Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BTHK môn luật hôn nhân và gia đình đề 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.67 KB, 13 trang )

A. MỞ ĐẦU
Hiện nay, việc nuôi con nuôi là một trong các hiện tượng xã hội phổ biến
không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các quốc gia trên thế giới. Việc nuôi con nuôi
không chỉ có ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em mồ côi, trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn, thiếu tình thương từ cha mẹ…;mà còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính
đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc biệt là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm
muộn, đã dùng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản mà không có được con hay phụ nữ có hoàn
cảnh khó khăn, sống đơn thân… Vì vậy, vấn đề nuôi con nuôi là một vấn đề mà
Đảng, Nhà nước rất quan tâm và được điều chỉnh bởi pháp luật. Vậy nuôi con nuôi
là gì? Điều kiện để việc nuôi con nuôi là hợp pháp? Sau đây trong phạm vi bài tập
học kì em xin chọn đề tài số 10: “Các điều kiện để việc nuôi con nuôi được coi là
hợp pháp” để hoàn thành bài tập của mình.
I.
I.1.

B. NỘI DUNG
Khái niệm chung về nuôi con nuôi
Khái niệm con nuôi

Con nuôi là khái niệm được dùng để phân biệt với khai niệm con đẻ. Con đẻ
là người con được sinh ra bởi người mẹ, có quan hệ huyết thống với cha mẹ của
mình, mang gen di truyền của bố và mẹ. Một đứa trẻ sinh ra không cùng quan hệ
huyết thống với người chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng thì đứa trẻ đó có thể được
gọi là con nuôi.
Tuy nhiên, đứa trẻ được người không sinh ra mình nhận nuôi dưỡng, chăm
sóc và giáo dục chỉ được coi là con nuôi khi được pháp luật công nhận trên cơ sở
mong muốn xác lập quan hệ cha mẹ và con của người nhận nuôi dưỡng, chăm sóc
đứa trẻ đó. Vì vậy không phải bất cứ trường hợp nào việc nuôi dưỡng, chăm sóc và
giáo dục đều làm cho đứa trẻ được nhận nuôi dưỡng trở thành con nuôi của người



nuôi dưỡng. Việc xác lập quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi phải được đăng ký theo
đúng thủ tục và trình tự do pháp luật quy định.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định:
“Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc nuôi con nuôi được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”.
I.2.

Khái niệm nuôi con nuôi

Nuôi con nuôi là khái niệm được quy định tại khoản 1, Điều 3 Luật nuôi con
nuôi năm 2010. Theo đó “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha, mẹ và con
giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.
Như vậy, nuôi con nuôi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp
luật cha mẹ - con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi, khi giữa họ
không cùng quan hệ huyết thống mà được xác lập trên cơ sở quyết định của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền theo ý chí, nguyện vọng của người nhận nuôi và
tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về các điều kiện xác lập quan hệ giữa
cha mẹ nuôi và con nuôi.
Mục đích của việc nuôi con nuôi là nhằm xác lập quan hệ pháp luật giữa cha
mẹ và con ổn định, lâu dài, bền vững, đảm bảo cho người con nuôi được nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục trong môi trường gia đình.
II.

Điều kiện để việc nuôi con nuôi được coi là hợp pháp
Với nhiều lý do và mục đích khác nhau, việc nhận con nuôi trong đời sống

xã hội Việt Nam đã tồn tại từ lâu và dần trở nên phổ biến. Việc xác lập quan hệ
nuôi con nuôi có thể được thực hiện theo những cách thức khác nhau, Tùy theo sự
lựa chọn của cá nhân trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Để quan hệ nuôi con
nuôi được đảm bảo bởi pháp luật thì người nhận con nuôi phải làm thủ tục đăng ký



