Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn thành phố buôn ma thuột, tỉnh đắk lắk

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (928.12 KB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/.…….

BỘ NỘI VỤ
…../ ….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ NGỌC HƯNG

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT,
TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG

0

ỘT, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
………/.…….

BỘ NỘI VỤ
…../ ….

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

VŨ NGỌC HƯNG

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ


NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT,
TỈNH ĐĂK LĂK
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Mã số: 60 34 04 03

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS-TS NGUYỄN THỊ THU VÂN

1


LỜI CAM ĐOAN
Bằng văn bản này, tác giả xin cam đoan rằng các nội dung được trình
bày trong Luận văn trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở - từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk là công
trình nghiên cứu khoa học độc lập của tác giả.
Tác giả xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu do chính
tác giả thực hiện. Các số liệu trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực và được
tác giả chú thích rõ ràng.
Tác giả

Vũ Ngọc Hưng

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
QCDC

: Quy chế dân chủ.


XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

MTTQ

: Mặt trận Tổ quốc

3


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ................................................................ 3
MỤC LỤC ........................................................................................................ 4
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ

NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ .................................... 12
1. Những vấn đề chung về dân chủ cơ sở .......................................................... 12
1.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện dân chủ
cơ sở. ........................................................................................................................
.............................................................................................................................. 22

1.3. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ cơ sở
ở xã, phường, thị trấn .......................................................................................... 30
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, ĐĂK LĂK ........................................ 39
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế-xã hội .......................................... 39
2.2. Khái quát về quá trình triển khai và kết quả thực hiện dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, Tỉnh Đăk Lăk.................................... 44
2.3. Kết quả khảo sát về thực trạng trách nhiệm của cơ quan quảnlý nhà nước;
cán bộ, công chức cấp xã trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành
phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk. ................................................................... 62
2.4. Đánh giá chung về hạn chế, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong
trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk ............................................ 68

4


CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TRÁCH NHIỆM CỦA
CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, ĐĂK
LĂK. ............................................................................................................. 733

3.1. Phương hướng thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Buôn
Ma Thuột, Đăk Lăk. .......................................................................................... 733
3.2. . Một số giải pháp nâng cao trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước
về thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn thành phố. .......................................... 76
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 108

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với tư cách là một thiết chế chính t r ị - x ã hội, một hình thức nhà nước,
dân chủ có mối quan hệ hữu cơ với pháp luật. Nền dân chủ chúng ta đã và đang
phấn đấu xây dựng là nền dân chủ triệt để, trong đó nội dung cơ bản nhất là
toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân. Mặt khác, dân chủ phải đi liền với kỷ
cương, pháp chế. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có sự kết hợp hài hoà
giữa quyền và trách nhiệm, gắn lợi ích cá nhân với lợi ích của sự phát triển xã
hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ". Câu
nói toát lên sự đồng nhất, tính xuyên suốt của những vấn đề xoay xung quanh
chữ DÂN. Với ý nghĩa đó, dân là "tất cả". Bắt đầu từ DÂN, mọi việc do DÂN,
kết cục vì DÂN. DÂN vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng. DÂN
là chủ thể xuyên suốt, là động lực quyết định mọi sự phát triển: "mọi việc do
dân".
87 năm qua, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, giữa
Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ, nhất là dân
chủ ở cơ sở trong mọi hoạt động đời sống xã hội.

Quá trình thực hiện dân chủ ở cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể nhận
thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, phát huy được quyền làm chủ trực
tiếp của cán bộ, công chức, người lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào
công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết
trong cơ quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan
trọng để hoàn thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Tìm hiểu việc thực hiện dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng trong việc
đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm nâng cao
ý thức thực hiện pháp luật của người dân trong quá trình thực hiện dân chủ ở
6


cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật”, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở với quyền tham gia ngày một rộng
rãi, bình đẳng và thiết thực của nhân dân vào việc quản lý xã hội của Nhà nước
là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những cố gắng và thành tựu bước đầu đạt được, việc thực hiện
dân chủ trên từng địa phương còn có những hạn chế, tình trạng vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều, có khi nghiêm trọng; những biểu hiện
quan liêu, tham nhũng, tiêu cực không được phát hiện và đấu tranh ngăn chặn,
khắc phục kịp thời, làm giảm lòng tin, gây bất bình trong nhân dân, dẫn đến
khiếu kiện kéo dài hoặc vượt cấp. Đây cũng là những hạn chế trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk.
Vì vậy, trong chỉ đạo thực hiện Quy chế và Pháp lệnh thực hiện dân chủ
ở cơ sở, Chính phủ đã nhấn mạnh hai phương hướng là:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt, học tập và nâng cao nhận thức, ý thức và
năng lực thực hành dân chủ cho cán bộ và nhân dân. Thứ hai, nâng cao năng
lực tổ chức thực hiện Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở cơ sở cho cán bộ trong hệ

