ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
BÙI VĂN CHUNG
BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG
HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Hà Nội – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------
BÙI VĂN CHUNG
BƯỚC CHUYỂN TƯ TƯỞNG CỦA TRẦN ĐỨC THẢO TỪ HIỆN TƯỢNG
HỌC SANG CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Văn Thắng
Hà Nội – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của Th.S Hoàng Văn Thắng. Là kết quả nghiên cứu trực tiếp một
số tác phẩm của cố GS.Trần Đức Thảo và nguyên cứu của các học giả về tư tưởng
Trần Đức Thảo. Các tài liệu nghiên cứu là trung thực, khách quan, có nguồn gốc rõ
ràng.
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên
Hoàng Văn Thắng
Bùi Văn Chung
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Th.S Hoàng Văn Thắng, người đã
hướng dẫn tận tình tôi hoàn thành nghiên cứu này. Tôi xin tri ân các thầy cô khoa Triết
học, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã đồng
hành cùng tôi trong suốt 3 năm Đại Học.
Tôi cũng xin bày tỏ sự cảm ơn đến các bạn bè và gia đình đã giúp đỡ tích cực
trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin dành tặng nghiên cứu khoa học này cho mẹ tôi, người đã hết lòng ủng
hộ và tin tưởng tôi theo đuổi ngành triết học.
Hà nội, ngày... tháng... năm 2018
Sinh viên
Bùi Văn Chung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................................................1
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu ........................................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................................................4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................................................................5
6. Đóng góp của Khóa luận ........................................................................................................................5
7. Kết cấu của Khóa luận ...........................................................................................................................5
CHƯƠNG 1. TRẦN ĐỨC THẢO VỚI HIỆN TƯỢNG HỌC ....................................... 6
1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp Trần Đức Thảo................................................................................6
1.1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự xuất hiện của tư tưởng Trần Đức Thảo ................... 6
1.1.2. Sự nghiệp của Trần Đức Thảo ........................................................................ 8
1.2. Trần Đức Thảo và Hiện tượng học Husserl ......................................................................................12
1.2.1. Nội dung Hiện tượng học Husserl ................................................................12
1.2.2. Những đánh giá của Trần Đức Thảo với Hiện tượng học Husserl ..............21
CHƯƠNG 2. TRẦN ĐỨC THẢO VÀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG ..... 27
2.1. Tiếp thu phép biện chứng của triết học tinh thần Hegel....................................................................27
2.1.1. Quan niệm về hữu thể tuyệt đối- cái tuyệt đối ..............................................29
2.1.2. Phê phán của Trần Đức Thảo và sự tha hóa của hữu thể tuyệt đối- cái tuyệt
đố.............................................................................................................................35
2.2. Trần Đức Thảo tiếp và bản thể luận triết học duy vật .......................................................................38
2.2.1. Quan niệm của Trần Đức Thảo về nguồn gốc của ngôn ngữ và ý thức .......38
2.2.2. Trần Đức Thảo tiếp thu chủ nghĩa duy vật biện chứng ................................46
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................................ 61
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trần Đức Thảo là một nhà triết học, một người tri thức yêu nước, suốt đời tận
tụy với khoa học. Con người ông, những tư tưởng của ông chính là minh chứng cho
tầm vóc, trí tuệ con người Việt Nam dù ở trong bối cảnh khắc nghiệt nhất vẫn luôn giữ
vững một ý trí vươn lên. Những năm tháng học tập và nghiên cứu ở Pháp từ 19361951, được đào tạo trong môi trường giáo dục bài bản và quy củ là trường cao đẳng
phố d’Ulm- một trong những trường đào tạo học thuật có tiếng, Trần Đức Thảo đã
chứng thực năng lực học thuật của mình trong lĩnh vực triết học cũng như nhiều lĩnh
vực khoa học xã hội khác. Ông trở thành một con người có sức ảnh hưởng đến giới
học thuật Pháp, được nhiều học giả nổi tiếng ở Pháp biết đến và đánh giá cao với tư
duy độc đáo, sáng tạo. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như “Phương pháp hiện tượng
luận Husserl”, “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, “Tìm về cuội
nguồn của ngôn ngữ và ý thức” ,.v.v. là một sự khẳng định cho khả năng và tầm vóc
trí tuệ của ông.
Những tác phẩm trên không chỉ là lời khẳng định, là tuyên ngôn cho lập trường
tư tưởng vững vàng của Trần Đức Thảo, mà còn ẩn chứa những bước “chuyển mình”
về tư tưởng đầy suy tư, trăn trở, đầy mẫu thuẫn, dằn vặt như con trai tạo ngọc. Nhà
triết học dường như lặn sâu vào thế giới phản tư “tăm tối” của chính mình, tự đặt
những câu hỏi lớn và tự tìm câu trả lời; độc hành, cô đơn và chấp nhận trả giá. Hành
trình ấy đã đem lại giá trị và bài học quý giá cho các thế hệ học trò sau. Các tác phẩm
của ông trở thành chủ đề hấp dẫn, lôi cuốn, có sức lay động mạnh mẽ tới nhiều thế học
trò của chính ông, và của nhiều nhà nghiên cứu sau này.
Trong nội dung về bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo, rất nhiều học giả
đã đưa ra các luận giải khác nhau, việc xác định rõ ràng bước chuyển tư tưởng của ông
là bước đầu đi vào thế giới triết học của ông. Tuy vậy việc xác lập một lập trường triết
2
học là cuộc chuyến biến tự thân mang dấu ấn phản tư mạnh mẽ hay đơn thuẩn chỉ là
việc học thuộc những trang giáo trình khô cứng? Tiêu chí nào để xác định ai đó đã
mang một lập trường triết học? Là sự dấn thân vào thực tiễn bất chấp phải trả giá hay
vấn đề chỉ luôn dừng trong lĩnh vực lý thuyết hàn lâm và đó chính là một câu hỏi lớn
trong bước chuyển tư tưởng của Trần Đức Thảo. Bản thân tôi luôn tự hỏi như vậy với
một thái độ thành kính và mong muốn tìm kiếm câu trả lời xác định thông qua Triết
học của ông. Chính vì vậy tôi chọn “Sự chuyển biến tư tưởng Trần Đức Thảo từ Hiện
tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Cuộc đời, sự nghiệp và các tác phẩm của cố GS. Trần Đức Thảo đã được rất
nhiều học giả trong nước và quốc tế tìm hiểu, nguyên cứu trong đó có một số hội thảo
lớn có ý nghĩa quan trọng nhằm làm sáng tỏ những góc khuất về cuộc đời, về sự
nghiệp vẻ vang và cả tinh thần cống hiến cho khoa học, đất nước của cố GS.Trần Đức
Thảo.
