tích TCDN:
Phân tích tài chính doanh nghiệp là một tập hợp các khái niệm, phương pháp
và công cụ cho phép thu thập, xử lý các thông tin kế toán và các thông tin
khác trong quản lý doanh nghiệp nhằm đánh giá tình hình tài chính, khả năng
và tiềm lực của doanh nghiệp, giúp cho người sử dụng thông tin đưa ra các
quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
1.1.2. Sự cần thiết của phân tích TCDN
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp hay cụ thể hoá là việc
phân tích các báo cáo tài chính của doanh nghiệp là quá trình kiểm tra, đối
chiếu, so sánh các số liệu, tài liệu về tình hình tài chính hiện hành và trong quá
khứ nhằm mục đích đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những
rủi ro trong tương lai. Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về
tình hình tài sản, vốn và công nợ cũng như tình hình tài chính, kết quả kinh
doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối việc quản
trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những
người bên ngoài doanh nghiệp. Do đó, phân tích báo cáo tài chính là mối quan
tâm của nhiều nhóm người khác nhau như nhà quản lý doanh nghiệp, các nhà
đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, các khách hàng, các nhà cho vay tín dụng, các
cơ quan chính phủ, người lao động... Mỗi nhóm người này có những nhu cầu
thông tin khác nhau.
Phân tích tài chính có vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý
tài chính doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác
nhau đều bình đẳng trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực

4



kinh doanh. Do vậy sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của
doanh nghiệp như : chủ doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng...
kể cả các cơ quan Nhà nước và người làm công, mỗi đối tượng quan tâm đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau.
1.1.3. Nội dung phân tích TCDN
Nội dung phân tích TCDN gồm 2 yêu tố chính sau đây:
a)

Phân tích khái quát hoạt động TCDN
Là đi phân tích chung tài sản và nguồn vốn của bản thân doanh nghiệp,
chủ yếu là thông qua bảng cân đối kế toán hằng kỳ của đơn vị. Nhằm đánh giá
tổng quát cơ sở vật chất kỹ thuật, tiềm lực kinh tế của doanh nghiệp ở quá
khứ, hiện tại và khả năng trong tương lai. Đồng thời, đánh giá khả năng đáp
ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, nếu tổng vốn tăng, tài sản của doanh
nghiệp được mở rộng và có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và

b)

ngược lại
Phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu
Chỉ tiêu tài chính là một phạm trù kinh tế có nội dung tương đối ổn
định, thể hiện kết quả, hiệu quả kinh doanh, cấu trúc tài chính của một doanh
nghiệp tại một thời điểm hay một thời kỳ. Hệ thống chỉ tiêu tài chính là một
bảng tổng hợp các chỉ tiêu tài chính nhằm phản ánh tình hình tài chính của
doanh nghiệp phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu.
Để thông tin phân tích tài chính có độ tin cậy cao, cần xem xét một số
quan điểm sau:
Quan điểm toàn diện và hệ thống. Các chỉ tiêu tài chính thường có mối
liên hệ ràng buộc chặt chẽ,do vậy trong công tác phân tích tài chính phải

nghiên cứu, xem xét đầy đủ các mặt trong mối quan hệ tác động hữu cơ của
các chỉ tiêu. Quan điểm toàn diện khi phân tích tài chính còn thể hiện, đánh
giá từng mặt hoạt động của chỉ tiêu, đồng thời kết hợp phân tích tổng hợp đi
đôi với phân tích trọng điểm, cụ thể.
Quan điểm phân tích động, xuất phát từ sự phát triển của các hoạt động
kinh doanh là một tất yếu khách quan. Do vậy khi phân tích tài chính phải đặt
5


hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong sự phát triển tất yếu của quá
trình đó. Khi phân tích tuỳ theo yêu cầu của các nhà quản lý, mà tiến hành
phân tích các số liệu kinh tế gắn với môi trường hoạt động. Để đưa ra bản chất
đúng đắn của hoạt động tài chính, cần nghiên cứu trong mối quan hệ hữu cơ
của quá trình kinh doanh, gắn với về sự phát triển của xã hội.
Quan điểm cụ thể, thực tế, khi tiến hành phân tích phải nắm vững tình
hình, cụ thể của hoạt động sản xuất kinh doanh. Phân tích tài chính là chức
năng quản lý trong việc hình thành những giải pháp có cơ sở khoa học nhằm
hoàn thiện hoạt động của các cấp quản lý khác nhau trong nền kinh tế quốc
dân. Các nhà quản trị kinh doanh luôn phải đứng trước các quyết định khác
nhau đối với lợi ích doanh nghiệp. Do vậy phân tích tài chính là một công cụ
trợ giúp, để chọn quyết định đúng đắn nhất. Phân tích tài chính nhằm xác định
tính khoa học, nâng cao chất lượng của các quyết định để đạt được lợi ích cao
nhất. Trong cơ chế thị trường có sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, thì các
quyết định quản trị có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại, phát triển của mỗi
doanh nghiệp, khi đó nâng cao chất lượng của các quyết định quản trị càng có
tầm quan trọng đặc biệt.
Vận dụng các quan điểm phân tích trong quá trình sử dụng hệ thống chỉ
tiêu phân tích có ý nghĩa quan trọng tới chất lượng của thông tin phân tích.
Khi đó ta xem xét thông tin của một chỉ tiêu tài chính trong mối quan hệ hữu
cơ của hoạt động kinh doanh ở các trạng thái vận động của tài sản và nguồn

vốn và như vậy mới thấy được bản chất, tính quy luật của các hiện tượng và
quá trình kinh doanh, khi đó giá trị của các kết luận kiểm toán được nâng cao.