thống chính trị; nhất là trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước ở xã,
phường. Trong bài viết này chúng tôi sẽ đi sâu phân tích để làm sáng tỏ và cụ
thể thêm phương hướng thứ hai.
Với những lý do trên, trong luận văn luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản
lý công này, học viên tìm hiểu để làm sáng tỏ và cụ thể thêm phương hướng
thứ hai nêu trên với đề tài: “Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong
thực hiện dân chủ ở cơ sở - từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk
Lăk”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Sách.
Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo: “Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ
nghĩa’’, NXB Sự thật, Hà Nội, 1991; Nguyễn Khắc Mai: “Dân chủ - di sản văn
7


hóa Hồ Chí Minh”, NXB Sự thật, Hà Nội 1997; Nguyễn Đình Lộc: “Tư tưởng
Hồ Chỉ Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân Lương Gia Ban: “Dân chủ
và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”,NXB CTQG, Hà Nội, 2003...
TS. Đỗ Văn Dương-Ths Lê Duyên Hà: Lý luận và thực tiễn về pháp luật
thực hiện dân chủ cấp xã ở các tỉnh Tây Nguyên, Việt Nam-NXB Chính trị năm
2012.
Các công trình này tập trung làm rõ giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa, đánh giá
khách quan những thành quả, tiến bộ mà chủ nghĩa tư bản có được cũng như
chỉ ra hạn chế do bản chất giai cấp tư sản quy định.
Những tác phẩm này đã nêu rõ thành công, hạn chế trong xây dựng và
thực hiện nền dân chủ ở các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở Việt Nam. Nêu ra những nguyên nhân, hạn chế và giải pháp khắc
phục.
2.2 Tạp chí.

Hoàng Chí Bảo: “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ:
Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”,Tạp chí Thông tin lý luận, số
9-1992; Trần Quang Nhiếp: “Thực hiện dân chủ ở cơ sở là một hệ giải pháp
đồng bộ thống nhất”, Báo Đại Đoàn kết, ngày 1-12-1997; PGS, TS Hoàng Văn
Hảo: “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số
2/2003...
Những bài viết trên bổ sung nhận thức mới, đề xuất cách làm mới để xây
dựng, thực hiện dân chủ ở cơ sở phù hợp với đặc điểm lịch sử, truyền thống
của dân tộc, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
2.1.Công trình luận án, luận văn
Luận án: Lưu Minh Trị: “Đổi mới và kiện toàn hệ thống chỉnh trị ở cơ sở
nông thôn ngoại thành Hà Nội (cấp xã) trong giai đoạn hiện nay ”, Luận án
tiến sĩ, 1993; Nguyễn Văn Long: “Lệ tổ dân phố truyền thống với việc hình
8


thành ý thức pháp luật cho nông dân Việt Nam thời kỳ đổi mới ”, Luận án tiến
sĩ, 2002...
Luận văn: Trần Quốc Huy: Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở
ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật, Hà Nội, 2005; Lê Xuân Huy: Ý
thức pháp luật với quả trình thực hiện dân chủ ở nông thôn nước ta hiện nay
(Qua thực tế một số tỉnh phía Bẳc), Luận văn thạc sĩ Triết học, 2005.
Có thể thấy, đã có nhiều công trình viết dân chủ, dân chủ ở cơ sở với phạm
vi nghiên cứu khác nhau, có giá trị nghiên cứu khác nhau, làm rõ bản chất, nội
dung, tính chất, cơ chế thực hiện dân chủ và vai trò của việc mở rộng quyền
làm chủ của nhân dân đối với sự phát triển kinh tế xã hội và tiến bộ xã hội. Một
số công trình đã nghiên cứu vấn đề dân chủ ở cơ sở trên địa bàn nông thôn. Tuy
nhiên chưa có Đề tài nào tìm hiểu sâu về “Trách nhiệm của cơ quan quản lý
nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở - từ thực tiễn thành phố Buôn Ma

Thuột, tỉnh Đăk Lăk”.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Trên cơ sở những vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở đề xuất những quan điểm,
giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở xã,
phường trong thực hiện dân chủ - từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh
Đăk Lăk;
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Phân tích những vấn đề lý luận về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà
nước trong thực hiện dân chủ: Các khái niệm có liên quan, nội dung, hình thức,
quy định pháp lý về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện
dân chủ ở cơ sở.
- Khảo sát thực trạng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, cán

bộ, công chức trong thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố Buôn Ma
Thuột (Đăk Lăk), đánh giá thành công, hạn chế, nguyên nhân.
9


