Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần thống kê kinh tế tại trường đại học hải dương đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.15 KB, 32 trang )

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại Trường Đại học
Hải Dương đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0
I.
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài

Đất nước ta đang trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đi song hành
là cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0). Nó diễn ra một cách
nhanh chóng, mạnh mẽ, gây tác động sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Điều này đòi hỏi giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng phải giải
quyết được thách thức lớn về thiếu hụt lao động trình độ cao, có chuyên môn, kỹ
năng và đào tạo ra những con người năng động sáng tạo, có khả năng phát hiện
và giải quyết những vấn đề của cuộc sống đặt ra. Trường đại học là nơi dẫn dắt
tư duy và tạo động lực cho sinh viên, vì vậy giáo dục đại học sẽ thay đổi sâu
rộng, đặc biệt là phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp dạy và học
hiện nay là một yêu cầu hàng đầu đặt ra cho giáo dục đại học. Để việc đổi mới có
hiệu quả đòi hỏi phải cải tiến phương pháp giảng dạy của giáo viên và học tập
của sinh viên; cần định vị cụ thể cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản,
toàn diện. Đó là một trong những yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáodục nói chung và giáo dục đại học nói riêng theo hướng giáo
dục 4.0. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu là: “Đổi mới phương
pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại trường Đại học Hải Dương đáp
ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0”.
2. Mục tiêu nghiên cứu

Đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại trường Đại
học Hải Dương để nâng cao chất lượng dạy và học học phần Thống kê kinh tế tại
trường Đại học Hải Dương. Cụ thể mục tiêu nghiên cứu như sau:
- Tìm hiểu chung về đổi mới phương pháp giảng đại học đáp ứng yêu cầu
cách mạng công nghiệp 4.0.
- Điều tra thực trạng đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê


kinh tế tại trường Đại học Hải Dương đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp
4.0.
Vietluanvanonline.com

Page 1


- Nêu biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế
tại trường Đại học Hải Dương đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0.
3.
Đối tượng nghiên cứu
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại trường
Đại học Hải Dương đáp ứng yêu cầu Cách mạng công nghiệp 4.0.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Các phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp phân tích, khái quát hóa, hệ thống hóa, tổng kết các tài
liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu để xác lập cơ sở lý luận cho đề tài.
+ Nghiên cứu lý thuyết về lý luận dạy học, tâm lý học, giáo dục học và
các tài liệu khoa học cơ bản liên quan đến đề tài.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
+ Phương pháp điều tra, phỏng vấn: Sử dụng các mẫu phiếu điều tra; trò
chuyện phỏng vấn giảng viên và sinh viên để thu thập thông tin về thực trạng sử
dụng các phương pháp dạy học, chất lượng dạy học.
+ Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động học và dạy để thu thập
những thông tin cần thiết.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng thống kê toán học để xử lý
các kết quả nghiên cứu.

Nội dung chính
1. Nhìn chung về việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học trong cách

II.

mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
1.1.

Việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học trong cách mạng công nghiệp 4.0
Vietluanvanonline.com

Page 2


Cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng dựa trên nền tảng công nghệ
số để tích hợp các công nghệ thông minh để tối ưu hóa quy trình, phương thức
sản xuất và xây dựng thế giới siêu kết nối. Thành tựu của CMCN 4.0 được biết
đến rộng tãi như tạo ra trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), công nghệ in
3D, xe tự lái, người máy cao cấp, internet kết nối vạn vật (IoT), công nghệ nano,
công nghệ vật liệu mới và cảm biến, công nghệ sinh học...và đã được ứng dụng
trong sản xuất và đời sống để xây dựng thành phố thông minh, nhà ở thông minh,
hệ thống giao thông, bệnh viện, nhà máy thông minh; tạo lập kết nối giữa các
thiết bị, máy móc, con người với nhau.
Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo cơ hội cũng như đặt ra yêu cầu tất yếu phải
xây dựng nền giáo dục 4.0 cũng như đổi mới phương pháp giảng dạy đại học.
Trong cuộc cách mạng này, phạm vi tương tác rất rộng lớn, khoảng cách về địa
lý, không gian và thời gian bị xóa nhòa; nó mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Giáo
dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng trở thành một hệ sinh thái mà mọi
người có thể cùng học tập mọi lúc, mọi nơi với các thiết bị được kết nối. Bản
thân trường đại học cũng là một hệ sinh thái tạo sản phẩm sáng tạo mang tính cá
thể, với kiến thức và năng lực đổi mới, sáng tạo riêng của cá nhân. Trong CMCN
4.0, một số kỹ năng mới sẽ là yêu cầu bắt buộc mà trường đại học cần đào tạo
cho sinh viên như: kỹ năng giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, kỹ năng giao tiếp,