6


1.2.HIỆU QUẢ KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.2.1. Khái niệm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
Trong quá trình tổ chức xây dựng và thực hiện các hoạt động quản trị,
các doanh nghiệp phải luôn kiểm tra, đánh giá tính hiệu quả của chúng. Muốn
kiểm tra đánh giá các hoạt động kinh doanh chung của toàn doanh nghiệp
cũng như từng lĩnh vực, từng bộ phận bên trong doanh nghiệp thì doanh
nghiệp không thể không thực hiện việc tính hiệu quả kinh doanh.
Trước khi có thể hiểu được hiệu quả kinh doanh là gì thì chúng ta nên
tìm hiểu phạm trù hiệu quả kinh tế nói chung là như thế nào? Có rất nhiều
quan điểm chung về hiệu quả kinh tế nhưng có một quan điểm được nhiều nhà
kinh tế trong và ngoài nước quan tâm chú ý và sử dụng phổ biến đó là : hiệu
quả kinh tế của một số hiện tượng (hoặc một qúa trình) kinh tế là một phạm
trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu đã
xác định. Đây là khái niệm tương đối đầy đủ phản ánh được tính hiệu quả kinh
tế của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ quan điểm trên về hiệu quả kinh tế thì có thể đưa ra khái niệm về
hiệu quả kinh tế của các hoạt động sản xuất kinh doanh (hiệu quả sản xuất
kinh doanh) của các doanh nghiệp như sau : hiệu quả sản xuất kinh doanh là
một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (lao động, máy
móc, thiết bị, tiền vốn và các yếu tố khác) nhằm đạt được mục tiêu mà doanh
nghiệp đã đề ra, nó biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu được và những
chi phí bỏ ra để có được kết quả đó, phản ánh chất lượng của hoạt động kinh
tế đó.
1.2.2. Vai trò của hiệu quả kinh doanh

Vai trò của hiệu quả kinh doanh là nâng cao năng suất lao động và tiết
kiệm nguồn năng lực. Đây là hai mặt có quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả
kinh tế. Chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh
tranh nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải

7


khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu
kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát
huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí.
Để hiểu rõ vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh, người ta cũng
cần phân biệt giữa hai khái niệm hiệu quả và kết quả của hoạt động kinh
doanh. Kết quả hoạt động kinh doanh là những gì mà doanh nghiệp đạt được
sau một quá trình kinh doanh nhất định, kết quả cần đạt được bao giờ cũng là
mục tiêu cần thiết của doanh nghiệp. Trong khi đó, khái niệm về hiệu quả kinh
doanh người ta sử dụng cả hai chỉ tiêu kết quả và chi phí để đánh giá hiệu quả
kinh doanh.
Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết
quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là kết quả tối đa với chi phí
nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở
đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí để tạo ra nguồn lực và chi phí sử
dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là
giá trị của việc lựa chon tốt nhất đã bị bỏ qua hay là giá trị của sự hy sinh công
việc kinh doanh khai thác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ
hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để
thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh
doanh lựa chon phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu
quả cao hơn.
1.2.3. Sự cần thiết của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh

Hiệu quả kinh doanh là một trong các công cụ hữu hiệu để các nhà quản
trị thực hiện chức năng của mình. Việc xem xét và tính toán hiệu quả kinh
doanh không chỉ cho biết việc sản xuất đạt ở trình độ nào mà còn cho phép các
nhà quản trị phân tích, tìm ra các nhân tố để đưa ra các biện pháp thích hợp
trên cả hai phương diện tăng kết quả và giảm chi phí kinh doanh nhằm nâng
cao hiệu quả. Với tư cách là một công cụ đánh giá và phân tích kinh tế, phạm
8


trù hiệu quả không chỉ được sử dụng ở góc độ tổng hợp, đánh giá chung trình
độ sử dụng tổng hợp đầu vào trong phạm vi toàn doanh nghiệp mà còn sử
dụng để đánh giá trình độ sử dụng từng yếu tố đầu vào ở phạm vi toàn bộ hoạt
động sản suất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như từng bộ phận cấu thành
của doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là sự biểu hiện của sự
lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp phải tự lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh của mình cho phù hợp với trình độ của doanh
nghiệp. Để đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, doanh nghiệp buộc phải sử
dụng tối ưu nguồn lực sẵn có. Nhưng việc sử dụng nguồn lực sẵn có đó bằng
cách nào để có hiệu quả nhất lại là một bài toán mà nhà quản trị phải lựa chọn
cách giải. Chính vì vậy, ta có thể nói rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
không chỉ là công cụ hữu hiệu để các nhà quản trị thực hiện các chức năng của
mình mà còn là thước đo trình độ của nhà quản trị. Ngoài những năng này,
hiệu quả kinh doanh còn có vai trò quan trọng trong cơ chế thị trường.
Thứ nhất, là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh
nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo
sự tồn tại đó, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển
một cách vững chắc. Do vậy, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi
tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị

trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp, đòi hỏi
nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong
điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá
trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi
hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vây, nâng cao
hiệu quả kinh doanh là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
9