Tại hội thảo khoa học quốc tế “Về tư tưởng triết học và giáo dục của Trần Đức
Thảo” tổ chức tại Đại học Sư phạm Hà Nội 2013, PGS.TS Nguyễn Văn Minh - Hiệu
trưởng Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Trưởng ban chỉ đạo tổ chức Hội thảo nêu rõ:
Hội thảo lần này được tổ chức tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội là hoạt động thiết
thực kỷ niệm 95 năm sinh và 20 năm ngày mất của Giáo sư Trần Đức Thảo, được sự
ủng hộ của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hội thảo nhằm mục
đích: Nghiên cứu, đánh giá những cống hiến của Giáo sư Trần Đức Thảo đối với đất
nước, với khoa học Việt Nam và thế giới, đồng thời chỉ ra những giá trị của tư tưởng
Trần Đức Thảo đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay. Hội thảo còn thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và hợp tác trong lĩnh
vực khoa học xã hội và nhân văn, tạo môi trường để các nhà khoa học trong nước, các
giảng viên, học viên và nghiên cứu sinh khoa học xã hội - nhân văn tiếp xúc và giao
lưu học thuật với các nhà nghiên cứu triết học nước ngoài. Một số bài viết nổi bật
trong kỉ yếu Hội thảo khoa học quốc tế 7/5/2013 về bước chuyển tư tưởng triết học
3
của Trần Đức Thảo: “Võ Văn Dũng, Từ hiện tượng học đến chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong tư tưởng Trần Đức Thảo, trang 257. Lê Duy Hoa, Trần Đức Thảo với tiến
trình từ Hiện tượng học Husserl tới chủ nghĩa duy vật biện chứng Marx và Engel,
trang 288. Nguyễn Thị Thường, Trần Đức Thảo Hành trình từ Hiện tượng luận đến
chủ nghĩa duy vật biện chứng , trang 350,..”
Năm 2017, kỉ niệm 100 năm ngày sinh cố GS. Trần Đức Thảo, Hội thảo quốc tế
của trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Gần 60
bài viết tham gia hội thảo tập trung làm rõ các chủ đề quan tâm chính của Trần Đức
Thảo và một số vấn đề triết học được quan tâm ở Việt Nam trong nửa sau thế kỷ XX
và những năm gần đây. Thứ nhất là Trần Đức Thảo đối chiếu hiện tượng học của
Husserl với chủ nghĩa duy vật biện chứng. Chủ đề lớn thứ hai ở Trần Đức Thảo bao
gồm những công trình viết về sự chuyển hoá của phép biện chứng duy tâm Hegel
thành phép biện chứng duy vật ở Mác, cùng vai trò của chủ nghĩa Mác trong việc nhận
thức và cải tạo thế giới. Chủ đề thứ ba bao gồm những công trình nghiên cứu có thể
được xếp vào chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo: ý thức, tư tưởng xuất
hiện như thế nào trong cuộc tiến hoá vĩ đại của tự nhiên đi từ vật chất, qua sinh vật,
lên nhân loại. Chủ đề thứ tư liên quan đến bản chất và sự hình thành con người, qua đó
ông nêu lên quá trình tiến hóa của lịch sử loài người. Các bài viết nổi bật trong kỉ yếu
hội thảo đề cập bước chuyển trong lập trường tư tưởng Trần Đức Thảo: “Trần Thị
Điểu, từ Hiện tượng học Husserl đến hiện tượng học Trần Đức Thảo, trang 47.
Nguyễn Thị Liên- Đoàn Thu Nguyệt, Trần Đức Thảo với sự vượt bỏ Hiện tượng học
để đi đến chủ nghĩa duy vật biện chứng, trang 77. Nguyễn Thị Thường, Tư tưởng triết
học Trần Đức Thảo trong dòng chảy hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh và chủ nghĩa
Marx, trang 94. Bùi Thị Tỉnh, Chủ nghĩa duy vật nhân bản- sáng tạo trong hành trình
triết học của Trần Đức Thảo, trang 97....”
Tuy các bài viết đã đề cập tương đối đến vấn đề “Bước chuyển tư tưởng của
Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng”, nhưng chưa
thật sự khắc họa rõ nét bước chuyển ấy trong những tương quan khác nhau, hoặc mới
4
chỉ làm rõ bước chuyển ở một phương diện nhất định. Đồng thời, các bài viết cũng
chưa giúp tác giả - mặc dù đang ở trình độ sinh viên tự tìm thấy những câu trả lời thỏa
đáng mà mình đã đặt ra. Vì vậy, đó là mảng trống để người viết tiếp tục suy tư, bổ
sung vào mảng đề tài này.
Tuy các bài viết đã đề cập tương đối đến vấn đề bước chuyển tư tưởng của Trần
Đức Thảo từ hiện tượng học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhưng chưa thật sự
khắc họa rõ nét bước chuyển ấy trong những tương quan khác nhau, hoặc mới chỉ làm
rõ bước chuyển ở một phương diện nhất định. Đồng thời, các bài viết cũng chưa giúp
tôi - mặc dù đang ở trình độ sinh viên tự tìm thấy những câu trả lời thỏa đáng mà mình
đã đặt ra. Vì vậy, đó là mảng trống để người viết tiếp tục suy tư, bổ sung vào mảng đề
tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ bước chuyển biến tư
tưởng từ Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng của Trần Đức Thảo.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả Khóa luận thực
hiện những nhiệm vụ sau đây:
• Một là, giới thiệu khái quát về thân thế và sự nghiệp sáng tác của Trần Đức
Thảo.
• Hai là, làm sáng tỏ những khái niệm nền tảng của Hiện tượng học Husserl.
• Ba là, chỉ ra guồn gốc duy lý của ý thức mà Trần Đức Thảo tiếp thu.
• Bốn là, phân tích bước chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ hiện tượng
học sang chủ nghĩa duy vật biện chứng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Sự chuyển biến tư tưởng của Trần Đức Thảo từ lập trường
Hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng.
5
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu này tập trung tìm hiểu về tư tưởng triết học
trong tác phẩm “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện chứng” bắt đầu viết năm
1947, xuất bản 1951 của cố GS. Trần Đức Thảo cũng như bước chuyển biến tư tưởng
triết học của ông.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
Để giải quyết nhiệm vụ trên, bài viết áp dụng tổng hợp các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp thống nhất lôgic và lịch sử,
phương pháp kết hợp diễn dịch và quy nạp, phương pháp so sánh, đối chiếu tài liệu,
v.v...
6. Đóng góp của Khóa luận
Kết quả nghiên cứu này góp phần làm rõ ràng hơn bước chuyển trong tư tưởng
Trần Đức Thảo từ hiện tượng học sang Chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bài viết có thể
trở thành tài liệu tham khảo cho những ai cùng quan tâm về chủ đề này.
7. Kết cấu của Khóa luận
Để thực hiện được tốt mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên ngoài phần mở
đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Khóa luận tốt nghiệp này gồm 2 chương, 4 tiết.
6
CHƯƠNG 1. TRẦN ĐỨC THẢO VỚI HIỆN TƯỢNG HỌC
1.1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp Trần Đức Thảo
1.1.1. Bối cảnh lịch sử cho sự xuất hiện của tư tưởng Trần Đức Thảo
Sự phát triển với tốc độ chưa từng thấy của tiến bộ-khoa học kỹ thuật của thời
cận-hiện đại làm quyền lực của bộ máy nhà nước ngày càng được tăng lên- kéo theo
sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan như là căn bệnh của thời đại. Cùng với đó
sự xuất hiện của con người đại chúng như hệ quả của văn hóa xã hội tư sản và sự
khủng hoảng kinh tế của xã hội tư bản làm bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất.