cộng tác, sáng tạo, đổi mới. Đây là đặc điểm quan trọng không những định
hướng, làm thay đổi chương trình đào tạo, hình thành chuyên ngành mới trong
các trường đại học mà còn đặt ra yêu cầu tất yếu phải “học tập suốt đời” đối với
người lao động trong CMCN 4.0.
Vì vậy, phương pháp giảng dạy trong thời 4.0 cũng có sự thay đổi lớn,
chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông sang khai phóng tiềm năng, đồng
thời trao quyền sáng tạo cho từng cá nhân. Giảng viên là người thiết kế, xúc tác,
cố vấn và tạo môi trường học tập. Sinh viên là người sáng tạo. Điểm mới mẻ là
phương pháp giảng dạy được hỗ trợ bởi nội dung học tập đã được số hóa, vì vậy,
cả giảng viên và sinh viên sẽ có một lộ trình dạy và học tập riêng, có thể lựa
Vietluanvanonline.com

Page 3


chọn nội dung phù hợp với mục tiêu đào tạo. Sinh viên có thể chủ động nghiên
cứu tài liệu cũng như tương tác với giảng viên ở mọi thời điểm bằng máy tính
hoặc điện thoại thông minh. Có rất nhiều ứng dụng và phần mềm giúp sinh viên
học tập trực tuyến, ví dụ: bộ công cụ giáo dục Google (G-Suite for Education)
cung cấp miễn phí bộ xử lý văn bản (Word), bảng tính (Sheet), trình chiếu
(Slide); ứng dụng tài liệu (Google Docs) giúp sinh viên tạo và chỉnh sửa tài liệu
trực tuyến, miễn phí hay công nghệ Chroma Key tạo trường quay thu nhỏ để sinh
viên tự sản xuất sản phẩm truyền thông. Ngoài ra, công nghệ đám mây (Cloud)
cung cấp những phần mềm học tập trên Internet có sử dụng tài khoản...Phương
pháp dạy học được kết hợp chặt với các hình thức học trực tuyến hay công nghệ
thực tế tăng cường/thực tế ảo giúp người học tiết kiệm thời gian, công sức, chi
phí, giúp người học trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng. Các hoạt động đào tạo và
nghiên cứu khoa học của các trường đại học cũng phải đối mặt với yêu cầu cải
cách và cạnh tranh mới; tham gia vào cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm
phục vụ cuộc sống, có nhiều trải nghiệm thực tế mà những nhà nghiên cứu,

những giảng viên đại học không có. Đi kèm là hệ thống kiểm tra được số hóa
giúp phản hồi về hiệu quả học tập. Nhờ ứng dụng các công nghệ AI, Big Data và
IoT; giảng viên có thể thu thập dữ liệu, phân tích và đánh giá chính xác về người
học; theo dõi quá trình học tập tại nhà, kiểm tra mức độ hoàn thành bài tập và
thông báo kết quả học tập tới sinh viên cũng như gia đình. Thậm chí công nghệ
AI có thể thay thế giảng viên ở một số khâu như điểm danh, chấm bài, soạn bài
và hỗ trợ dạy ngoại ngữ.
Việc đổi mới phương pháp giảng dạy này là tất yếu bởi trong cuộc cách
mạng 4.0, robot có thể thay thế con người (Thống kê của Liên đoàn Robot quốc
tế cho thấy, tốc độ robot hóa trong lĩnh vực công nghiệp toàn cầu đang đạt
ngưỡng rất nhanh; tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) dự báo, trong 2 thập niên tới,
khoảng 56% số lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có
nguy cơ mất việc vì robot). “Thị trường lao động có nguy cơ thay đổi hoàn toàn
do robot dần thay thế người lao động. Việt Nam đang trở thành quốc gia có tiềm