Thứ 2, là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh.
Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu
tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp
nhận sự cạnh tranh. Song khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc
này không còn là sự cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh về mặt chất lượng,
giá cả mà còn phải cạnh tranh nhiều yếu tố khác nữa., mục tiêu của doanh
nghiệp là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho doanh nghiệp mạnh lên
nhưng ngược lại cũng có thể là do doanh nghiệp không tồn tại được trên thị
trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì doanh nghiệp
phải chiến thằng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp cần
phải có hàng hóa, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặt khác, hiệu quả lao
động đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng khối lượng hàng hóa, chất
lượng, mẫu mã không ngừng được cải thiện nâng cao.
Thứ 3, là nhân tố cơ bản tao ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá
trình hoạt động kinh doanh trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong
cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng
cao sức mạnh cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh

1.2.4.1. Các nhân tố khách quan
a)

Môi trường pháp lý
“Môi trường pháp lý bao gồm luật, văn bản dưới luật, quy trình, quy

phạm kỹ thuật sản xuất…Tất cả các quy phạm kỹ thuật sản xuất kinh doanh
đều tác động trực tiếp đến hiệu quả và kết quả hoạt đông SXKD của doanh
nghiệp.” Đó là các quy định của Nhà nước về những thủ tục, vấn đề có liên
quan đến phạm vi hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đòi dỏi mỗi doanh

10


nghiệp khi tham gia vào môi trường kinh doanh cần phải nghiên cứu, tìm hiểu
và chấp hành đúng theo những quy định đó.
Môi trường pháp lý tạo ra môi trường hoạt động, một môi trường pháp
lý lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành thuận lợi các hoạt
động SXKD của mình lại vừa điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo
hướng chú trọng đến các thành viên khác trong xã hội, quan tâm đến các mục
tiêu khác ngoài mục tiêu lợi nhuận. Ngoài ra các chính sách liên quan đến các
hình thức thuế, cách tính, thu thuế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt
động SXKD của một doanh nghiệp.
Môi trường pháp lý tạo ra sự bình đẳng của mọi loại hình kinh doanh,
mọi doanh nghiệp có quyền và nghĩa vụ như nhau trong phạm vi hoạt động
của mình. Trong nền kinh tế thị trường mở cửa hội nhập không thể tránh khỏi
hiện tượng những doanh nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh sẽ thâu tóm sẽ
thâu tóm những doanh nghiệp nhỏ. Nhà nước đứng ra bảo vệ cho những doanh
nghiệp “yếu thế” có thể duy trì hoạt động SXKD của mình và điều chỉnh các
lĩnh vực sản xuất cho phù hợp với cơ chế, đường lối kinh tế chung cho toàn xã

hội.
Tính công bằng và nghiêm minh của luật pháp ở bất kỳ mức độ nào
điều chỉnh có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động SXKD của doanh ngiệp. Nếu
môi trường kinh doanh mà mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật thì hiệu quả
tổng thể sẽ lớn hơn, ngược lại nhiều doanh ngiệp sẽ tiến hành những hoạt
động kinh doanh bất chính, sản xuất hàng giả, trốn lậu thuế, gian lận thương
mại, vi phạm các quy định bảo vệ môi trường tổn hại tới xã hội.
b)

Môi trường chính trị văn hóa
Hình thức thể chế, đường lối chính trị của Đảng và Nhà nước quyết

định các chính sách, đường lối kinh tế chung, từ đó quyết định các lĩnh vực,
loại hình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Môi trường chính trị ổn định sẽ
11


có tác dụng thu hút các hình thức đầu tư nước ngoài liên doanh, liên kết tạo
them được nguồn vốn lớn cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động SXKD của
mình. Ngược lại nếu môi trường chính trị rối ren, thiếu ổn định thì không
những hoạt động hợp tác SXKD với các doanh nghiệp nước ngoài hầu như là
không có mà ngay hoạt động SXKD của doanh nghiệp ở trong nước cũng gặp
nhiều bất ổn.
Môi trường văn hóa – xã hội bao gồm các điều kiện xã hội, phong tục
tập quán, trình độ, lối sống của người dân…Đây là những yếu tố rất gần gũi và
có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động SXKD của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp chỉ có thể duy trì và thu được lợi nhuận khi sản phẩm làm ra
phù hợp với nhu cầu, thị hiếu khách hàng, phù hợp với lối sống của người dân
nơi tiến hành hoạt động sản xuất. Mà những yếu tố này do các yếu tố thuộc
môi trường văn hóa – xã hội quy đinh.