Xã hội phương tây hiện đại, đặt ra hàng loạt vấn đề thách thức với con người, đó là
hoàn toàn là điều không thể làm ngơ. Con người ta giường như không còn có thời gian
suy nghĩ cho bản thân mình mà bị cuốn vào vòng xoáy thị phi và dối trá của xã hội. Xã
hội phương tây hiện đại đẩy con người vào vòng xoáy của các sự kiện mà mục đích, ý
nghĩa, của nó luôn luôn mập mờ. Nhiệm vụ của khoa học nói chung và triết học
phương tây hiện đại nói riêng là phải tìm mọi cách để có thể thấu hiểu toàn bộ sự phức
tạp đó và điều chỉnh nó. Tuy vậy khoa học và triết học phương tây hiện đại không
những không thể làm sáng tỏ những nguyên nhân đứng đằng sau các sự kiện xã hội
đáng báo động đó, mà ngược lại trở thành một phần của sự hỗn độn đó, và vô hình
chung trở thành công cụ của truyền thông nhằm khai thác những ý đồ chính trị hèn
kém. Chính ngôn ngữ do phương tiện truyền thông đại chúng đã nồi nhét vào ý thức
con người, nó đã xuyên tạc các quy tắc đúng đắn, làm ngơ trước thế giới tinh thần
phức tạp, biến con người trở thành phương tiễn lĩnh hội và thực hiện chân lý tối hậu.
Trần Đức Thảo đã đến với Triết học vào thời kỳ rất khó khăn. Trong thời đại
của mình, ông đã chứng kiến sự tha hóa tinh thần của con người Phương tây hiện đại,
mà cuội nguồn sâu xa của mọi vấn đề chủ yếu bắt nguồn trong chính bản thân con
người, trong cái thế giới bên trong mỗi con người. Chính các vấn đề bản thân mỗi cá
nhân, làm cho họ đau khổ và ngược lại chúng ta mất đi sự kiểm soát với những suy
nghĩ nhỏ nhen của mình, cũng khiến cho chúng ta khó có thể giải quyết các vấn đề bên
7
ngoài. Ngoài ra sự thiếu hiểu biết lẫn nhau, làm cho xung đột ngôn ngữ càng trở lên
gay gắt, dẫn đến những tổn thương về mặt tinh thần cho cả hai phía. Như vậy, động cơ
mà Trần Đức Thảo đến với chủ nghĩa duy vật biện chứng, là làm sao tẩy rửa “ý thức”
khỏi những lớp “mặt lạ” che đậy, những bình diện làm cho nó nhạt đi, rắc rối, khó
hiểu. Như vậy Trần Đức Thảo đã thừa hưởng cả không khí khủng hoảng của xã hội
Phương tây, lẫn giấc mơ cải tạo thế giới bằng lý trí của họ. Cũng có thể khẳng định
rằng, cho đến lúc này, Trần Đức Thảo là người Việt Nam hiếm hoi có tư tưởng triết
học gắn với tên tuổi của mình và hiện vẫn đang được nhiều học giả trong và ngoài
nước tìm hiểu, nghiên cứu. Ông cũng là một nhà triết học Việt Nam đã có những suy
tư “riêng” của mình và một thời, “ảnh hưởng” trực tiếp đến nền tảng tư duy lý luận
nước nhà.
Nhưng cũng phải nói rằng, sau chiến tranh thế giới thứ hai, chính những khủng
hảng trong lòng xã hội châu âu, đặc biệt là ở nước Pháp, khiến họ muốn khôi phục và
củng cố địa vị cường quốc của mình, trong đó quan trọng nhất là việc tái chiếm lại các
thuộc địa đã mất bị rơi vào phe phát xít trước đó, mà mục tiêu hàng đầu là các nước
Đông Dương - một khu vực thuộc địa giàu có và có vị chiến lược quan trọng. Hành
động đó của Pháp đi ngược lại mong muốn hòa bình, độc lập dân tộc Việt Nam. Pháp
đã sử dụng những biện pháp, đường lối quân sự để tái chiếm lại thuộc địa, gây tổn hại
đến nền độc lập của Việt nam, khiến cho mối quan hệ Pháp-Việt trở lên căng thẳng và
đi đến bờ vực của cuộc chiến tranh. Nhằm cứu vớt nền hòa bình mong manh, chính
phủ Việt nam dân chủ cộng hòa đã có những hành động ngoại giao, mà cụ thể và quan
trọng nhất là việc Đoàn đại biểu quốc hội Việt nam sang thăm Pháp do đồng chí Phạm
Văn Đồng dẫn đầu từ 25-4 đến 16-5 năm 1946 và 31-5-1946 chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đáp máy bay từ Hà Nội sang Pháp. Sự đấu tranh của những người cộng sản vì nền độc
lập của dân tộc và uy tín, tầm ảnh hưởng của lãnh tụ Hồ Chí Minh đã tác động rất lớn
tới Việt kiều và sinh viên đang du học ở Pháp lúc bấy giờ trong đó có Trần Đức Thảo.
Linh mục Cao văn Luận đã viết trong hồi ký của mình: “Từ đây sự chia rẽ vì chính
kiến, chủ nghĩa bắt đầu trở nên trầm trọng và lộ liễu trong hàng ngũ Việt kiều, sinh
8
viên ở Pháp. Trần Đức Thảo ít tới lui với anh em, và hình như đã thiên hẳn sang phía
cộng sản không biết từ lúc nào”. Đến năm 1952 mang theo tinh thần yêu nước, ông trở
về chiến khu việt bắc tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp và giành cả cuộc đời
sau này lao động, cống hiến cho nền triết học Việt Nam cũng như đóng góp một phần
nhỏ bé của mình cho triết học thế giới. Cuộc đời của ông đã gắn liền cả một giai đoạn
hào hùng của dân tộc Việt Nam và đầy biến động của lịch sử thế giới. Năm 1951, Trần
Đức Thảo xuất bản “Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng”, khẳng định
bước chuyển lập trường tư tưởng từ Hiện tượng học Husserl sang Chủ nghĩa duy vật
biện chứng Mác.
1.1.2. Sự nghiệp của Trần Đức Thảo
Trần Đức Thảo sinh ngày 26/9/1917 tại xã Song Tháp, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh trong một gia đình viên chức nhỏ. Cho đến nay, ông là một trong những người
Việt Nam được các nhà nghiên cứu trong, ngoài nước biết đến trên diễn đàn khoa học
và được công nhận có tầm vóc quốc tế ở phương Tây. Nếu tính cả quãng thời gian tu
nghiệp tại Pháp (vào cuối những năm 30, đầu những năm 40 thế kỷ trước) và những
tác phẩm viết bằng tiếng Pháp, được in tại Pháp của ông, thì “Trần Đức Thảo còn là
một triết gia Pháp”1. Ông là người Việt Nam hiếm hoi, ở thế hệ của mình, có con
đường học vấn Triết học thực thụ. Trần Đức Thảo là một nhà triết học trầm lặng, ít
phô danh, sự vinh danh ông đến từ bên ngoài.