việc nuôi con nuôi với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Sau đây là các điều kiện
để việc nuôi con nuôi là hợp pháp:
II.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi
Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010 có quy định:
“Điều 8. Người được nhận làm con nuôi
1. Trẻ em dưới 16 tuổi
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc của cả
hai người là vợ chồng.
4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi.”
Theo quy định trên thì người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi.
Quy định về độ tuổi này phù hợp với Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em đã
quy định trẻ em là người dưới 16 tuổi.
Bên cạnh đó, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các
trường hợp: được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi; được cô, cậu, dì, chú, bác
ruột nhận làm con nuôi. Việc ưu tiên trong việc để cho bố dượng hoặc mẹ kế nhận
con riêng của vợ hoặc chồng mình làm con nuôi thì giữa họ sẽ thiết lập một quan
hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa họ sẽ phát sinh và tồn tại tất cả các quyền và
nghĩa vụ như cha mẹ đẻ và con đẻ. Điều này đảm bảo được quyền và lợi ích hợp
pháp của cả hai bên mà đặc biệt là người được nhận nuôi. Còn việc ưu tiên cô,cậu,
dì, chú, bác ruột nhận nuôi là rất phù hợp, đảm bảo được quyền và lợi ích của
người được nhận nuôi, đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền trẻ em được sống



trong gia đình gốc. Tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong gia đình đã quen
thuộc với chúng, nơi chúng sinh ra và lớn lên.
Ngoài ra luật còn quy định, một người chỉ được làm con nuôi của một người
độc thân hoặc làm con nuôi của hai người nếu họ là vợ chồng.
II.2. Điều kiện đối với người nhận con nuôi
Căn cứ Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, người nhận con nuôi phải có
các điều kiện sau:
“Điều 14. Điều kiện đối với người nhận con nuôi
1. Người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên;
c) Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con nuôi;
d) Có tư cách đạo đức tốt.
2. Những người sau đây không được nhận con nuôi:
a) Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
b) Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở
chữa bệnh;
c) Đang chấp hành hình phạt tù;
d) Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà,
cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc
hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo,
chiếm đoạt trẻ em.


3. Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của
chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì
không áp dụng quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều này.”
Như vậy, điều kiện nuôi con nuôi theo luật Việt Nam: có năng lực hành vi

dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có tư cách đạo đức tốt; có điều kiện
thực tế bảo đảm việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi. Việc
quy định người nhận con nuôi phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên vì là nhằm đảm
bảo việc người xin nhận con nuôi có đủ điều kiện cần thiết để nuôi dưỡng con
nuôi. Hơn nữa, 20 tuổi thì khả năng người đó đã đủ trưởng thành, đủ năng lực, điều
kiện kinh tế, tài chính,… để có thể nhận nuôi con nuôi
Bên cạnh đó thì người nhận con nuôi không phải là người đang bị hạn chế
một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc bị kết án mà chưa
được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông, bà, cha, mẹ, vợ,
chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp
người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội
xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi xúi giục, ép buộc con làm những
việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Tiền đề để cho các nhà làm luật quy định
như vậy là: Mục đích của việc nuôi con nuôi là tạo mái ấm gia đình cho trẻ em,
trong đó trẻ em được sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc, sẻ chia của cha mẹ
nuôi. Khi đứa trẻ được nhận nuôi chúng cần sự chăm sóc, dạy dỗ và giáo dục trong
môi trường gia đình lành mạnh, tốt đẹp.
Trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của
chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì
không nhất thiết phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên và không phải có điều kiện về
sức khỏe, kinh tế, chỗ ở đảm bảo việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi.


Những trường hợp này nhằm đảm bảo việc nuôi con nuôi phải đảm bảo đúng
mục đích và ý nghĩa xã hội của nó là: tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong sự
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình; tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng
vô sinh, hiếm muộn, người độc thân muốn có một đứa con. Tránh tình trạng việc
nuôi con nuôi sẽ dẫn đến vấn đề lạm quyền, dùng việc nuôi con nuôi để nhằm mục
đích khác như: bóc lột sức lao động, nô lệ tình dục,…, ảnh hưởng đến sự phát triển