c)

Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là một nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu

quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Tăng trưởng kinh tế quốc dân, chính
sách kinh tế của Chính phủ, tốc độ tăng trưởng, chất lượng của sự tăng trưởng
hằng năm của nền kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, cán cân thương mại…
luôn là các nhân tố tác động trực tiếp đến các quyết định cung cầu và từ đó tác
động trực tiếp hiệu quả hoạt động SXKD của từng doanh nghiệp. Là tiền đề để
nhà nước xây dựng các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tài chính, các
chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, chính sách ưu đãi các hoạt động đầu
tư…ảnh hưởng rất cụ thể đến kế hoạch SXKD và hiệu quả SXKD của từng
doanh nghiệp.
Ngoài ra, tình hình kinh doanh hay sự xuất hiện thêm của các đối thủ
cạnh tranh cũng buộc doanh nghiệp cần quan tâm đến chiến lược kinh doanh
của mình. Một môi trường cạnh tranh lành mạnh sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp

12


cùng phát triển, cùng hướng tới mục tiêu hiệu quả hoạt động SXKD của mình.
Tạo điều kiện để các cơ quan quản lý kinh tế nhà nước làm tốt công tác dự
báo, điều tiết đúng đắn các hoạt động và có các chính sách mang lại hiệu quả
kinh tế cho các doanh nghiệp.
d)

Môi trường thông tin
Trong nền kinh tế thị trường cuộc cách mạng về thông tin đang diễn ra


mạnh mẽ bên cạnh các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Để làm bất kỳ một
khâu nào của quá trình SXKD, cần phải có thông tin, vì thông tin bao trùm lên
các lĩnh vực, thông tin để điều tra khai thác thị trường cho ra một sản phẩm
mới, thông tin về kỹ thuật sản xuất, thông tin về thị trường tiêu thụ sản phẩm,
thông tin về các đối thủ cạnh tranh, thông tin về kinh nghiệm thành công hay
nguyên nhân thất bại của các doanh nghiệp đi trước. Doanh nghiệp muốn hoạt
động SXKD của mình có hiệu quả thì phải có một hệ thống thông tin đầy đủ,
kịp thời, chính xác. Ngày nay, thông tin được coi là đối tượng kinh doanh, nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế thông tin hóa.
Biết khai thác và sử dụng thông tin một cách hợp lý thì việc thành công
trong kinh doanh là rất cao, đem lại thắng lợi trong cạnh tranh, giúp doanh
nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, tận dụng thời cơ hợp lý mang lại
kết quả kinh doanh thắng lợi.
1.2.4.2. Các nhân tố chủ quan
Ngoài các nhân tố vĩ mô với sự ảnh hưởng như đã nói ở trên, hiệu quả
SXKD của doanh nghiệp còn được quyết định bởi các nhân tố bên trong
doanh nghiệp. Đây là các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
a)

Nhân tố quản trị doanh nghiệp và bộ máy tổ chức
Hoạt động SXKD của doanh nghiệp được chỉ đạo bởi bộ máy quản trị

của doanh nghiệp. Tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp từ quyết định mặt
hàng kinh doanh, kế hoạch sản xuất, quy trình sản xuất, huy động nhân sự, kế
13


hoạch, chiến lược tiêu thụ sản phẩm, các kế hoạch mở rộng thị trường, các
công việc kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh các quy định trên, các biện pháp

cạnh tranh, các nghĩa vụ với Nhà nước. Vậy sự thành công hay thất bại trong
SXKD của toàn bộ doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào vai trò điều hành của
bộ máy quản trị.
Bộ máy quản trị hợp lý, xây dựng một kế hoạch SXKD khoa học, phù
hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp, có sự phân công, phân nhiệm cụ
thể giữa các thành viên trong bộ máy quản trị, năng động, nhanh nhạy nắm bắt
thị trường, tiếp cận thị trường bằng những chiến lược hợp lý, kịp thời nắm bắt
thời cơ, yếu tố quan trọng là bộ máy quản trị bao gồm những con người có
tâm huyết với hoạt động của công ty sẽ đảm bảo cho hoạt động SXKD của
doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
Doanh nghiệp là một tổng thể, hoạt động như một xã hội thu nhỏ trong
đó có đầy đủ các yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa và cũng có cơ cấu tổ chức
nhất định. Cơ cấu tổ chức là sự sắp xếp các phòng ban, các chức vụ trong
doanh nghiệp, sự sắp xếp này nếu hợp lý, khoa học, các thế mạnh của từng cá
nhân và từng bộ phận được phát huy tối đa thì hiệu quả công việc là lớn nhất,
khi đó không khí làm việc hiệu quả sẽ bao trùm cả doanh nghiệp. Không phải
doanh nghiệp nào cũng có cơ cấu tổ chức hợp lý và phát huy hiệu quả ngay,
điều này cần đến bộ máy quản trị có trình độ và khả năng kinh doanh, thành
công trong cơ cấu tổ chức là thành công bước đầu trong kế hoạch kinh doanh.
b)