Trần Đức Thảo vốn là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert
Sarraut (Hà Nội), từng đạt giải Nhì cuộc thi Triết học các trường trung học toàn quốc
Pháp. Năm 1935, sau khi đỗ xuất sắc tú tài, ông theo học Trường Luật Hà Nội. Năm
1936, ông được gửi sang Pháp chuẩn bị thi vào Trường cao đẳng sư phạm phố d' Ulm
(Thủ đô Paris) - một trường nổi tiếng ở Pháp về truyền thống tư tưởng tân tiến, văn
hoá và khoa học hiện đại. Trường cũng nổi tiếng là cái nôi đào tạo những nhà tư tưởng
và những chính khách cho nước Pháp. Năm 1939, Trần Đức Thảo thi đỗ vào trường
1
Thierry Marchaisse - Cựu sinh viên sư phạm Cao cấp phố d’Ulm, hiện là giám đốc nhà xuất bản mang tên
ông từ năm 2011, trong thời gian gặp gỡ Trần Đức Thảo , ông làm việc ở Nxb Editions du seuil, Paris.
9
này với số điểm cao. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp thủ khoa, nhận học vị thạc sĩ triết
học qua luận án “Phương pháp hiện tượng luận của Husserl”.
Hoà bình lập lại trên miền Bắc năm 1954, ông được cử làm Phó Giám đốc Đại
học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm Khoa Lịch sử, giảng dạy môn Lịch sử triết học ở
Trường Đại học tổng hợp Hà Nội (1956-1957). Những bài giảng của ông về Lịch sử
triết học sau này đã được các cựu sinh viên như Nguyễn Hoàng Gia biên tập lại và
xuất bản thành sách “Lịch sử tư tưởng trước Mác”, (NXB KHXH, 1995). Sau đó, Trần
Đức Thảo thôi giảng dạy ở trường đại học, ông dành nhiều thời gian nghiên cứu các
tác phẩm kinh điển Mác - Lênin, làm chuyên viên Nhà xuất bản Sự thật.
Trần Đức Thảo là một nhà khoa học, tư tưởng của ông trải rộng đến rất nhiều
vấn đề từ Triết học, Lịch sử triết học, đến Sử học, Nhân học, Sinh học, Ngôn ngữ học,
Văn học và Tôn giáo học… Tuy nhiên, chủ đề mà ông quan tâm hơn cả cũng lại là
những nội dung rất căn cốt đó là triết học, lịch sử triết học cùng những đề tài nhân sinh
liên quan trực tiếp đến số phận và hoạt động của con người, của xã hội…, vốn là
những nội dung mà không một nghiên cứu triết học cơ bản nào có thể lảng tránh.
Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tôi chỉ đề cập đến những chuyển biến về mặt
triết học “hành trình của Trần Đức Thảo từ Hiện tượng luận Husserl sang Chủ nghĩa
duy vật biện chứng”, qua tác phẩm chính “Hiện tượng học và chủ nghĩa duy vật biện
chứng” và các bài viết về ông, chứ không đi sâu vào toàn bộ các tác phẩm mà Trần
Đức Thảo nghiên cứu.
Cũng phải nói rằng, sống trong lòng chiến tranh thế giới thứ hai tại Pháp từ
1936-1952, trước hoàn cảnh của những tù binh Việt Nam và bối cảnh cách mạng trong
nước 1939-1945, hội sinh viên tại Pháp trong đó có Trần Đức Thảo đã sáng lập “Hội
liên hiệp những người Đông Dương tại Pháp” nhằm kêu gọi chính quyền bảo hộ Pháp
phải trao trả nền độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, khi quân đồng minh giành chiến
10
thắng, các lãnh tụ và cả Trần Đức Thảo bị bắt giam 3 tháng2. Có thể nói rằng vận
mệnh dân tộc và sự cố chấp của thực dân Pháp đã làm cho Trần Đức Thảo có những
chuyển biến về mặt tư tưởng và hướng về những người cộng sản. Chính điều này có
thể đã khiến Trần Đức Thảo có Thái độ bênh vực chủ nghĩa duy vật trong cuộc tranh
luận giữa Trần Đức Thảo và Jean-Paul Sartre3. Trong khi chấp nhận quan điểm lịch sử
của chủ nghĩa Mác, Sartre công kích quan điểm chính trị và văn hoá của nó biểu hiện
ở Liên Xô. Cuộc tranh luận này không có hồi kết vì Trần Đức Thảo bị thu hút bởi các
biến cố trong nước, nhưng theo lời của chính Simone de Beauvoir, nữ triết gia và vợ
của Sartre trong “Hồi ký” thì phần đúng là thiên về ông Thảo.
Trước khi đến với chủ nghĩa Mác, Trần Đức Thảo được đào tạo chính quy tại
trường cao đẳng sư phạm phố d’Ulm nổi tiếng ở Paris nên ông có cơ hội hoạt động
trong một môi trường trí thức tinh hoa Pháp và có liên hệ gần gũi với nhiều Triết gia
có ảnh hưởng lớn trong sinh hoạt triết học nửa sau thế kỷ XX như Jean-Paul Sartre,
Merleau-Ponty, Alexandre Kojève, Louis Althusser, Jacques Derrida… Đó là những
tư tưởng gia hàng đầu của trào lưu hiện tượng học, của chủ nghĩa hiện sinh. Đồng thời,
những phát kiến và tư tưởng của ông đều được họ công nhận và đánh giá cao như là
“những cống hiến độc đáo cho các lĩnh vực Triết học, Nhân chủng học, Ngôn ngữ học”
(Daniel J. Herman). Trần Đức Thảo thành nhà Hiện tượng học nổi danh với tư duy đặc
sắc có khả năng soi chiếu tỉnh táo các vấn đề hóc búa của triết học. Từ khi trở thành
2
Linh Mục Cao Văn Luận- Bên giòng lịch sử“Chính phủ Pháp lập tức bắt giam một số lãnh tụ sinh viên đồng
thời cũng là lãnh tụ hội Liên Hiệp những người Đông Dương tại Pháp như các anh Trần Đức Thảo, Hoàng Xuân
Mãn, Hoàng Xuân Nhị, Phạm Huy Thông. Nếu không phải là tu sĩ, được sự che chở của tòa Tổng Giám mục
Ba-Lê chắc chắn tôi đã không thoát khỏi tù tội. Những sinh viên bắt giam tại khám đường La Santé, nơi đã từng
giam giữ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh), Nguyễn Thế Truyền, Phan Chu Trinh ngày trước”.
3
Jean-Paul Charles Aymard Sartre ( 21 tháng 6 năm 1905 – 15 tháng 4 năm 1980) là nhà triết học hiện sinh,
nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ông là một trong những
nhân vật nòng cốt trong hệ thống triết học của chủ nghĩa hiện sinh, và một trong những nhân vật có ảnh hưởng
lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ 20 .
11
nhà triết học theo khuynh hướng duy vật Mác đến khi về cõi vĩnh hằng vào ngày
24/4/1993, thời gian cách nhau trên 40 năm, ông đã dành toàn bộ thời gian đó để hiện
thực hóa phương pháp luận Mác-xít, làm cho Triết học gắn chặt với đời sống, bám
chặt lấy số phận, vận mệnh con người dân tộc mình. Trần Đức Thảo có niềm tin sâu
sắc rằng “Phép biện chứng duy vật” của Mác không phải là một lý thuyết giáo điều,
mà là ngọn đuốc thực tiễn, một lý luận để “nuôi dưỡng” lý trí và dẫn đường cho cuộc
cách mạng vô sản. Với nghĩa đó, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, có một triết lý
mang tên Trần Đức Thảo và càng có “tư duy và phong cách Trần Đức Thảo” - một
đóng góp lớn của trí tuệ Việt Nam cho nhân loại. Đóng góp lâu dài của Trần Đức Thảo
cho học thuật là một tư duy triết học thuần khiết. Điều này trước hết thể hiện ở một
năng lực trừu tượng hoá cao, kế đó là khả năng biết đặt và giải quyết các vấn đề triết
học dưới ánh sáng của những phát kiến khoa học mới bằng các phương pháp nghiên
cứu liên ngành.