- Xác định các quan điểm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao

trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
- từ thực tiễn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk trong thời gian tới.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của luận văn
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trách nhiệm của các cơ quan
quản lý nhà nước ở cơ sở trong việc thực hiện dân chủ tại xã, phường trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk.
- Về thời gian: Luận văn tìm hiểu quá trình xây dựng quy định của cơ quan
nhà nước ở trung ương và thực tiễn thực hiện quy định về thực hiện dân chủ tại

địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk từ khi có Chỉ thị số 30-CT/TW
ngày 18-2-1998 của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở đến nay.
- Về phạm vi nghiên cứu và số liệu tham khảo và khảo sát thực trạng
trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột được thực hiện trong nhiệm kỳ 20112015 và 02 năm 2016 và năm 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng về nhà nước và pháp luật, về thực hiện dân chủ
ở cơ sở.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích

tổng hợp, thống kê và so sánh, phương pháp lịch sử và phương pháp điều tra,
khảo sát đối với 150 cán bộ, công chức trên địa bàn 8 xã và 13 phường trên địa
bàn thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk (có biểu mẫu).
5. Đóng góp của luận văn
- Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về dân chủ ở cơ sở và trách

nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước trong thực hiện dân chủ ở cơ sở.
- Làm rõ thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở và trách nhiệm thực hiện dân

10


chủ ở cơ sở của chính quyền cấp xã trên địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột
(Đăk Lăk).
- Nêu quan điểm và một số giải pháp có tính khả thi để nâng cao trách


nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn thành phố Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk); nhất là HĐND, UBND và Ủy
ban Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị -xã hội ở xã, phường trong giai
đoạn hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về dân chủ và ý nghĩa của việc thực hiện dân
chủ ở cơ sở của các cơ quan quản lý nhà nước.
Chương 2: Thực trạng thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan quản lý nhà nước về thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk.

11


CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
1. Những vấn đề chung về dân chủ cơ sở
1.1. Khái niệm dân chủ và dân chủ cơ sở
1.1.1 Khái niệm dân chủ
- Thuật ngữ “dân chủ” ra đời từ thời Hy Lạp cổ đại. Theo tiếng Hy Lạp
cổ, dân chủ là do hai từ họp thành, “demos” là nhân dân và “kuatos” là quyền
lực hay chính quyền. “Demoskratia” - dân chủ - có nghĩa là quyền lực thuộc về
nhân dân. Dân chủ, “là một trong những hình thức chính quyền mà điều đặc
trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa
nhận quyền tự do bình đẳng của mọi công dân”[44].

Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, dân chủ là "hình thức tổ chức thiết
chế chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền
lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng
vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định..." [42;653].
Như vậy, dân chủ được coi là tiêu chí đánh giá cách thức, trình độ tổ
chức và thực hiện quyền lực nhà nước đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân. Song vấn đề dân chủ luôn là vấn đề phức tạp, có nội dung rộng lớn,
luôn luôn mới, gắn với những tiến bộ về lịch sử và văn hóa của loài người. Để
nghiên cứu, hiểu rõ bản chất, tính chất và nội dung của dân chủ phải xem xét
nó dưới các góc độ, khía cạnh khác nhau.
Bản thân thuật ngữ dân chủ được tiếp cận dưới nhiều góc độ: Dân chủ là
một hình thái nhà nước; dân chủ là một hiện thực chính trị; dân chủ là một hiện
thực kinh tế, một hiện thực xã hội và dân chủ là một trạng thái của hệ thống
quan hệ quốc tế. Nếu xét theo trình độ phát triển của lịch sử nhân loại thì có
các nền dân chủ: dân chủ chủ nô, dân chủ tư sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Về
mặt phạm vi, dân chủ rất toàn diện, bao quát các lĩnh vực đời sống xã hội, từ
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa tư tưởng; từ các mối quan hệ giữa con người
12


với con người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với Nhà
nước, giữa các tổ chức và thể chế hiện hành, giữa các quốc gia trong quan hệ
quốc tế.
Hiện nay, với quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, dân chủ còn được hiểu
như là phương thức, cách thức tổ chức, là thước đo số cá thể (cá nhân, tổ chức)
tham gia vào quá trình xã hội hóa công nghệ, tài chính, thông tin, văn hóa.
Song, dù tiếp cận dưới góc độ nào thì thực chất nội dung, tính chất và khuynh
hướng phát triển của dân chủ là hoàn toàn phụ thuộc ở chỗ quyền lực chính trị
thuộc về ai, phục vụ ai trong mối quan hệ, trong cộng đồng và xã hội đó.
Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã

hội, năng lực nhận thức của công dân và chính quyền, truyền thống lịch sử, văn
hóa, pháp lý... Dân chủ là mục tiêu, động lực phát triển của quốc gia, dân tộc.
Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người
trong đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ
và quyền làm
Tóm lại, dân chủ là chính quyền thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể
của quyền lực nhà nước. Nhà nước dân chủ là nhà nước thừa nhận, bảo đảm
các quyền tự do và bình đẳng của công dân.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tưởng Hồ Chí Minh về
dân chủ.
Dân chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền trong lịch sử
nhận thức và thể chế thành pháp luật thực định cùng các thiết chế chính trị - xã
hội khác. Song, chỉ đến khi nền dân chủ vô sản - dân chủ xã hội chủ nghĩa ra
đời, thì đó mới là chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự
đảm bảo thực hiện của pháp luật, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân và vì dân.
- Dân chủ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hiện tượng
lịch sử gắn liền với xã hội có giai cấp và được biến đổi dưới nhiều hình thức
khác nhau trong điều kiện tương ứng của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong
13


xã hội xã hội chủ nghĩa, “dân chủ” có một chất lượng mới do được phát triển
đầ y đủ trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, nhờ đó con người được giải
phóng và phát triển toàn diện. Trong đó, “sự phát triển của mỗi người là điều
kiện phát triển tự do của tất cả mọi người” [5;51].
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin dân chủ trước hết là một hình thức Nhà
nước. V. I Lênin viết: “Chế độ dân chủ, đó là một Nhà nước thừa nhận việc
thiểu số phục tùng đa số, nghĩa là sự tổ chức đảm bảo cho một giai cấp thi hành
bạo lực một cách có hệ thống chống lại giai cấp khác”[32;101] . Vì vậy, dân

chủ luôn mang tính giai cấp, nó tồn tại và biến đổi cùng với sự biến đổi của
cuộc đấu tranh giai cấp và sự thay đổi của phương thức sản xuất chủ yếu của
xã hội. Dân chủ xã hội chủ nghĩa là một hiện tượng hợp quy luật, là bước phát
triển cao hơn về chất so với các kiểu dân chủ khác và bản chất của dân chủ xã
hội chủ nghĩa là giải phóng con người, để con người có thể thực hiện được
những quyền tự nhiên của mình, tự làm chủ vận mệnh và quyết định những vấn
đề xã hội.
Theo C.Mác, dân chủ xã hội chủ nghĩa thực chất là chế độ “do nhân dân
tự quy định Nhà nước”, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực Nhà nước.
Nhân dân tự tổ chức quyền lực nhà nước qua bầ u cử, tham gia quản lý và quyết
định những vấn đề quan trọng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước thông
qua hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Lênin đã khái quát quyền
dân chủ trong lĩnh vực chính trị của dân thành ba nội dung lớn: Quyền bầ u cử,
quyền tham gia quản lý các công việc của Nhà nước và quyền bãi miễn.
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân chủ xã hội chủ nghĩa có những đặc điểm
cơ bản sau:
+ Dân chủ cho nhân dân lao động.
+ Dân chủ thực sự.
+ Dân chủ toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn
hóa...thực chất của dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự tham gia một cách thực sự
bình đẳng và ngày càng rộng rãi của những người lao động vào quản lý công
14


việc Nhà nước và xã hội. Thống nhất được quyền và nghĩa vụ của công dân
trong mối quan hệ với Nhà nước. Vì vậy, nó trở thành mục tiêu và động lực của
sự phát triển xã hội.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ:
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Hồ Chí
Minh lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ

hiểu, dễ thực hiện và kiểm soát. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức
là dân làm chủ”[35;251], “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”[36;256]. Người viết: “Nước ta là nước dân chủ bao nhiêu lợi ích
đều vì dân,bao nhiêu quyền hạn đều của dân công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên nói tóm lại, quyền hành và lực lượng
đều ở nơi dân”[37;698]. Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lõi trong
khái niệm “dân chủ” của Hồ Chí Minh. Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ
bản mà nhân loại thừa nhận: dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
Song nghiên cứu về dân chủ, chúng ta phải đứng trên quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, khi dùng khái niệm “nhân dân” không bao giờ được đánh
đồng các giai cấp, tầng lớp. Vì dân chủ gắn liền với xã hội có giai cấp, khái
niệm dân có thể thay đổi về số lượng, chất lượng và đối tượng tùy theo tính
chất của một xã hội trong từng thế kỷ, từng nấc thang phát triển nhất định.
Có thể nói, khái niệm dân chủ đồng nhất với khái niệm nhân dân, dân
chúng, quần chúng nhân dân.Và việc thực hiện cho được “dân là chủ, dân làm
chủ” đấy chính là thực hiện sứ mệnh lịch sử, vai trò to lớn của quần chúng nhân
dân, bởi vì quần chúng nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng,
là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và sáng tạo ra những giá trị tinh
thần, nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của nhân loại.
1.1.3. Khái niệm dân chủ cơ sở
Quá trình phát triển của dân chủ diễn ra như là một dòng chảy liên tục trong
lịch sử, rất sinh động và phức tạp, luôn được nhiều học giả và nhà hoạt động
15