Nhân tố lao động và vốn
Con người điều hành và thực hiện các hoạt động của doanh nghiệp, kết

hợp với các yếu tố sản xuất tạo ra của cải vật chất và dịch vụ cho xã hội. Để
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì vấn đề quan tâm hàng đầu của doanh
nghiệp là vấn đề lao động. Các công tác tuyển dụng được tiến hành nhằm đảm
bảo trình độ và tay nghề của người lao động. Có như vậy thì kế hoạch sản xuất

14



và nâng cao hiệu quả hoạt động SXKD mới thực hiện được CPH. Có thể nói
chất lượng lao động là điều kiện cần để tiến hành hoạt động SXKD và công
tác tổ chức lao động hợp lý, là điều kiện đủ để doanh nghiệp tiến hành hoạt
động SXKD đại hiệu quả cao.
Lực lượng lao động là nhân tố quan trọng liên quan trực tiếp đến năng
suất lao động, trình độ sử dụng các nguồn lực khác như vốn, máy móc thiết bị,
nguyên vật liệu nên tác động trực tiếp đến hiệu quả hoạt động SXKD. Ngày
nay hàm lượng khoa học kỹ thuật kết tinh trong sản phẩm ngày càng lớn, đòi
hỏi người lao động phải có một trình độ nhất định để đáp ứng các nhu cầu đó,
điều này phần nào cũng nói lên tầm quan trọng của nhân tố lao động.
Bên cạnh nhân tố lao động thì vốn cũng là một đầu vào có vai trò quyết
định đến kết quả SXKD của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có khả năng tài
chính không chỉ đảm bảo cho doanh nghiệp duy trì hoạt động SXKD ổn định
mà còn giúp cho doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị tiếp thu công công
nghệ sản xuất hiện đại hơn nhằm giảm chi phí, nâng cao những mặt lợi, khả
năng tài chính còn nâng cao uy tín của doanh nghiệp, nâng cao tính chủ động
khai thác và sử dụng tối ưu đầu vào.
c)

Trình độ cơ sở vật chất và ứng dụng khoa học công nghệ
Doanh nghiệp luôn biết phải tự làm mới mình bằng cách vận động và

đổi mới, du nhập những tiến bộ khoa học kỹ thuật thời đại liên quan đến lĩnh
vực sản xuất của doanh nghiệp mình. Vấn đề này đóng vai trò hết sức quan
trọng với hiệu quả hoạt động SXKD vì nó ảnh hưởng lớn đến vấn đề năng suất
lao động và chất lượng sản phẩm. Sảm phẩm dịch vụ có hàm lượng kỹ thuật
lớn mới có chỗ đứng trong thị trường và được mọi người tin dung so với
những sản phẩm dịch vụ cùng loại khác.

Kiến thức khoa học kỹ thuật phải áp dụng đúng thời điểm, đúng quy
trình để lợi dụng hết lợi thế vốn có của nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ
15


hay tăng năng suất lao động đưa sản phẩm dịch vụ chiếm ưu thế trên thị
trường nâng cao hiệu quả kinh doanh.
d)

Vật tư, nguyên liệu và hệ thống đảm bảo vật tư
Đây cũng là bộ phận đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động

SXKD. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh ngoài yếu tố nền tảng cơ
sở thì nguyên liệu đóng vai trò quyết định, có nó thì hoạt động SXKD mới
được thực hiện.
Kế hoạch SXKD có thắng lợi được hay không phần lớn phụ thuộc vào
nguồn nguyên liệu có được đảm bảo hay không.
1.3.CÁC CHỈ TIÊU TÀI CHÍNH CƠ BẢN ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
KINH DOANH
Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa
vào một hệ thống tiêu chuẩn, các doanh nghiệp phải coi các tiêu chuẩn là mục
tiêu phấn đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là mốc xác định
ranh giới có hay không có hiệu quả. Nếu theo phương pháp so sánh toàn
ngành có thể lấy giá trị bình quân toàn ngành để làm tiêu chuẩn hiệu quả. Nếu
không có số liệu toàn ngành thì so sánh với các chỉ tiêu của năm trước. Cũng
có thể nói rằng, các doanh nghiệp có thể đạt được các chỉ tiêu này thì mới có
thể đạt được các chỉ tiêu về kinh tế. Hệ thống các chỉ tiêu đành giá hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp gồm các chỉ tiêu sau:
1.3.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán
-


Hệ số thanh toán hiện thời:

Hệ số thanh toán hiện thời

=

Hệ số thanh toán hiện thời đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ
ngắn hạn trong vòng 1 năm bằng các tài sản có khả năng chuyển hóa thành
tiền trong vòng 1 năm tới.