Trong hơn 25 năm, kể từ ngày cố GS. Trần Đức Thảo trở về với Đất mẹ, ông
luôn là một tấm gương sáng, suốt đời cấu hiến vì khoa học, gắn với những giá trị đích
thực của cuộc đời đầy sóng gió, nước mắt và “lương tâm” không ngừng suy tư của
mình. Cuộc đời, sự nghiệp của Trần Đức thảo gắn liền với những giai đoạn khó khăn
của lịch sử thế kỉ XX. Cùng với bước chuyển biến lập trường tư tưởng của mình, cố
GS.Trần Đức Thảo để lại cho chúng ta một tư duy triết học mang đậm giấu ấn của ông,
một tinh thần yêu nước nồng nàn, một trái tim tràn đầy nhiệt huyết với khoa học và
hơn thế nữa là một ý chí vượt lên số mệnh để sống, để cống hiến. Cố GS. Trần Đức
Thảo gửi gắm hai bài học lớn đến thế hệ chúng ta, đó là bài học về phương pháp tư
duy và không không kém phần quan trọng, là bài học về nhân cách người trí thức Việt
Nam, cũng chính là bài học làm người.
12
1.2. Trần Đức Thảo và Hiện tượng học Husserl
Trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình, Trần Đức Thảo được đông đảo học
giả biết đến với những công trình nghiên cứu liên quan đến Hiện tượng học, Phương
pháp Hiện tượng học, cũng như lịch sử triết học. Vì thế, khi bàn đến triết học Trần
Đức Thảo, chúng ta không thể bỏ qua những nội dung cốt lõi của Hiện tượng học.
1.2.1. Nội dung Hiện tượng học Husserl
Hiện tượng học, tức phénoménnologie là khoa học về các hiện tượng, nó gồm
hai thành tố là phainomenon và logos. Phainomenon có nghĩa là cái bày tỏ mình ra, cái
tự bày tỏ, cái khai mở. Vì vậy hiện tượng được hiểu là cái tự bày tỏ mình trong chính
nó, là cái khai mở. Nghĩa thứ hai của Phainomenon là dáng vẻ hay có thể gọi là biến
dạng khiếm khuyết của hiện tượng (chủ nghĩa hiện sinh sử dụng-cái hiện sinh). Logos
ám chỉ lời nói, ngôn từ, ngôn thuyết và sau cùng logic, nó có chức năng dùng để thể
hiện cái gì đó trong lời nói. Logos có một tầm hạn nghĩa rộng dùng để ám chỉ cái gì
làm cho ta thấy sự vật, làm sáng tỏ sự vật, thì đều có thể gọi là Logos. Tóm lại Hiện
tượng học là học thuyết về hiện tượng, tức tìm chân lý trong cái tự tỏ mình ra, tức là
quay trở về với chính bản chất của sự vật, thông qua các hiện tượng. Chính vì vậy,
trong quan niệm của Husserl, triết học cũng như các khoa học khác không phải là
những thứ xa vời với đời sống tinh thần của mỗi cá nhân hay là một cái gì đó dị biệt,
đánh mất những giá trị cốt lõi của con người. Do vậy, ông chủ trương xây dựng một
thứ triết học và phương pháp triết học nhằm đưa con người trở về với bản chất chân
thực trong nhận thức, trong hành vi ý thức, trong việc hình thành thế giới sống của
chính mình. Nội dung cơ bản của hiện tượng học Husserl có thể hiểu là “mỗi chúng ta
bị bao bọc bởi các nguyên lý, đây là cái làm nên điều khác biệt của chúng ta, lược bỏ
toàn bộ những nguyên lý chúng ta trở về cái bản chất loài, thông qua việc phân tích ý
thức cá nhân hiện thực: từ đó hướng tới nhận thức tâm lý. Hiện tượng học không đồng
nhất với hiện thực khách quan trong giới tự nhiên và xã hội như chủ nghĩa Mác đề cập,
mà là “hiện tượng ý thức” hay hoạt động tinh thần, chúng ta mổ xẻ ý thức của mỗi cá
13
nhân, trong đó có cái quy luật mang tính phổ quát trong mỗi người chúng ta”4. Hiện
tượng học cũng biểu hiện như là phương pháp nhằm mô tả, tường minh, tức là những
sự vật xuất hiện trực tiếp với chủ thể như thế nào thì mô tả như thế ấy. Nó không truy
tìm nguyên nhân, hay đưa ra những giả thuyết, mà nó chỉ mô tả đúng cái kinh nghiệm
sống trong “cuộc gặp gỡ- cảm nghiệm” đầu tiên giữa chủ thế với thế giới. Cũng theo
đó, hiện tượng học là trào lưu triết học muốn xóa bỏ bản thể luận triết học, coi thế giới
là thứ đã có sẵn, từ đó đòi hỏi triết học quay trở lại tìm hiểu cái cơ sở đầu tiên của sự
hiện hữu, tức là đối tượng của hiện tượng từ đây là cái bản chất, chứ không phải là
giới tự nhiên. Ở đây tôi đề cập đến một số khái niệm cơ bản của Hiện tượng học
Husserl để làm nổi bật nội dung triết học của nó.
Đầu tiên là khái niệm “Tính ý hướng”, một khái niệm trung tâm làm nên học
thuyết Hiện tượng học. “Tính ý hướng” tiếng La tinh là intentino, có nghĩa là hướng
tới, khái niệm của một loạt các học thuyết triết học, được sử dụng để ghi nhận tính đặc
thù của ý thức con người thể hiện sự định hướng của nó vào một đối tượng nào đó, ở
sự quy định một cách lý tưởng ở trong tư duy, qua đó đối tượng trở thành đối tượng lý
tưởng. Tính ý hướng có thể hiểu là phương thức vận động của tinh thần, hay công cụ
thực tại hóa các tiềm năng của trí tuệ nhờ nắm bắt khách thể bằng ý thức. Tính ý
hướng là một đặc trưng của ý thức. Bằng việc tiếp thu quan niệm “Tính ý hướng” của
Brentano5, Hiện tượng học của Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi hành vi ý
4
Nguyễn Vũ Hảo( là một nhà triết học Việt Nam): “Cái tôi tiên nghiệm là cái đạt được sau khi chúng ta làm
phương pháp quy giảm hiện tượng học, bóc tách dần những nguyên tắc, thành kiến, đã làm cho các quan điểm
khác nhau, kết quả cuối cùng đó là cái tôi tiên nghiệm. Nó xuất hiện ở giai đoạn cuối nhận thức, là suy tư của
bản thân. Cái tôi mang cho mình ý nghĩa về thế giới hiện có và tiền đề tất yếu đó là cái tôi tiên nghiệm và là nền
tảng của hiện tượng học, cái tôi tiên nghiệm chủ quan là sự thống nhất của những trải nghiệm thuần túy...”