Vietluanvanonline.com

Page 4


năng phát triển công nghệ cao, với hàng triệu việc làm mới trong lĩnh vực phần
mềm. Tuy nhiên, khi tự động hóa dần thay thế nhân lực trong nhiều lĩnh vực,
người lao động chắc chắn cần thích ứng nhanh với sự thay đổi của sản xuất. Do
đó, trường đại học là nơi cung cấp nguồn nhân lực bậc cao cho xã hội, cũng phải
thay đổi toàn diện cả về mô hình, nội dung chương trình và phương thức đào
tạo” [1,2]. Nếu các thầy cô không làm được những hoạt động sáng tạo vượt trên
robot thì sẽ bị thay thế sớm. Sáng tạo không chỉ là thách thức mà còn là yêu cầu
bắt buộc không nhỏ cho đội ngũ giảng viên. Điều này sẽ diễn ra trên bình diện
toàn xã hội nói chung, giáo dục đại học nói riêng.
1.2. Việc đổi mới phương pháp giảng dạy đại học trong cách mạng công nghiệp


4.0 tại Việt Nam
Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo
cuộc cách mạng 4.0. Tỷ lệ người sử dụng internet, điện thoại thông minh trong
dân số cao Lượng người sử dụng internet năm 2018 đạt 64 triệu, chiếm 67% dân
số. Việt Nam có thể vào top 10 quốc gia có tỷ lệ người tiếp cận Internet cao nhất,
với khoảng 80% dân số sử dụng internet trước năm 2020. Riêng mảng mạng xã
hội, tính đến tháng 1-2018, có tới 55 triệu người dùng, chiếm 57% dân số [1,2].
Đó là điều kiện ban đầu giúp Việt Nam tiếp cận giáo dục 4.0 nhanh hơn.
Lợi thế thứ hai là Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến giáo dục và ảnh
hưởng của khoa học, công nghệ tới giáo dục. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI, đã ban hành Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế (4-11-2013).
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường
năng lực tiếp cận Cuộc cách mạng Công nghiệp lần thứ tư (4-5-2017). Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã xây dựng nhiều đề án, kế hoạch để hỗ trợ giáo dục đại học đổi
mới phương pháp dạy:

Vietluanvanonline.com

Page 5


- Đề án Hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025
- Đề án Nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý các cơ sở
GDĐH đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo giai đoạn
2019 – 2030
- Chiến lược Phát triển tổng thể GDĐH giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn
2035, làm cơ sở cho đổi mới, phát triển toàn diện và bền vững trong dài hạn của

hệ thống GDĐH.
Nhiều cuộc hội thảo về CMCN 4.0 với giáo dục Việt Nam đã được tổ chức
như:
- Hội thảo “Từ CMCN 4.0 đến giáo dục 4.0 và mô hình khung 4Cs để
chuyển đổi GDĐH thành hệ sinh thái tạo sản phẩm sáng tạo” của Đại học Bách
khoa Đà Nẵng
- Hội thảo quốc tế ICTER 2018 “Đào tạo giáo viên trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp 4.0” của trường Đại học Sư phạm, Đại học Thái Nguyên
- Hội thảo “Kỷ nguyên số hóa: Cơ hội và thách thức” của trường Đại học
Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội...
Nhiều đơn vị giáo dục đã chủ động tiếp cận với các làn sóng công nghệ
giáo dục mới để triển khai đào tạo dựa trên các khóa học đại trà trực tuyến mở
(MOOC), đưa AR và VR vào xây dựng hệ thống học tập, hoặc triển khai các hệ
thống học tập số hóa thông minh, như:
- Trường Đại học Bách khoa đã đổi mới mô hình, chương trình đào tạo, cho
phép người học chủ động lựa chọn, tự lập kế hoạch, đăng ký học các học phần
trong chương trình tích hợp.

Vietluanvanonline.com

Page 6


- Trường Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh triển khai số hóa với phần
mềm quản lý hình ảnh Centricity Universal Viewer và Advanced Visualization,
cho phép cải thiện quy trình làm việc, giúp bác sĩ chẩn đoán và thực hiện các báo
cáo hiệu quả, chính xác hơn.
Nhiều trung tâm, trường học đã xây dựng các lớp học trực tuyến, như:
- Học viện Apax Franklin (Hà Nội) đã kết hợp mô hình dạy và học theo
công nghệ 4.0, ứng dụng phương pháp kết hợp ba trong một (Facetime - Apptime