hài hòa về nhân cách của người được nhận nuôi.
Các điều kiện đối với người nhận con nuôi có yếu tố nước ngoài: Điều
kiện của người nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phân biệt thành hai trường
hợp (Điều 29 Luật Nuôi con nuôi): đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài,
người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận người Việt Nam làm con nuôi phải
có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người đó thường trú và
quy định tại Điều 14 Luật Nuôi con nuôi; đối với công dân Việt Nam nhận người
nước ngoài làm con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định tại Điều 14 của
Luật Nuôi con nuôi và pháp luật của nước nơi người được nhận làm con nuôi
thường trú. Người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là trẻ em Việt Nam trong hai
trường hợp:
* Xin con nuôi thông thường: là những trường hợp quy định tại khoản 1,
khoản 3 và khoản 4 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận
trẻ em Việt Nam làm con nuôi;
- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm
con nuôi.
- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam. Về
nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên


của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với 8 Việt Nam và đáp ứng đủ các
điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, cũng như pháp
luật của nước nơi người nhận nuôi thường trú.
* Xin con nuôi đích danh: người nhận nuôi con nuôi ngoài việc phải thỏa
mãn các điều kiện như đối với trường hợp xin con nuôi thông thường còn phải
thuộc một trong các trường quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, đó
là:
- Người nhận nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước

ngoài thường trú ở nước ngoài nhưng là cha dượng, mẹ kế của người được nhận là
con nuôi hoặc là cô, dì, cậu, chú, bác ruột của cháu được nhận nuôi con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài đã có con nuôi được xin đích danh trẻ là anh, chị, em ruột của con nuôi
làm con nuôi.
- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở
nước ngoài xin nhận đích danh trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc các
bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi.
- Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít
nhất là 01 năm
II.3. Điều kiện về sự đồng ý của những người liên quan
Điều 21 Luật nuôi con nuôi năm 2010 quy định:
“Điều 21. Sự đồng ý cho làm con nuôi
1. Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người
được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn
lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận


trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em
đó.
2. Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi;
quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và
con sau khi người đó được nhận làm con nuôi.
3. Sự đồng ý phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không
bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi
ích vật chất khác.
4. Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã được

sinh ra ít nhất 15 ngày. ”
Khoản 1 Điều 21 quy định rõ việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý
của cha mẹ đẻ; trong trường hợp cha hoặc mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực
hành vi dân sự hoặc không xác định được thì cần có sự đồng ý của người mẹ, cha
còn lại. Nếu cả cha, mẹ đẻ đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, bị tòa án
tuyên hạn chế quyền làm cha mẹ hoặc không xác định được cha mẹ thì phải được
sự đồng ý của người giám hộ và người nuôi dưỡng trẻ em. Để bảo đảm lợi ích tốt
nhất của trẻ em, thì bắt buộc phải có cả ý kiến của người giám hộ và người đang
trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em, nhất là trong trường hợp người giám hộ trẻ em không
đồng thời là người đang trực tiếp nuôi dưỡng trẻ em. Như vậy, sự đồng thuận của
cả hai người này trong việc cho trẻ em làm con nuôi là cần thiết.
Ngoài ra, việc nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của chính
trẻ em đó. Quy định nhằm bảo đảm trẻ em được tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý
kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn đề hoặc thủ tục ảnh hưởng đến
trẻ em.
Sự đồng ý của các chủ thể phải hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép
buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc.


Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con của mình làm con nuôi người khác sau
khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày. Đây là quy định đảm bảo cho việc nuôi
con nuôi đúng pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Tránh tình trạng
thỏa thuận việc cho và nhận nuôi con nuôi giữa cha mẹ đẻ và người nhận nuôi từ
trước khi đứa trẻ ra đời, nhằm đảm bảo cho đứa trẻ khi ra đời được biết cha mẹ đẻ
mình là ai và được cha mẹ mình chăm sóc. Bên cạnh đó, việc quy định đứa trẻ chỉ
được đi làm con nuôi sau ít nhất 15 ngày sinh cũng đảm bảo cho đứa trẻ sức khỏe
tốt và cứng cáp hơn.
II.4. Điều kiện về đăng ký việc nuôi con nuôi
II.4.1. Đăng ký nuôi con nuôi trong nước
*Về thẩm quyền đăng ký thuộc về UBND xã, phường, thị trấn nơi thường