5
Franz Clemens Honoratus Hermann Brentano (16 tháng 1, 1838 – 17 tháng 3 năm 1917) là một triết
gia, nhà tâm lý học và tu sĩ người Đức. Những tác phẩm của ông ảnh hưởng mạnh mẽ không chỉ đối với những
học trò của ông như Sigmund Freud, Kazimierz Twardowski, Alexius Meinong, Carl Stumpf, Anton
Marty, Christian von Ehrenfels, và Tomáš Masaryk (cũng như học trò của Masaryk là Edmund Husserl), mà
còn đối với nhiều tác phẩm của những người khác cũng nối gót và sử dụng những ý tưởng và khái niệm ban
đầu của ông..
14
thức của con người đều có một đối tượng để hướng tới. Tính “ý hướng” đã trở thành
chủ đề trọng tâm trong hiện tượng học của Husserl. Tư tưởng về tính ý hướng này
được kế thừa từ Brentano, người đã cho rằng, tính ý hướng là nét đặc biệt của kinh
nghiệm nhằm ý thức về một cái gì đó.
Như vậy “tính ý hướng” theo Husserl xuất hiện, trong đó cảm nghiệm(kinh
nghiệm sống) ý hướng và đối tượng ý hướng không phải là hai sự vật khác nhau, mà là
một cái thống nhất. Khác với tâm lý học, hiện tượng không phân tích những phương
diện kinh nghiệm hiện thực, mà phân tích các phương diện lý tưởng, tức là ý hướng
của cảm nghiệm. (Ví dụ: Trong tâm lý có liệu pháp chữa trị cho các bệnh nhân tâm
thần do sang trấn tâm lý, bằng cách dẫn dắt người bệnh hồi tưởng những hình ảnh kinh
nghiệm của quá khứ hoặc tìm hiểu cuộc sống của bệnh nhân, từ đó biết được những
nguyên nhân gây lên những sang chấn tấm lý, rõ dàng hiện thực mà bệnh nhân, hay
người thân thuật lại cũng chỉ là những dữ kiện kinh nghiệm sống và phần lớn đã có sự
quên, vì vậy mà có những bệnh nhân, bác sĩ không thể chuẩn hóa, nguyên nhân, lên
phải sử dụng rất nhiều liệu pháp...) Tiến hành phân tích hành vi ý hướng, ông phân
biệt; Đối tượng ý hướng, vật chất ý hướng, và bản chất ý hướng. Ông phân biệt chất
lượng ý hướng với vật chất ý hướng: Hành vi có thể là hành vi tri giác, biểu tượng,
phán đoán, đánh giá,..v..v..Vật chất đặc trưng cho định hướng của hành vi vào một đối
tượng nào đó, vào cái mà người ta tri giác, biểu tượng, phán đoán,..Chất lượng và vật
chất trong sự thống nhất của chúng cấu thành bản chất ý hướng hành vi. Husserl xóa
bỏ ranh giới giữa biểu tượng và vật, biến tất cả những gì hiện có đối với ý thức thành
nội dung, tức thành cái gì đó trung hòa, không có liên quan đến cái gì trên thực tế, đó
chính là nguyên tắc xuất phát của tâm thế hiện tượng học chín mười. Bằng việc khước
từ các những tiền đề siêu hình học trong nghiên cứu và tìm kiếm bản nguyên tuyệt đối
của tri thức, chính vì vậy ông xác định triết học là “tâm lý học miêu tả”-logic học về
mặt tâm lý. Đến đây tư duy Husserl lại trở về với triết học tiên nghiệm Kant. Tính ý
hướng không chỉ đơn giản là sự định hướng của ý thức về phía các sự vật tồn tại bên
ngoài, mà còn có nghĩa là, ý thức hay “ý thể” “tạo dựng” nên các sự vật. Tính ý hướng
15
bao gồm: Hành vi ý hướng (Noesis- (thắp sáng "sự hiểu biết", "trí tuệ") là một từ tiếng
Hy Lạp đề cập đến nhận thức của tâm trí, trong triết học nó là một thuật ngữ triết học
cổ điển, đôi khi tương đương với trí tuệ hay trí thông minh “Nous6” ). Xét về thực chất
của mình, nó chính là sự “thống nhất giữa chủ thể và các kinh nghiệm sống, là một nội
dung hồi tưởng nào đó mang tính hiện tại hóa. Hay đúng hơn là sự thống nhất giữa các
cảm xúc và kinh nghiệm sống. Khi phân tích Noesis sẽ làm xuất hiện nội dung đối
tượng có tính ý hướng và Noesis khẳng định ý thức thật sự giả định một cái gì đó, tồn
tại một nội dung đối tượng nào đó.
Nội dung ý hướng (Noema-xuất phát từ chữ Hy Lạp “νόημα” có nghĩa là "suy
nghĩ") là khái niệm cho phép xem xét cụ thể hơn nội dung đối tượng. Noema là nội
dung độc đáo, vốn có của ý thức, bất kì ý thức nào cũng có cái “gì đó” của mình giả
định, tức là sự “hoài nghi phổ biến”, tưởng tượng, tức là “có nội dung đối tượng của
mình”. Theo Husserl, điều này có nghĩa rằng, ý thức có nội dung hay có
nghĩa(Noema). Không nên lẫn lộn nghĩa(Noema) với nội dung đối tượng hiện thực
được hiểu theo nghĩa tâm lý học. Theo Husserl, Noema, tức nội dung đối tượng của ý
thức, có thể là các sự vật, tha nhân, đặc điểm tâm lý, trực giác, trạng thái tâm lý,.v.v..
Với tư cách Noema(nội dung), đối tượng ý hướng là một điểm thống nhất độc đáo của
ý thức, là tác nhân của vô số nội dung đối tượng và gọi chung là “tính chủ quan”.
Trong đó Hành vi ý hướng(Noesis) là hành vi mà ở đó, chúng ta xác định Nội dung ý
hướng(Noema) để tiến tới “dựng” nên khách thể (sự vật); nói một cách dễ hiểu, nó là
ý nghĩa được tạo ra trong hành vi hướng tới một khách thể của chủ thể; Nội dung ý
hướng là sự tổng hợp những đặc điểm mà cái tôi thuần túy của chúng ta có được về sự
6
Nous là sự hiểu biết, trí tuệ hoặc nhận thức cho phép con người suy nghĩ hợp lý. Đối với Aristotle, điều này
khác với việc nhận thức bằng các giác quan-kinh nghiệm, nó bao gồm cả việc sử dụng trí tưởng tượng và trí
nhớ, kết nối những người tham gia thảo luận có thể thiết lập các định nghĩa một cách nhất quán và có thể giao
tiếp, chính vì vậy mọi người đều được sinh ra với một số tiềm năng bẩm sinh để hiểu cùng một loại phổ
quát theo cùng một cách logic.
Trong triết học, các bản dịch tiếng Anh thông dụng bao gồm "hiểu biết" và "tâm trí"; hoặc đôi khi " suy nghĩ "
hoặc " lý do " (theo ý nghĩa của lý do đó, không phải là hoạt động của lý luận).
16
vật tại cùng một thời điểm trong hành động hướng đến sự vật ở trạng thái hiện thời.
Khác với tâm lý học, hiện tượng học không phân tích các phương diện kinh nghiệm
hiện thực, mà phân tích các kinh nghiệm lý tưởng, tức là ý hướng của cảm năng(thẩm
mỹ).