16


-

Hệ số thanh toán nhanh :

Hệ số thanh toán nhanh

=

Hệ số này cho biết những chỉ tiêu có tính thanh khoản cao nhất trong tài
sản NH của doanh nghiệp có đáp ứng được nhu cầu ngắn hạn hay không
-

(Hàng tồn kho là khoản mục có tính thanh khoản kém nhất trong TSNH).
Hệ số thanh toán tổng quát :
Hệ thống thanh toán tổng quát
-


=

Hệ số thanh toán tổng nợ dài hạn

Hệ số thanh toán tổng nợ dài hạn =
Hệ số này đánh giá năng lực TSCĐ hình thành từ vốn vay và mức trích
KHCB hằng năm có đủ trả nợ các khoản vay dài hạn đến hạn trả không. Nếu
hệ số này < 1 chứng tỏ giá trị KHCB hằng năm không đủ trích trả nợ các
khoản vay dài hạn đến hạn trả và doanh nghiệp có khả năng không trả nợ đúng
hạn và phải sử dụng các nguồn bổ sung khác để trả nợ.
1.3.2. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
-

Hiệu suất sử dụng vốn:

Hiệu suất sử dụng vốn

=

Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp trong việc
tạo ra doanh thu: một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định:
• Hiệu suất sử dụng vốn cố định:
-

Hiệu suất sử dụng vốn cố định

=


Đây là chỉ tiêu đánh giá được một đồng vốn cố định có thể tạo ra bao
nhiêu đồng doanh thu.

17




Suất hao phí vốn cố định:
Suất hao phí vốn cố định

=

Chỉ tiêu này là đại lượng nghịch đảo của chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn
cố định. Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu cần phải bỏ vào


sản xuất bao nhiêu đồng vốn cố định.
Tỷ lệ doanh lợi trên vốn cố định:
Tỷ lệ doanh lợi trên VCĐ

=

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn cố định, thể hiện một
đồng vốn cố định bỏ vào sản xuất đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng
sinh lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn càng tốt.
- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động


Vòng quay vốn lưu động trong kỳ:

Vòng quay VLĐ trong kỳ

=

Vòng quay vốn lưu động trong kỳ thể hiện trong kỳ lưu động quay được
mấy vòng. Qua đó cho biết một đồng lưu động bỏ vào sản xuất kinh doanh
đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với hiệu quả sử
dụng vốn lưu động.


Tỷ lệ doanh lợi trên vốn lưu động:
Tỷ lệ doanh lợi trên VLĐ

=

Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ vào sản xuất đem lại
bao nhiêu đồng lợi nhuận. Tỷ lệ này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
• Hệ số đảm nhiệm của vốn lưu động
Hệ số đảm nhiệm của VLĐ

=

Chỉ tiêu này cho biết bao nhiêu đồng vốn đảm nhiệm việc sản xuất ra
một đồng doanh thu. Mặt khác, nguồn vốn lưưu động thường xuyên vận động

18


không ngừng và tồn tại ở nhiều dạng khác nhau, có khi là tiền, cũng có khi là
nguyên vật liệu để đảm bảo cho quá trình sản xuất. Đẩy nhanh tốc độ chu

chuyển vốn lưu động, do đó, sẽ góp phần giải quyết nhu vốn cho doanh
nghiệp, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
1.3.3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động
-

Kỳ thu tiền bình quân

Kỳ thu tiền bình quân

=

Trong đó: DT bình quân ngày

=

Hệ số này càng thấp càng tốt. Để đánh giá thường so sánh với chỉ tiêu
chính sách tín dụng của công ty, nếu hệ số này < = số ngày dự kiến trong
chính sách tín dụng của công ty là tốt. Nếu hệ số này > ngày dự kiến trong
chính sách tín dụng của công ty có thể do công ty không tích cực thu hồi các
khoản phải thu hoặc do kinh tế suy thoái.
-

Vòng quay các khoản phải thu

Vòng quay các khoản phải thu

=

Chỉ tiêu này cho biết tốc độ biến đổi các khoản phải thu thành tiền mặt.
Hệ số này là một thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của

doanh nghiệp.
- Vòng

quay hàng tồn kho

Vòng quay hàng tồn kho

=

Hệ số vòng quay hàng tồn kho thể hiện khả năng quản trị hàng tồn
kho. Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hóa tồn kho bình quân luân
chuyển trong kỳ.
-

Vòng quay TSCĐ

19


Vòng quay tài sản cố định

=

Chỉ số này giúp đánh giá hiệu quả sử dụng Tài sản cố định(TSCĐ) của
doanh nghiệp, cho thấy 1 đồng TSCĐ tham gia vào quá trình sản xuất kinh
doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu . Chỉ số này càng cao cho thấy hiệu
quả sử dụng TSCĐ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
-

Vòng quay tổng tài sản


Vòng quay tổng tài sản

=

Cả 2 hệ số Vòng quay TSCĐ và Vòng quay TTS càng cao càng tốt vì
chứng tỏ DN chỉ đầu tư ít vào TS mà vẫn tạo ra doanh thu cao, do đó lợi
nhuận cao. Tuy nhiên, cũng chứng tỏ nếu không đầu tư vào sẽ khó mở rộng sx.
Nếu hệ số này thấp hơn so với ngành hặc chính công ty trong các thời kỳ thì
có thể do công ty đầu tư quá nhiều vào tài sản hoặc việc bán hàng của công ty
không được tốt.