trú của người được nhận làm con nuôi hoặc của người nhận con nuôi. Theo quy
định này, người nhận con nuôi có thể nộp hồ sơ xin nhận con nuôi tại UBND cấp
xã của một trong hai nơi.
Đối với trường hợp trẻ em bị bỏ rơi chưa được chuyển vào cơ sở nuôi dưỡng
và chưa đăng ký hộ khẩu thường trú thì UBND cấp xã nơi lập biên bản xác nhận
trẻ em bị bỏ rơi có thẩm đăng ký việc nuôi con nuôi (Khoản 1 Điều 2 Nghị định
19/2011/NĐ-CP). Đối với trường hợp trẻ em đang sống tại cơ sơ nuôi dưỡng thì
UBND cấp xã nơi có trụ sở của cơ sở nuôi dưỡng có thẩm quyền đăng ký việc nuôi
con nuôi.
Trường hợp cha dượng hoặc mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con
nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi hoặc có sự thỏa thuận
của người nhận con nuôi với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận
làm con nuôi thì việc nuôi con nuôi được đăng ký tại UBND cấp xã nơi thường trú
của người nhận con nuôi.


* Thủ tục đăng ký nuôi con nuôi: Người nhận nuôi con nuôi cần chuẩn bị
hồ sơ xin nhận con nuôi và hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi. Hồ sơ của
người nhận con nuôi được quy định tại Điều 17 Luật Nuôi con nuôi và quy định
chi tiết tại Nghị định 19/2011/NĐ-CP.
Hồ sơ của trẻ được giới thiệu làm con nuôi trong nước được quy định tại
Điều 18 Luật Nuôi con nuôi. Việc lập hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi sống tại gia đình do cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em đó chuẩn bị.
Đối với những trẻ em sống tại cơ sở nuôi dưỡng việc lập hồ sơ của trẻ do Cơ sở
nuôi dưỡng những trẻ em đó thực hiện.
* Trình tự đăng ký việc nuôi con nuôi: Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ
của mình và hồ sơ của người được giới thiệu làm con nuôi tại UBND cấp xã nơi
người được giới thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi
thường trú. Thời hạn giải quyết việc nuôi con nuôi là 30 ngày, kể từ ngày UBND
cấp xã nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Việc cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của
trẻ em, nên công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người liên
quan về mục đích nuôi con nuôi; quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa cha mẹ nuôi và
con nuôi sau khi đăng ký nuôi con nuôi; về việc cha mẹ đẻ sẽ không còn các
quyền, nghĩa vụ đối với con theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật Nuôi con
nuôi, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi không có thỏa thuận khác.
Việc đăng ký nuôi con nuôi được tiến hành tại trụ sở UBND cấp xã. Khi
đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người giám hộ hoặc đại diện cơ sở
nuôi dưỡng và người được nhận làm con nuôi phải có mặt. UBND cấp xã sẽ trao
Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ


hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch.
Việc nuôi con nuôi có hiệu lực kể từ ngày cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi.
II.4.2. Đăng ký nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
* Về thẩm quyền giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài: Bộ
Tư pháp, Cục nuôi con nuôi, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Sở Tư pháp, Cơ sở nuôi
dưỡng
* Trình tự, thủ tục đăng kí nuôi con nuôi
- Nộp, tiếp nhận và thẩm định hồ sơ của người xin nhận con nuôi.
- Chuyển hồ sơ của người xin nhận con nuôi cho Sở Tư pháp để giới thiệu
trẻ.
- Sở Tư pháp giới thiệu trẻ làm con nuôi.
- Sở Tư pháp báo cáo kết quả giới thiệu trẻ em cho Cục Con nuôi, kèm theo
hồ sơ của con nuôi để Cục con nuôi thẩm định kết quả.
- Cục Con nuôi lấy ý kiến của người nhận con nuôi và cơ quan có thẩm
quyền của nước ngoài về trẻ được giới thiệu làm con nuôi.
- Quyết định cho trẻ làm con nuôi và tổ chức giao nhận con nuôi
III.