- Teamtime) ở bậc học phổ thông, phát triển năng lực học sinh thông qua tương
tác ở mọi thời điểm.
- Trường Đại học Y Dược, Đại học Thái Nguyên đưa ra mô hình
“Samsung Smart school” (Lớp học thông minh) giúp việc tiếp thu kiến thức trở
nên hấp dẫn và thú vị, khuyến khích giao tiếp hai chiều giữa giảng viên và sinh
viên. Mô hình này bao gồm Giảng dạy tương tác (Interactive teaching) với các
thiết bị thông minh, Quản lý học tập (Class management) kết hợp với Phương
pháp học tập theo nhóm (Team-based learning).
Nhìn chung, giáo dục đại học Việt Nam đã quan tâm tới việc đổi mới
phương pháp giảng dạy trong thời kì 4.0. Tuy vậy, chúng ta cần làm nhiều việc
hơn để chuyển đổi phương pháp. Xét toàn diện, việc chuyển đổi số ở trường đại
học mới chỉ ở bước đầu, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra hiện nay. Những vấn
đề đặt ra với giáo dục đại học để đổi mới phương pháp dạy học là:
- Các trường đại học cần cập nhật chuẩn mực phương pháp dạy học quốc
tế để nâng cao chất lượng của lực lượng lao động được đào tạo đại học, đáp ứng
tốt nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
- Các trường đại học cần có hành động và chiến lược cụ thể cho tiến trình
công nghệ hóa giáo dục.

Vietluanvanonline.com

Page 7


- Cần gắn kết giữa trường đại học với doanh nghiệp trong đào tạo đại học
hiện nay để sinh viên ra trường đáp ứng được ngay yêu cầu công việc.
- Cần bổ sung các nghiên cứu khoa học đạt chất lượng quốc tế từ các cơ
sở đại học.
Tiểu kết phần 1
Hiện việc đổi mới giảng dạy theo hướng giáo dục 4.0 là một xu thế của toàn

cầu và là yêu cầu bắt buộc. Để việc đổi mới có hiệu quả đòi hỏi phải cải tiến
phương pháp giảng dạy của giáo viên và học tập của sinh viên; cần định vị cụ thể
cách thức, phương pháp của đổi mới căn bản, toàn diện. Đó là một trong những
yếu tố then chốt để tiến tới đổi mới căn bản và toàn diện nền giáodục nói chung
và giáo dục đại học nói riêng theo hướng giáo dục 4.0. Việt Nam đã đang bước
đầu tiến hành việc số hóa giáo dục. Đó là nền tảng tốt song cần sự tích cực tham
gia của các trường đại học, các giảng viên trong việc cụ thể hóa công việc này.

2. Thực trạng phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại trường

Đại học Hải Dương đáp ứng cuộc cách mạng 4.0

Vietluanvanonline.com

Page 8


Hải Dương là một tỉnh đồng bằng, gần Hà Nội, giao thông thuận lợi. Kinh
tế - xã hội đang phát triển nhanh. Đại bộ phận dân cư có trình độ dân trí cao, đã
được cập nhật công nghệ thông tin. Đời sống đã được cải thiện nhiều. Hoạt
động kinh tế đa dạng, bên cạnh nông nghiệp, dịch vụ cũng phát triển. Do vậy,
điều kiện giao lưu, tiếp thu khoa học kỹ thuật rất thuận lợi. Những đặc điểm
trên tạo thuận lợi lớn cho việc học tập của sinh viên trong tỉnh.
Nằm ở tỉnh, trường Đại học Hải Dương được hưởng lợi thế để đổi mới
phương pháp giảng dạy theo cuộc cách mạng 4.0. Trong đó, có việc giảng dạy
học phần Thống kê kinh tế. Để tìm hiểu thực trạng đổi mới phương pháp giảng
dạy học phần Thống kê kinh tế tại trường, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các
giảng viên và sinh viên tham gia vào dạy và học học phần này. Nội dung điều tra
bao gồm :
- Tình hình sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin của sinh viên


-

Tình hình dạy học học phần Thống kê kinh tế tại trường.

- Các phương pháp dạy học đang được sử dụng và cách thức tiến hành thiết kế
bài giảng cho học phần Thống kê kinh tế của giảng viên ở trường.