20


1.3.4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời
-

Tỷ suất lợi nhuận gộp

Tỷ suất lợi nhuận gộp

=

Chỉ tiêu này thể hiện mức độ hiệu quả khi sử dụng các yếu tố đầu vào
trong một quy trình SXKD của doanh nghiệp.
-

Tỷ suất sinh lời của tài sản (ROA)


Tỷ suất sinh lời của tài sản

=

Chỉ tiêu ROA thể hiện tính hiệu quả của quá trình tổ chức, quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả chỉ tiêu cho biết bình
quân cứ một đồng tài sản được sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh thì
tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
- Tỷ

suất sinh lời của vốn chủ sở hữu (ROE)

Tỷ suất sinh lời của vốn CSH

=

Chỉ tiêu ROE cho biết số lợi nhuận được thu về cho các chủ sở hữu
doanh nghiệp sau khi họ đầu tư một đồng vốn vào sản xuất kinh doanh.

21


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong chương 1, Khóa luận đã đề cập đến một số vấn đề cơ bản về
phân tích tài chính và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp như khái niệm,
nội dung... Đặc biệt, chương 1 đã đi sâu vào phân tích vai trò và sự cần thiết
của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp nói chung.
Đồng thời, chương 1 cũng đã tổng hợp một số nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp trên 2 phương diện: khách quan và chủ quan. Từ
đó, đưa ra các chỉ tiêu tài chính cơ bản nhằm phục vụ cho việc đánh giá hiệu

quả kinh doanh cùa doanh nghiệp. Thông qua chương 1, sẽ có cái nhìn tổng
quan nhất về sự liên kết giữa phân tích tài chính và nâng cao hiệu quả kinh
doanh, cũng là cơ sở đánh giá thực trạng phát triển của Tổng công ty Xây
dựng Công trình Giao thông 4 ở chương 2.

22


Chương 2
THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH DOANH TẠI TỔNG CÔNG TY XÂY
DỰNG CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 4 (CIENCO4) QUA PHÂN TÍCH
TÀI CHÍNH
2.
2.1.GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY XÂY DỰNG
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 4
Sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp được khởi nguồn từ
những chính sách và bước đi có định hướng, không ngừng đầu tư và phát triển
khoa học công nghệ, đi đôi với phát triển nguồn nhân lực, kết hợp hài hòa các
lợi ích. Đa dạng hóa các nghành nghề, sản phẩm. Nâng cao tất cả các tiêu chí
cạnh tranh, coi trọng các giá trị văn hóa tinh thần, hội nhập với nền kinh tế
quốc tế mà trong đó luôn tồn tại uy tín và thương hiệu CIENCO4.
Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 tự hào là một trong
những Tổng công ty có uy tín nhất trong nghành xây dựng Việt Nam. Trong
vòng 10 năm trở lại đây, mức tăng trưởng trung bình hàng năm của Tổng công
ty là 22%/năm.
Hướng tới các mục tiêu vì sự ổn định, phát triển bền vững, CIENCO4
không ngừng thực hiện các biện pháp để đổi mới công tác tổ chức quản lý, đổi
mới công nghệ và năng lực chỉ đạo điều hành. Bằng việc đề cao các tiêu chuẩn
về An toàn - Chất lượng - Tiến độ - Mỹ thuật của các dự án, CIENCO4 mong
muốn tăng cường hợp tác, liên doanh, liên kết với các đối tác trong và ngoài

nước trên tất cả các lĩnh vực xây dựng, đầu tư và phát triển kinh tế theo
phương châm bình đẳng và các bên cùng có lợi.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Cienco 4 luôn nỗ lực phấn đấu, hoàn thiện hơn trong từng công trình, dự
án. Từ năm 2000 đến nay, Tổng công ty liên tục là đơn vị dãn đầu trong phong
trào thi đua cỉa ngành Giao thông vận tải, được Đảng, Nhà nước và Chính phủ
tặng nhiều phần thưởng cao quý. Công ty mẹ - CIENCO 4 liên tục được xếp