chính trị trên thế giới luận bàn. Quá trình ấy đã được khái quát thành những
hình thức và được biểu đạt bằng các khái niệm khoa học, như: dân chủ đại diện
(representative democracy), dân chủ gián tiếp (lndirect democracy), dân chủ
trực tiếp (direct democracy), dân chủ tham gia (participatory democracy), dân

chủ thảo luận (deliberative democracy), dân chủ cơ sở (grassroots democracy)
v.v…
Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ
thống cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có
tư cách như một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn
bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một công
dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao động,
học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường, cơ quan,
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở... nơi diễn ra các quan hệ nhiều mặt giữa
các tầng lớp nhân dân.
Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên
tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa,
được tổ chức thành 4 cấp: Trung ương, tỉnh, thành phố và xã (cơ sở) là cấp cuối
cùng. Xã, phường là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường
lối của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách
quan. Dân chủ, với ý nghĩa tối cao nhất là quyền tự nhiên của con người được
thực hiện trước hết là ở cơ sở. Nhân dân có quyền được biết, được bàn và được
tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động diễn ra ở cơ sở. Dân
chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hình thức gián tiếp và dân chủ trực tiếp, là
hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể
hiện ý chí, nguyện vọng đối với những vấn đề về tổ chức và hoạt động ở cơ sở.
Dân chủ trực tiếp là hệ thống chỉ báo nhạy cảm nhất những vấn đề về chính trị,
kinh tế, văn hóa. Dân chủ trực tiếp giúp cho Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm
chính sách pháp luật một cách nhanh nhất, sát với thực tế khách quan, khắc
16


phục bệnh chủ quan, duy ý chí, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa chính
quyền với nhân dân.

Tăng cường dân chủ là xu hướng phát triển tất yếu đối với nền chính trị
của các quốc gia trên thế giới hiện nay. Thực hiện dân chủ cơ sở là giải quyết
đúng đắn vấn đề dân chủ đang được đặt ra: mở rộng dân chủ và phát huy cao
độ quyền làm chủ trực tiếp của người dân từ cơ sở, đẩy mạnh chiều sâu dân chủ
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến vị thế
của người dân ở cơ sở, trước hết và chủ yếu là các tầng lớp nhân dân lao động,
những người lao động chân tay và lao động trí óc đang hàng ngày làm ra mọi
của cải vật chất và của cải tinh thần để bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển.
Nhân dân lao động là những người trực tiếp đối đầu với thách thức của đời
sống, luôn nhạy cảm với mâu thuẫn nảy sinh trong đời sống hiện thực; nhân
dân lao động cũng là lực lượng trực tiếp giải quyết những mâu thuẫn ấy để đảm
bảo cho xã hội ổn định, phát triển vả phát triển bền vững...
Các quy định về thực hiện dân chủ ở cơ sở của Nhà nước ta mới chỉ thể
chế đối với cơ sở ở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn. Trong đó, dân chủ ở xã, phường là một nội
dung quan trọng, chủ yếu đề cập đến thực hiện dân chủ ở cấp cơ sở trong hệ
thống chính quyền 4 cấp ở nước ta theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Còn rất nhiều loại hình cơ sở khác chưa có quy định về thực
hiện dân chủ đặt ra cho Đảng, Nhà nước yêu cầ u tiếp tục được nghiên cứu, bổ
sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là hoạt động có mục đích làm cho những quy
định của pháp luật về thực hiện dân chù cơ sở đi vào cuộc sổng nhằm phát huy
cao độ quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế, văn
hoá - xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội giàu đẹp, công bằng, dân chủ,
văn minh, xây dựng hệ thống chỉnh trị ở cơ sở trong sạch, vững mạnh.
1.1.4 Vai trò của việc thực hiện dân chủ cơ sở.
Thứ nhất, thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần hiện thực hóa các quan
17



điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân chủ trong thực tiễn
đời sống của nhân dân ở cơ sở.
Đảng ta xác định: Dân chủ cơ sở là nền tảng, dân chủ ở trung ương có
tính chất quyết định đối với việc xây dựng chính quyền của dân. Tổng kết 30
năm đổi mới. Bên cạnh những thành tựu, kết quả đạt được, Đại hội XII của
Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém trong thực hành, phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong những năm qua: Nhận thức về dân
chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Tình trạng
tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, pháp luật còn tồn tại ở
nhiều nơi. “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi
phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình
thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây
rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”. Như vậy, việc thực
hiện dân chủ ở cơ sở có vai trò trong việc mở rộng dân chủ, đảm bảo dân chủ
ở cơ sở được thực thi nghiêm túc.
Thứ hai, thực hiện dân chủ ở xã, phường là phương thức quản lý đảm
bảo trên thực tế các quyền dân chủ của nhân dân. Nhân dân được hưởng quyền
chính trị cơ bản nhất của người công dân đó là: quyền bầu cử. Theo quy định
của pháp luật về chế độ bầu cử các cơ quan đại diện cho nhân dân: Bầu cử đại
biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp thì công dân được thực hiện quyền
bầu cử của mình tại cơ sở xã, phường nơi cư trú. Đây là bước khởi đầu để thực
hiện Nhà nước của dân. Nhân dân thiết lập nên bộ máy quản lý Nhà nước của
mình để ủy quyền quản lý, thực hiện quyền dân chủ đại diện thông qua hoạt
động của đại biểu các cơ quan dân cử. Nhân dân có quyền bầu và bãi miễn các
đại biểu dân cử nếu họ không được dân tín nhiệm và thực hiện cơ chế giám sát
thông qua hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Cũng tại
xã, phường, nhân dân thực hiện các quyền cơ bản nhất được Hiến pháp quy
định: quyền có nhà ở, quyền tự do tín ngưỡng, quyền được chăm sóc và bảo vệ
sức khỏe, quyền được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm trên tất cả
18



các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội.
Thứ ba, thông qua thực hiện dân chủ ở cơ sở giúp Đảng và Nhà nước
hoàn thiện đường lối, chính sách về dân chủ nói chung, dân chủ ở cơ sở nói
riêng. Yêu cầu xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân và vì dân đặt ra đòi hỏi tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước được làm những gì mà pháp luật quy định còn công dân được làm
những gì mà pháp luật không cấm. Việc thực hiện pháp luật về dân chủ trên tất
cả các lĩnh vực diễn ra ở cơ sở không chỉ giúp cho pháp luật thực sự đi vào cuộc
sống, nhân dân tự mình làm chủ trong quản lý xã hội mà còn giúp cho Đảng,
Nhà nước ngày càng có cơ sở thực tiễn hơn trong việc hoạch định đường lối
chính sách, hoàn thiện pháp luật, vì chỉ có thông qua thực tiễn, nhân dân mới
thực sự là người sáng tạo ra lịch sử.
Thứ tư, thực hiện dân chủ cơ sở bảo đảm và góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý và phát triển kinh t ế x ã hội thông qua chính sách vĩ mô và vi mô. Trong những năm qua hoạt động
quản lý kinh tế của các cấp chính quyền đã được tách bạch, rạch ròi với chức
năng quản lý sản xuất kinh doanh. Đối với chính quyền cơ sở, đây vừa là nơi
thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội,
vừa là nơi chịu sự quản lý của cấp chính quyền cấp trên. Toàn bộ các mục tiêu,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội dài hạn, ngắn hạn của tỉnh, thành phố
đều có ảnh hưởng và triển khai trên địa bàn xã, phường.
Thực tiễn quá trình thực hiện dân chủ cơ sở cho thấy, khi tài chính được
công khai, nhân dân được đóng góp ý kiến và sẵn sàng đóng góp xây dựng cơ
sở vật chất, các công trình phúc lợi công cộng, đất đai được quản lý tốt hơn,
việc chuyển đổi mô hình hợp tác xã nông nghiệp được ủng hộ, công tác dồn
điền đổi thửa tạo đà cho sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa,
công tác xã hội hóa trong giáo dục, y tế được đẩy mạnh, do đó quyền của nhân
dân trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa, y tế được bảo đảm hơn. Việc thực hiện dân
chủ nằm trong một mục tiêu chung “tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh,

19


dân chủ,công bằng, văn minh”.
Thứ năm, thực hiện dân chủ cơ sở góp phần giữ vững an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội. Quy chế dân chủ, các chế định pháp luật khác nhau về
quyền công dân đảm bảo cho nhân dân được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, các quyền về kinh tế, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi gây mất dân
chủ, ảnh hưởng đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân.
Các quy định pháp luật đều có chế tài để răn đe, phòng ngừa và trừng trị
nghiêm khắc những hành vi vi phạm quyền con người, quyền làm chủ của nhân
dân. Thực hiện dân chủ, nhân dân được bàn và quyết định trực tiếp những vấn
đề an ninh trật tự, xây dựng và tổ chức tự quản đời sống cộng đồng, chính quyền
có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết đơn thư dân nguyện, đảm bảo quyền dân
chủ trực tiếp của nhân dân. Thực tế chứng minh, ở địa phương nào thực hiện
tốt dân chủ thì ở đó tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm
bảo, vì sự ổn định, bình yên của từng cụm dân cư góp phần xây dựng nên sự
bình yên, ổn định của cả địa phương, quốc gia, dân tộc.
Thứ sáu, việc thực hiện dân chủ ở cơ sở vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu
nhằm kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ
sở. Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và
hoạt động nhân dân thực hiện đường lối chính sách của Đảng, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ
chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Thực hiện dân chủ ở cơ sở góp phần
xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng chống
quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác. Năng lực tổ
chức triển khai nhiệm vụ, phát triển và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận cho đội
ngũ cán bộ, công chức cũng được nâng cao.
1.1.5 Các hình thức thực hiện dân chủ cơ sở.
Thực hiện quyền dân chủ được thể hiện ở hai hình thức: Dân chủ trực

tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ đại diện là việc nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình
20


thông qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho họ theo nghĩa rộng. Các cơ quan,
tổ chức đại diện cho quyền lực và quyền làm chủ của nhân dân bao gồm: Quốc
hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các cơ quan nhà nước khác, các đoàn thể, các
tổ chức xã hội. Theo nghĩa hẹp, cơ quan tổ chức đai diện cho nhân dân là Quốc
hội, Hội đồng nhân dân và các tổ chức chính trị xã hội. Dân chủ đại diện thể
hiện tập trung thống nhất quyền lực của nhân dân, tạo ra những điều kiện đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước.
Dân chủ đại diện ở cơ sở được thực hiện thông qua hoạt động của Hội
đồng nhân dân và các đoàn thể xã hội. Đại biểu Hội đồng nhân dân, đại biểu
Hội đồng nhân dân ở cơ sở là những người do cử tri bầu ra, đại diện cho lợi ích
và nguyện vọng của cử tri. Trên cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, tìm hiểu
những vấn đề mà cử tri quan tâm, đại biểu Hội đồng nhân dân tập họp ý kiến
của của cử tri và căn cứ vào quy định của pháp luật, đại biểu Hội đồng nhân
dân sẽ tham gia xây dựng Nghị quyết của Hội đồng nhân dân nhằm quyết định
những chủ trương, giải pháp thực hiện phù hợp với các quy định của luật pháp.
Chất lượng hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân quyết định hiệu quả đại
diện của Hội đồng nhân dân.
Dân chủ đại diện còn được thực hiện thông qua việc Hội đồng nhân dân
thực hiện các chức năng của Hội đồng nhân dân: Ban hành Nghị quyết nhằm
tổ chức thực hiện pháp luật và giải quyết những vấn đề quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở phù hợp với ý chí nguyện vọng của
nhân dân, Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của ủy ban nhân dân.
Dân chủ đại diện cũng được thực hiện thông qua hoạt động của các đoàn
thể chính trị - xã hội như: Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... Các tổ
chức này là tập họp rộng rãi các tầng lóp nhân dân, do cách thức tổ chức phù

họp và đại diện cho đoàn viên, hội viên. Trong các phương thức trên thì phương
thức thực hiện thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân có vai trò quyết
định bởi vì thông qua hoạt động của Hội đồng nhân dân, ý chí của nhân dân trở
thành ý chí của Nhà nước, được đảm bảo thực hiện bằng bộ máy nhà nước và
21


phương thức tác động có tính bắt buộc chung đối với các thành viên ở cơ sở.
Dân chủ trực tiếp là hình thức thể hiện ý chí trực tiếp, có nghĩa là nhân
dân trực tiếp làm chủ, trực tiếp tham gia xây dựng và quản lý Nhà nước ở xã,
phường. Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII của Đảng xác định có những phương
thức thực hiện dân chủ trực tiếp sau:
❖ Trưng cầu ý dân;

❖ Chế độ bầu và bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp;
❖ Hỏi ý kiến nhân dân, đưa ra thảo luận các chủ trương, chính sách, các

quyết định quản lý;
❖ Khiếu nại, tố cáo, giải quyết khiếu tố của nhân dân;

❖ Chế độ công khai, báo cáo công việc trước nhân dân của cơ quan nhà

nước, cán bộ công chức nhà nước;
❖ Nhân dân bàn và quyết định trực tiếp những vấn đề phát triển kinh tế,

văn hóa, giáo dục, y tế, an ninh trật tự trên địa bàn địa phương, cơ sở;
❖ Chế độ tự phê bình trước dân;tiếp nhận và giải quyết đơn thư khiếu tố,

đơn thư dân nguyện;
❖ Xây dựng chế độ và các tổ chức tự quản đời sống cộng đồng, tập thể.


Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở được tiến hành bằng hình thức nào cũng
phải đảm bảo yêu cầu, nguyên tắc của pháp chế xã hội chủ nghĩa, tuân thủ
nghiêm túc Hiến pháp, pháp luật và giữ vững đường lối của Đảng, tăng cường
khối đoàn kết cộng đồng, phát huy sức mạnh, trí tuệ của nhân dân để ngày càng
thu hút đông đảo nhân dân tham gia vào quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.
1.2. Trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện
dân chủ cơ sở.
1.2.1. Khái niệm trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước.
Khái niệm “trách nhiệm” theo Từ điển tiếng Việt là “Điều phải làm, phải
gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình”; hay “được hiểu là sự ràng buộc đối với
lời nói, hành vi của mình, bảo đảm làm đúng đắn, nếu sai trái thì phải chịu phần
hậu quả”; hoặc “là phần việc được giao cho hoặc coi như được giao cho, phải
22


bảo đảm làm tròn, nếu kết quả không tốt thì phải gánh chịu phần hậu quả”. Và
“trách nhiệm là phải bảo đảm làm tròn những sự việc được giao cho. Nếu kết
quả không tốt thì phải gánh chịu hậu quả”.
Với quan niệm như vậy, trong xã hội, bất kỳ ai cũng có trách nhiệm bởi
mỗi người đều có một vị trí nhất định trong các mối quan hệ xã hội, như gia
đình, dòng họ, địa phương, tập thể, tổ chức chính trị - xã hội, công dân của một
nước, thành viên của cộng đồng dân tộc và rộng nhất là của nhân loại... Trong
các mối quan hệ đó, trách nhiệm được hình thành trên cơ sở những quy định
của luật pháp, quy chế, thỏa thuận của tập thể, tổ chức, địa phương... Trách
nhiệm còn được hình thành do dư luận xã hội và bị chi phối bởi dư luận xã hội.
Cơ quan quản lý nhà nước là cơ quan nhà nước hoạt động có tính chuyên
nghiệp, có chức năng điều hành xã hội trên cơ sở chấp hành và thi hành Hiến
pháp, luật và các văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Cơ quan quản lý nước ta gồm: Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy

ban nhân dân các cấp từ cấp tỉnh đến cấp xã.
Như vậy, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước là “trách nhiệm
công vụ của cơ quan và từng cán bộ, công chức nhà nước phải hành động phù
hợp với quy định của pháp luật, lựa chọn phương án hành động tối ưu và hợp
lý nhất, báo cáo kết quả hoạt động và gánh chịu những hậu quả do không thực
hiện hay thực hiện không đúng các nghĩa vụ của mình” [43]. Trách nhiệm của
cơ quan quản lý nhà nước gồm: Trách nhiệm chính trị; trách nhiệm pháp lý;
trách nhiệm hành chính; trách nhiệm đạo đức, nghề nghiệp; trách nhiệm giải
trình…
-Trách nhiệm chính trị “là trách nhiệm trước cử tri. Trách nhiệm chính
trị được xác lập dựa trên sự tín nhiệm... Và sự bất tín nhiệm là loại chế tài duy
nhất ở đây. Trách nhiệm chính trị được bảo đảm bằng hai cách: Một là thông
qua bầu cử; Hai là, thông qua hoạt động của cơ quan đại diện cho cử tri.
- Trách nhiệm pháp lý, theo nghĩa ngắn gọn nhất là trách nhiệm trước
pháp luật.
23


- Trách nhiệm hành chính là “trách nhiệm thi hành nghĩa vụ do pháp luật
hành chính quy định và trách nhiệm phát sinh do vi phạm nghĩa vụ đó. Cụ thể
hơn, có thể nói trách nhiệm hành chính với tính cách là trách nhiệm pháp lý gắn
với yếu tố vi phạm hành chính, hay là vi phạm hành chính là cơ sở của trách
nhiệm hành chính.
- Trách nhiệm giải trình là nghĩa vụ: Chứng minh rằng công việc đã được
thực hiện phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn đã đồng thuận và báo
cáo đầy đủ, chính xác kết quả thực hiện nhiệm vụ và kế hoạch theo nhiệm kỳ.
Theo đó, trách nhiệm giải trình của trong hoạt động công vụ luôn gắn liền với
công khai, minh bạch và quyền tiếp cận thông tin của người dân đối với các
hoạt động của công chức và bộ máy nhà nước.
1.2.2. Quan điểm về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong

việc thực hiện dân chủ cơ sở.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân
ở cơ sở là một quá trình hoàn thiện, từ thấp lên cao từ chưa được cụ thể hoá đến
cụ thể hoá toàn diện đầy đủ và thể chế hoá thành pháp luật. Để cho việc thực
hiện dân chủ cơ sở trở thành phương thức, nguyên tắc tổ chức xã hội và để
quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã
hội trở thành hiện thực, dân chủ cơ sở cần phải được quy định trong pháp luật.
Quan điểm chỉ đạo việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở đã được Đảng ta chỉ
rõ trong Chỉ thị số 30-CT/TW ngày 18-02-1998 của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ
sở. Các quan điểm về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc
thực hiện dân chủ cơ sở đó là:
Một là, đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ
chế tổng thể của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ". Coi trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn mạnh một mặt mà
coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác.
Hai là, vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và
24


×