- Đánh giá, nhận xét về việc sử dụng CNTT của giảng viên và sinh viên trong
thiết kế bài giảng và dạy học.
Các bước tiến hành điều tra để thu thập thông tin theo các nội dung
trên gồm có:

- Phát phiếu điều tra đối với sinh viên và giảng viên.
- Thăm lớp, dự giờ.
- Phỏng vấn.
- Tổng kết
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy tình hình sau:
Về ưu điểm:
- Sinh viên của trường phần lớn ngoan, có đạo đức tốt, lễ phép với

Vietluanvanonline.com

Page 9


thầy cô giáo và biết sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin. 100% các em
có điện thoại thông minh, 71% có máy tính. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho
việc học tập online, ứng dụng các công nghệ học tập mới tới với sinh viên.


- Sinh viên rất hứng thú khi được học môn Thống kê kinh tế có ứng dụng
CNTT vì mới lạ, cập nhật, chủ động thời gian, kiến thức. Giờ học áp dụng
phương pháp đổi mới thường sôi nổi hơn, dễ tiếp thu và dễ nhớ nội dung bài
học hơn. Các em mong muốn được học tập thường xuyên với bài giảng có sử
dụng CNTT, vì như vậy các em dễ tiếp thu bài, được bổ xung thêm nhiều
kiến thức ngoài, chất lượng học tập sẽ được nâng cao hơn.
- Về việc đổi mới phương pháp, ban lãnh đạo nhà trường đã quan tâm,
động viên, khuyến khích giảng viên thay đổi phương pháp, tổ chức các lớp tập
huấn thay đổi phương pháp theo hướng 4.0.
- Các giáo viên đều cho rằng việc thay đổi phương pháp giảng dạy
theo hướng 4.0 là rất cần thiết, nên tiến hành thường xuyên, đối với học phần
Thống kê kinh tế lại càng có ý nghĩa vì nó tăng tính liên kết, hợp tác, chủ động
cho sinh viên, giúp cho giáo viên không phải thuyết giảng nhiều và không tốn
thời gian trình bày, giáo viên không phải mất nhiều sức mô tả các khái niệm,
hiện tượng kinh tế.
- Trong những năm gần đây, đội ngũ giảng viên dạy ở trường đa số
đều được đào tạo đúng chuyên ngành, được bồi dưỡng đổi mới phương pháp.
Mặc dù đa số các giáo viên vẫn soạn, giảng theo phương pháp truyền thống
song cũng đã có nhiều giảng viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học
nhằm tạo hứng thú học tập cho sinh viên, nâng cao chất lượng giảng dạy. Hiện
nay, với điều kiện thuận lợi hơn về công nghệ thông tin, nhiều giáo viên có thể
tự học hỏi để nâng cao trình độ của mình qua nhiều phương tiện thông tin,
truyền thông khác nhau, phổ biến nhất là trên mạng Internet. Tuy nhiên, cần có
sự đầu tư hơn nữa về cơ sở vật chất cho các trường. Bên cạnh đó cần có những
lớp tập huấn cho giáo viên để nâng cao trình độ tin học, kĩ năng khai thác thông
tin để phục vụ cho việc giảng dạy.
- Trong thời gian dịch bệnh vừa qua, nhà trường nói chung và bộ môn
Vietluanvanonline.com