Hành vi ý hướng
“ý thể thuần túy”
Nội dung ý hướng
“khái niệm, biểu
tượng”
Nhận thức
Tính chủ quan nói
chung
Hình 1.2. Tính ý hướng
Mọi cái lý tưởng ở Husserl đều thành “cái chủ quan”7, nhưng cái chủ quan ấy có hình
thức hay mô thức của cái khách quan. Husserl đánh giá rất cao cái chủ quan này của
mỗi người, nó là định hướng, kim chỉ nam mang tính nhất quán cho vấn đề nhận thức.
Và giờ đây trên tất cả chúng ta thấy rằng Hiện tượng học lại quay về theo phương
hướng của chủ nghĩa Tiên nghiệm- Kant. Thế giới tiên nghiệm của Kant là thế giới
đầy sắc thái do ý thức của mỗi chủ thể tạo thành, với ý tưởng cho rằng ý thức bắt đầu
được hình thành từ các chủ thể tiên nghiệm do thế giới “vật tự nó” kích thích, hay nội
7
Cái chủ quan ở đây được hiểu là sự lập dị của trí tuệ, sự hiểu biết của cá nhân. Đây là một trong những vấn
đề mà khi Bacon muốn nhìn lại về triết học Aristotle, ông có bàn về những sai lầm của con người khi truy
tìm tri thức. Trước đó hàng thế kỷ, Aristotle có bàn đến về ảo tưởng logic, thường thấy trong các suy luận,
nhưng Bacon tìm thấy những nguyên nhân tâm lý đằng sau những suy luận. Đây chính là các ngẫu tượng, trong
đó ngẫu tượng có thể hiểu như là các yếu tố - lập dị trí tuệ của cá nhân.
17
dung ý thức có được là do yếu tố bên ngoài tác động. Kant vạch ra rằng, chủ thể (ý
thức) sở hữu một hệ thống các mô thức tiên nghiệm(a priori), ma trận này định trước
tính thực tại, sắp xếp những phản ánh của tri giác(nhận thức) và không phụ thuộc cảm
tính-kinh nghiệm dù có được thỏa mãn hay không, Theo Kant cảm năng 8 và giác tính
không chỉ là năng lực nhận thức của chủ thể, mà bản thân chúng còn thuộc về cấu trúc
bên trong, cấu trúc tiên nghiệm của chủ thể nhận thức, chủ thể nhận thức là nhận thức
kinh nghiệm, chứ không phải nhận thức thế giới bên ngoài.
Trong khi đó, khi thừa nhận “tính ý hướng” là ý thức “tạo dựng” nên các sự
vật, Husserl đặt vấn đề: “Ý thể” hay ý thức của con người hướng tới một đối tượng
xác định, nhưng tại sao có những đối tượng giống nhau mà ý nghĩa của nó đối với mỗi
người lại khác nhau. Husserl lý giải hiện tượng này là do Hành vi ý hướng trong ý
thức của con người tạo ra đối tượng bên trong, chứ không phải đối tượng bên ngoài
quy định ý thức của con người về bản thân đối tượng đó. Theo ông, những ý đồ hay ý
tưởng được định hình trong đầu óc con người đều hướng tới một đối tượng xác định
nào đó, vì thế, thông qua Hành vi ý hướng(cảm xúc và kinh nghiệm sống), chúng ta có
thể xác định được Nội dung ý hướng(suy tư, trạng thái, đặc điểm, tha nhân,.v.v. ) và
đối tượng(tư tưởng) mà “ý thức” hướng đến. “Chúng ta có thể hình dung sơ đồ hiện
tượng học của Husserl như hình 1.2: “Trong đầu óc của chúng ta hình thành những
biểu tượng hay kết cấu về sự vật, tức là “ý thể thuần túy” hay ý thức có xu hướng “vận
động theo cái tôi, cái suy tư, kinh nghiệm của chủ thể”; tiếp theo, chúng ta giải nghĩa
các Hành vi ý hướng đó (thông qua việc tổng hợp tất cả những đặc tính của sự vật
trong đầu óc chúng ta “kinh nghiệm sống trải” và hình thành những tư tưởng, tưởng
tượng,..), tức là tập hợp những đặc tính của khách thể, nhờ đó, chúng ta mới có thể nói
về đối tượng tồn tại trong hiện thực như thế nào. Do vậy, không thể có bất kỳ một
động cơ-hành vi ý hướng nào mà lại thiếu đối tượng: “Chỗ độc đáo của Husserl là
vạch ra ý nghĩa của nhận xét này: nếu không thể có một màu sắc mà không có một bề
8
Để nhận thức một cái gì đó, trước hết ta cần 5 giác quan, Kant gọi chung cho 5 quan năng này là Cảm năng-
Chú giải dẫn nhập “Phê phán lý tính tuần thúy, 2004, tr 104.
18
mặt, thì kết quả là: bản chất của màu sắc là chỉ xuất hiện trên một bề mặt... cho dù
chúng tôi có tha hồ tưởng tưởng bao nhiêu màu sắc trong bao nhiêu hình thức đi nữa,
thì tôi cũng không bao giờ xóa được cái bề mặt, vì màu sắc sẽ biến mất lập tức”[1;
tr.442-443], tức là mọi hành vi của chúng ta đều hướng đến một đối tượng theo cảm
năng-chủ quan của mỗi cá nhân: “Năng lực tiếp thu các biểu tượng bằng phương pháp
nào đó, để chúng ta được có các đối tượng kích động gọi là Cảm năng(sinn-lichkeit).
Vì thế nhờ cảm năng, những đối tượng mang lại cho ta những trực quan (màu sắc,
hình dạng,..) ; trong khi đó nhờ giác tính những đối tượng được suy tưởng và từ giác
tính những khái niệm ra đời”[Kant, B34, phê phán lý tính thuần thúy]. Ngay cả hoạt
động tình cảm của chúng ta cũng hàm chứa trong đó một đối tượng xác định, bởi
chúng ta không thể buồn hoặc vui một cách vô cớ, mà bao giờ cũng có nguyên nhân
của nó, tức là một đối tượng cụ thể mà ý thức của chúng ta hướng tới: “Những tư
tưởng không có nội dung (chất liệu) thì trống rỗng, những trực quan (biểu tượng về
hiện tượng) không có khái niệm thì mù quáng”[15, B74, tr.104].
Với quan niệm coi ý thức là cái “tạo dựng” nên bản thân sự vật, Husserl coi
toàn bộ thế giới hiện thực và các sự vật là do ý thức, ý đồ chủ quan của con người sắp
đặt, “tạo dựng” và vì lẽ đó, mỗi chủ thể khác nhau lại có cảm nhận khác nhau về thế
giới xung quanh và đối tượng mà ý thức của họ hướng tới; nói cách khác, cùng một
đối tượng, nhưng với mỗi người, nó lại có ý nghĩa khác nhau. Và nếu không có “hành
vi ý hướng” của con người thì sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng đều vô nghĩa. Ở
đây, Husserl đã sử dụng cụm từ “tính ý hướng” để nói rằng, trong ý thức luôn có
những phần khác nhau, hay mỗi chúng ta đều có “cảm năng- thẩm mỹ”9 làm cho thế
giới sinh động, ẩn chứa suy tư của chủ thể, chúng tương tác với nhau để tạo nên kinh
nghiệm của chúng ta về sự vật. Husserl: “Cả thế giới thời gian và không gian, bao gồm
con người và tính tự ngã của con người, xét về ý nghĩa mà nói, là một thứ tồn tại của ý
9
Cảm năng “Aethetisch” bắt nguồn từ gốc Hy Lạp “aistbesis” và chỉ có nghĩa là “tri giác”- la tinh “percipio”.