23


loại A của Bộ giao thông Vận tải. Đặc biệt, năm 2008, Tổng công ty đã được
tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh.
Năm 1962, thành lập Cục công trình đường bộ trực thuôc Bộ giao thông
vận tải theo Quyết định số 1477-QĐ/TL với sứ mệnh xây dựng những con
đường để nối hậu phương với tiền tuyến nhằm chi viện cho chiến trường miền
Nam như các tuyến tránh 21, 22A, 22B qua Nghệ An - Hà Tĩnh - Quảng Bình.
Năm 1976, đáp ứng nhiệm vụ mới của ngành GTVT nói chung và Cục
công trình I nói riêng, Bộ GTVT đã ra Quyết định số 163/QĐ – TC ngày
22/01/1975 đổi tên Cục công trình I thành Xí nghiệp Liên hợp công trình I.
Đảm nhận việc xây dựng đạn đường sắt từ Vinh đi Minh Cầm (Quảng Bình)
dài 143km. Công trình này được chính thức thông xe và nối hai miền Nam
Bắc vào năm 1977.
Năm 1977, nâng cấp Quốc lộ 7. Xây dựng cảng Cửa Lò, cảng Bến Thủy,
Lạch Hới, Lệ Môn. Chế tạo thành công cần Cầu nối có sức nâng 90 tấn – loại
cần cẩu lớn nhất trong nước vào năm 1977.
Năm 1980, thi công 25.000m3 đường bằng sân bay Sai Vàng (Thanh
Hóa). Thi công đường sắt Yên Thái đi sân bay Sao Vàng.
Năm 1988, đổi tên Xí nghiệp Liên hiệp công trình I thành các xí nghiệp
Xây dựng giao thông 4 theo Quyết định số 1775/QĐ – TCCB của Bộ Giao

thông Vận tải.
Năm 1991, Tách lực lượng xây dựng cơ bản trong Liên hiệp và thành lập
Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông Miền Trung theo quyết định của
Bộ giao thông Vận tải. Hoạt động ở 4 tỉnh Thanh Hóa – Nghệ An – Hà Tĩnh –
Quảng Bình.
Năm 1992, hoàn thiện công nghệ đúc đẩy cầu Hiền Lương do Cộng hòa
Liên bang Nga trợ giúp kỹ thuật công nghệ. Thành công trong cọc khoan nhồi
với thiết bị hiện đại có thể khoan sâu 80m, đường kính tối đa 2m tại cầu Quán
Hàu (Quốc lộ 1A).
Giai đoạn 1993 – 1995, đầu tư nhiều công nghệ tiên tiến như: Công nghệ
đúc hẫng, dầm Super T, Công nghệ treo, Công nghệ thi công mặt đường bê
tông nhựa và bê tong xi măng theo tiêu chuẩn AASHTO, Công nghệ đúc dầm

24


trên đà giáo di động v.v. Thi công và đưa vào sử dung hơn 50 công trình cầu
lớn và nâng cấp 40km nền mặt đường nhỏ trên các tuyến quốc lộ như cầu Linh
Cảm (quốc lộ 8), cầu Đông Hà (quốc lộ 1A), cầu Sông Hiếu (quốc lộ 48).
Năm 1975, đổi tên Tông công ty Xây dựng công trình giao thông Miền
Trung thành Tổng công ty Xây dựng công trình gai thông 4. Tăng trưởng gấp
9 lần về sản lượng và hơn 10 lần về vốn cố định so với năm 1991 (từ 22,8 và
8,8 tỷ lên 209 và 106 tỷ đồng). Hoạt động trên 36 tỉnh thành trong nước và ở
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào).
Giai đoạn 1996 – 2000, hoạt động theo hình thức dianh nghiệp Nhà nước
có Hội đồng thành viên. Tăng giá trị tổng sản lượng từ 245 tỷ đồng lên 826 tỷ
đồng; doanh thu từ 200.35 tỷ đồng lên 600 tỷ đồng; tài sản cố định từ 147 tỷ
đồng lên 398,2 tỷ đồng trong giai đoạn từ 1996 đến 2000. Đảm bảo tiến độ và
chất lượng cho nhiều Dự án lớn như 19 cầu Sài Gòn – Cần Thơ, quốc lộ 18,
đường Láng – Hòa Lạc, nâng cấp quốc lộ 1A Vinh – Đông Hà, cầu Quán Hàu,

cầu Thiện Hóa, cầu Hiếu, cầu Đông Hà, cầu Hiền Lương, cầu Tân Đệ, cảng
Vũng Áng v.v.
Giai đoạn 2001 – 2005, xây dựng bàn giao, đưa vào sử dụng 331 dự án
với 1.359 km đường ô tô, 26.037m cầu cảng. Thi công nhiều dự án với kỹ
thuật thi công phức tạp như dự án nâng caaso Quốc lộ 1A các đoạn Vinh –
Đông Hà, Vinh – Đồng Hới, cầu Tân Đệ (QL10), cầu Bến Lức (Long An),
đường Hồ Chí Minh v.v. Được bộ GTVT và Bộ khoa học – công nghệ cấp
bằng “chất lượng công trình tiêu biểu” cho dự án đoạn Quốc lộ 1A Vinh đi
Đông Hà (Km 463 – 670), cầu Đà Rằng (QL1A), cầu Yên Lệnh (QL38).
Giai đoạn 2007 – 2011, thành lập Công ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng
công trình giao thông theo quyết định số 2601/QĐ-BGTVT. Chuyển đổi công
ty mẹ - Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 4 thành công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên do Bộ giao thông vận tải làm chủ sở hữu theo
Quyết định số 1757/QĐ-BGTVT. Đạt tổng sản lượng đạt 4.277 tỷ đồng, doanh
thu 3.637 tỷ đồng trong năm 2011. Quyết toán nhiều công trình lớn như thủy

25


×