Bất cập, hạn chế và giải pháp cho các quy định về điều kiện để việc

nuôi con nuôi là hợp pháp
1. Bất cập, hạn chế của các quy định về điều kiện để việc nuôi con nuôi
được coi là hợp pháp
Thứ nhất, Luật vẫn chưa đề cập đến vấn đề huỷ việc nuôi con nuôi, mặc dù
tình trạng vi phạm các điều kiện nuôi con nuôi xảy ra khá nhiều trên thực tế.


Thứ hai, vấn đề nuôi con nuôi thực tế trong Luật cũng chỉ mang tính chất
tạm thời, chưa đề ra được các phương án cụ thể để giải quyết triệt để tình trạng
này.
Thứ ba, về điều kiện của người được nhận làm con nuôi. Điều 4 Luật Nuôi
con nuôi năm 2010 quy định nguyên tắc: tôn trọng quyền trẻ em được sống trong
môi trường gia đình gốc. Theo nguyên tắc này, chỉ khi cha mẹ đẻ không còn khả
năng nuôi dưỡng, giáo dục thì mới có thể cho trẻ em làm con nuôi. Tuy nhiên,
nguyên tắc này lại không được cụ thể hoá trong các quy định về điều kiện của
người được nhận nuôi. Sự thiếu sót này có thể tạo ra kẽ hở dẫn tới tình trạng mặc
dù cha mẹ đẻ vẫn có đủ điều kiện nuôi dưỡng nhưng vẫn cho trẻ em làm con nuôi.
Như vậy, việc nuôi con nuôi được tiến hành không vì lợi ích của trẻ em, không
đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc.
Thứ tư, về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi và chấm dứt nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Luật Nuôi con nuôi năm 2010 không có quy định nào về hệ
quả pháp lý của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Nội dung này chỉ được
quy định tại Điều 24 Chương 2 - Nuôi con nuôi trong nước.
Thứ năm, quá trình giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài còn
xảy ra nhiều sai sót như: hiện tượng sai lệch hồ sơ, sai lệch về giấy khai sinh, giấy
chứng sinh; thời gian giải quyết lâu mà không có lý do chính đáng,…
2. Giải pháp hoàn thiện các quy định về điều kiện của việc nuôi con nuôi
được coi là hợp pháp

Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước ở Trung ương
và địa phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong và ngoài
nước một cách chặt chẽ, đúng pháp luật.


Tăng cường công tác quản lý Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt Nam:
chế độ báo cáo, quản lý các khoản hỗ trợ nhân đạo, ….
Tăng cường công tác thanh tra, kiếm tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và nâng cao nhận
thức của cán bộ, nhân dân về vấn đề nuôi con nuôi, về sự cần thiết, ý nghĩa nhân
đạo của việc nuôi con nuôi.
C. KẾT LUẬN
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con không dựa trên quan hệ
huyết thống tự nhiên nhằm hình thành một gia đình mới giống như gia đình gốc
của trẻ. Do đó khi tham gia vào quan hệ nuôi con nuôi người nhận nuôi và người
được nhận làm con nuôi phải thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật.
Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 đã góp phần hoàn
thiện các quy định bảo vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi và đảm bảo
thực thi có hiệu quả trong thực tế, ngăn chặn được những tiêu cực trục lợi, đảm bảo
mục đích của việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi lâu dài, bền vững. Nuôi con nuôi
là lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi giữa các bên, đặc biệt là đối với
trẻ em. Do đó, các quy định về điều kiện nuôi con nuôi phải chặt chẽ bảo đảm
quyền sống trong môi trường gia đình của trẻ và tạo khung hành lang pháp lý bảo
vệ trẻ em được cho làm con nuôi.



×