Sau đó nó thêm một nghĩa thứ hai phát sinh nghĩa là “Thẩm mỹ” do công của Baumgarten thêm vào để xây
dựng môn Mỹ học. Khác với Kant, dùng “Cảm năng” với nghĩa là tri giác, thì tôi dùng với nghĩa là “Thẩm mỹ”.
19
đồ. Nói thế cũng có nghĩa là, thế giới này đối với ý thức chỉ là cái có sau, có ý nghĩa
tồn tại tương đối. Nó là tồn tại của ý thức được bố trí trong kinh nghiệm. Sự tồn tại
như vậy, về nguyên tắc, chỉ là cái nhất trí trong biểu tượng ý thức mà nhiều người có
thể cảm nhận và quy định. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì khác” [15; tr.485], nghe rất
Kant ở đây: “Mọi trực quan của ta không khác gì hơn là biểu tượng về hiện tượng. Ta
trực quan về sự vật không phải là trực quan về tự thân chúng, cũng không phải trực
quan các quan hệ theo bản tính tự thân của chúng, mà như chúng xuất hiện ra cho ta.
Nếu ta thủ tiêu chủ thể của ta hay chỉ thủ tiêu tính cấu tạo chủ quan của giác quan nói
chung, thì mọi thuộc tính, mọi mối quan hệ của đối tượng trong không gian và thời
gian cũng sẽ biến mất cả, chúng không thể tồn tại tự thân mà chỉ tồn tại trong ta”[15,
B59, tr.124].
Husserl cùng các môn đệ của ông và các nhà tâm lý học đã tạo nên trường phái
Hiện tượng học Muenchen10, tích cực xuất bản “Niên giám trết học và nghiên cứu hiện
tượng học”. Đối với hoạt động nghiên cứu các hiện tượng(Phenomena), Husserl đòi
hỏi nhà nghiên cứu phải có phương pháp và chính ông đã xây dựng một hệ phương
pháp đặc thù riêng đó là “Quy giản hiện tượng học” để hướng dẫn cách thức trở về với
tâm thế tự thân. Phương pháp quy giảm hiện tượng học là phương pháp loại bỏ dần
dần cái “tâm thế tự nhiên”, chiêm nghiệm tự nhiên để tâm chung vào kết cấu thuần túy
của ý thức, cái này chúng ta gọi là “Cái tôi tiên nghiệm”. “Cái tôi tiên nghiệm là cái
đạt được sau khi chúng ta làm phương pháp quy giảm hiện tượng học, bóc tách dần
những nguyên tắc, thành kiến, đã làm cho các quan điểm khác nhau, kết quả cuối cùng
đó là cái tôi tiên nghiệm. Nó xuất hiện ở giai đoạn cuối nhận thức, là suy tư của bản
thân. Cái tôi mang cho mình ý nghĩa về thế giới hiện có và tiền đề tất yếu đó là cái tôi
tiên nghiệm và là nền tảng của hiện tượng học, cái tôi tiên nghiệm chủ quan là sự
thống nhất của những trải nghiệm thuần túy...”11.
10
Muenchen, thủ phủ của tiểu bang Bayern, là thành phố lớn của Đức sau Berlin và Hamburg và là một trong
những trung tâm kinh tế, giao thông và văn hóa quan trọng nhất của Cộng hòa Liên bang Đức.
11
Nguyễn Vũ Hảo, Hội thảo khoa học kỉ niệm 100 năm ngày sinh Gs.Trần Đức Thảo, 2017.
20
Từ năm 1916 đến 1938 Husserl sống ở Freiburg là Giáo sư Đại học Freiburg
cho tới 1928. Các nhà triết học như Heidegger12, E.Levinas, ..là những người có quan
hệ thân thiết với ông. Tại đây Husserl đã chỉnh lý bài giảng của mình và đem in, với
nhiều tác phẩm ở giai đoạn này như “Logic học hình thức và logic học siêu việt 1929,
Kinh nghiệm và phán đoán 1930, và đặc biệt là Những suy ngẫm về Descarter. Năm
1927 một học trò tài năng nhất của ông, Heidegger đã công bố tác phẩm “Tồn tại và
thời gian”, kể từ đó Huserl đã cạch mặt cậu học trò này và đến năm 1928 ông bỏ tước
hiệu giáo sư về ở ẩn. Trước những khủng hoảng xã hội và lịch sử nhân loại, vào năm
1935 ông gửi một loạt báo cáo đề cập đến sự khủng hoảng tinh thần và tồn tại người
trong thế giới hiện đại. Tại Belgrat13, năm 1936 đã xuất bản cuốn sách của Husserl “Sự
khủng hoảng của các khoa học Châu âu và hiện tượng học tiên nghiệm”. Từ đây một
khái niệm vô cùng quý giá và cũng mang đầy tính mạo hiểm được Hiện tượng học đặt
ra đó là “Thế giới sống”, một khái niệm như là sự trở về với hiện thực với đầy “suy tư”
chất chứa. “Thế giới sống, theo Husserl là “thế giới hiện thực cụ thể”, là thực tại xung
quanh chúng ta và bao hàm chúng ta, là cơ sở tồn tại và viễn cảnh đối với bất kì thực
tiễn lý luận và thực thực tiễn nằm ngoài lý luận nào”14. Đó cũng là quãng cuộc đời
Husserl đang trải qua cuộc khủng hoảng tinh thần ở Châu Âu và chính ông vẫn tin
tưởng, xã hội Châu Âu sẽ phục sinh từ đống tro tàn của “hoài nghi, mệt mỏi và thất
vọng”.
Tuy vậy, những khái niệm chủ đạo của Hiện tượng học 15mà tôi đã nêu lên ở
trên chỉ mang tính chất định tính, chủ yếu tham khảo từ các bài giảng và các trang giáo
12
Heiderger (26 tháng 9 năm 1889 – 26 tháng 5 năm 1976)là một triết gia Đức. Ông chịu ảnh hưởng của triết
học Brentano, sau khi nghiên cứu, ông quyết định tìm hiểu ý nghĩa của khái niệm tồn tại và cấu trúc bản thể của
tồn tại người. Ông từng là học trò và là trợ giảng cho Husserl, sau đó đã kế tục Husserl giảng dạy triết học tại đại
học tổng hợp Freiburg.
13
Belgrat là một xã thuộc huyện Çatalca, tỉnh Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
14
Nguyễn Vũ Hảo, Giáo trình Triết học phương tây hiện đại, Nxb Đại học quốc gia, 2016, tr145.
15
Và giờ đây trên tất cả chúng ta thấy rằng Hiện tượng học lại quay về theo phương hướng của chủ nghĩa Tiên
nghiệm- Kant. Thế giới tiên nghiệm của Kant là thế giới đầy sắc thái do ý thức của mỗi chủ thể tạo thành, với ý
tưởng cho rằng ý thức bắt đầu được hình thành từ các chủ thể tiên nghiệm do thế giới “vật tự nó” kích thích, hay