Page 10



Thống kê kinh tế nói riêng đều đã sử dụng công nghệ thông tin trong dạy và
học. Thành quả đạt được chưa cao nhưng đã giúp giảng viên, sinh viên ý thức
được trách nhiệm đổi mới phương pháp dạy học và mở mang kiến thức, kĩ năng
về phần này. Vì vậy, điều quan trọng đối với giảng viên và sinh viên là tiếp tục
phát huy, tăng cường sử dụng các phương pháp, phương tiện trực tuyến để học
tập, dù không còn trong thời gian nghỉ dịch. Trong bài giảng, giảng viên cần
thay đổi phương pháp hướng dẫn sinh viên làm việc một cách khoa học với các
phương tiện đó để tiếp thu kiến thức tốt hơn, mà trong đó ứng dụng CNTT là
một trong những giải pháp đem lại hiệu quả.
Về nhược điểm:
- Nhưng các em còn hạn chế trong giao tiếp, cách học thụ động và đại
đa số chưa biết sử dụng phương tiện công nghệ thông tin vào các hoạt động học
tập. Về tư duy, các em thiên về tư duy cụ thể, máy móc, hạn chế về tư duy sáng
tạo, khái quát, lười suy nghĩ, gặp tình huống khó hay bài tập khó thường không
tự tìm cách giải quyết, mà hay trông chờ sự giúp đỡ của bạn bè hay giảng viên.
Do vậy kết quả học tập học phần Thống kê kinh tế thường không cao, các em
cũng không hiểu sâu bản chất kiến thức mà chỉ là học vẹt.
- Về phương pháp của giảng viên, một số giảng viên chưa biết cách áp
dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực sáng tạo của học
sinh trong học tập (nhiều khi áp dụng máy móc không đạt hiệu quả, ví dụ như:
Phương pháp hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm). Trong bài soạn, bài giảng
chƣa có sự đầu tư, nhiều giảng viên còn lặp lại ý nguyên văn trong sách, phụ
thuộc vào giáo trình quá nhiều dẫn đến việc sinh viên chủ quan, lười suy nghĩ,
chưa phát huy được tính sáng tạo của sinh viên. Những hạn chế trên, nguyên
nhân chính là giảng viên chưa tích cực trau dồi kiến thức, tự học, tự bồi dưỡng.
Đối với học phần Thống kê kinh tế, đặc biệt là kiến thức về các hiện tượng kinh
tế, các khái niệm mang tính trừu tượng, khái quát cao; sinh viên khó tiếp thu.
Thường sinh viên chỉ ghi nhớ được những gì thầy cô giảng hoặc viết trên bảng,

chứ ít khi chịu mở mang, tra cứu thêm. Do vậy phương pháp phổ biến mà giảng
viên hay áp dụng là thuyết trình. Bên cạnh đó, sinh viên thường ít thể hiện
Vietluanvanonline.com

Page 11


mình, ít phát biểu nên ở trên lớp giảng viên độc thoại là chính. Vì thế không khí
lớp học thường không sôi nổi, sinh viên thụ động trong việc học. Hiện nay, dù
đã thực hiện đổi mới giáo trình và phương pháp dạy học, nhưng vẫn còn hiện
tượng giảng viên chỉ phát vấn những câu hỏi đơn giản có sẵn trong giáo trình và
sinh viên chỉ việc đọc ra để trả lời, không cần động não suy nghĩ. Nên khi làm
bài kiểm tra, phần lớn các em trình bày phần ghi nhớ theo những gì giảng viên
ghi trên bảng, sinh viên không mở rộng, cập nhật kiến thức mới cho học sinh.
phần lớn vẫn theo kiểu truyền thống, chủ yếu là thuyết trình, giảng giải, đàm
thoại. Nhìn chung các giảng viên thiết kế bài giảng dựa theo cấu trúc, nội dung
trình bày sẵn trong giáo trình. Giáo viên chỉ chú ý tới việc dễ truyền đạt hết kiến
thức với các phương pháp đã định sẵn, ít có các tình huống sư phạm và cách xử
lý các tình huống đó. Bởi vậy, việc dạy học chủ yếu nặng về truyền thụ kiến
thức, việc tổ chức cho sinh viên tự khai thác, lĩnh hội tri thức còn ít được chú
trọng. Đã có một số giáo viên thiết kế bài giảng theo phương pháp dạy học tích
cực, trong đó có ứng dụng công nghệ thông tin vào thiết kế bài giảng và giảng
dạy, song mới dừng lại ở các cuộc thi và với những giáo viên có điều kiện thời
gian và hiểu biết ít nhiều về tin học, nhưng số này rất ít. Ngoài ra, việc thiết kế
bài giảng của giảng viên còn thiếu sự hướng dẫn của lý thuyết nghiệp vụ, do đó
thiếu sự sáng tạo, thậm chí sa vào tình trạng rập khuôn, máy móc.
Khi kiểm tra, đánh giá sinh viên, giảng viên vẫn chủ yếu theo cách
truyền thống, cho học sinh làm bài trên lớp với xu hướng đơn giản hóa, cắt giảm
các bài tập, các câu hỏi khó đòi hỏi sinh viên phải suy nghĩ phân tích, phải sáng
tạo. Việc sinh viên sử dụng các thiết bị công nghệ phục vụ cho học tập đã ít thì

việc sử dụng để liên lạc với giảng viên, làm bài kiểm tra càng ít.
Sau khi phỏng vấn trao đổi với giảng viên và sinh viên có thể rút ra
một số nguyên nhân dẫn đến những điểm chưa tốt trong thực trạng trên như sau:

- Quan niệm của nhiều sinh viên về việc học tập có sử dụng công nghệ thông
tin còn chưa cao, dẫn đến sinh viên chưa tích cực chủ động áp dụng trong
học tập, giảng viên chưa mạnh dạn đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng 4.0.
Vietluanvanonline.com

Page 12


- Điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc đổi mới phương pháp dạy học,
nhất là ứng dụng CNTT vào dạy học đã tương đối đủ. Song việc áp dụng các
ứng dụng, phần mềm hiện đại chưa được cập nhật. Giảng viên và sinh viên
chưa biết cách sử dụng hiệu quả. Thậm chí, có giảng viên bảo thủ, không
muốn sử dụng phần mềm hiện đại trong giảng dạy. Các phần mềm dạy học
miễn phí phù hợp với nội dung và chương trình có rất ít, nên việc ứng dụng
CNTT trong giảng dạy nói chung và học phần Thống kê kinh tế nói riêng ở
trường còn rất hạn chế. Đây là những tồn tại của hệ thống giáo dục toàn
trường nói chung và trong bộ môn Thống kê kinh tế nói riêng, điều này
phần nào ảnh hưởng đến chất lượng học tập bộ môn.

- Các thông tin cần thiết cho việc đổi mới các phương pháp dạy học về mặt lí
luận, những quy trình cụ thể cho việc áp dụng các phương pháp dạy học mới
cũng như việc thiết kế bài giảng cho giảng viên theo hương 4.0 còn thiếu. Các
thầy cô chưa nắm được quy trình thiết kế một bài giảng có ứng dụng CNTT.
Do vậy, các bài giảng thiết kế chủ yếu mang tính chất trực quan, minh họa
thay thế cho việc viết bảng chưa chú ý đến cách thức tổ chức các hoạt động

cho sinh viên. Đội ngũ giảng viên chưa được tiếp thu những đổi mới về
phương pháp dạy học theo hướng 4.0. Vì thế, đa phần các giảng viên khi
được trao đổi đều cho rằng không có điều kiện hoặc chưa biết thiết kế bài
giảng có ứng dụng CNTT, do không biết sử dụng các ứng dụng mới, không
nắm được quy trình thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Tiểu kết phần 2
Từ đó có thể kết luận: Việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng 4.0 không phải là bất khả thi ở bộ môn Thống kê kinh tế tại trường
Đại học Hải Dương. Đó chỉ là do sinh viên và giảng viên chưa có thói quen học
tập, giảng dạy theo hướng mới này. Nếu giảng viên biết cách hướng dẫn thì sinh
viên sẽ có phương pháp học tập hợp lý.
Bảng Thực trạng của việc ứng dụng CNTT trong dạy và
học học phần Thống kê kinh tế tại trường Đại học Hải
Vietluanvanonline.com

Page 13


Dương

Số sinh viên có điện thoại thông minh
Số sinh viên có máy tính
Số sinh viên có sử dụng phương tiện CNTT vào
học tập
Số giảng viên có áp dụng CNTT vào giảng dạy
Số giảng viên có sử dụng phương pháp giảng
dạy tích cực
Số sinh viên hưởng ứng đổi mới phương pháp
dạy học theo hướng 4.0
Số giảng viên hưởng ứng đổi mới phương pháp

dạy học theo hướng 4.0

Tỉ lệ % trên tổng số được
hỏi
100
71
20
30
40
80
90

Tiểu kết phần 2
Qua nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy những vấn đề cần đặt ra là: Việc
đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng 4.0 của học phần Thống kê kinh tế
tại Đại học Hải Dương là việc làm hết sức cần thiết. Hiện giảng viên và sinh viên
có nhiều điều kiện để tiến hành song thực tế chưa đạt được hiệu quả. Một phần
do giảng viên và sinh viên chưa lưu tâm. Thứ hai do năng lực của giảng viên
chưa tốt. Do vậy, cần tạo mọi điều kiện để giảng viên và sinh viên được tiếp cận
với các phương pháp dạy học tích cực, các phương tiện dạy học hiện đại. Cần nỗ
lực tác động trên một số yếu tố của quá trình dạy học cũng như thiết kế bài
giảng, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ giảng viên cũng như trình độ
nhận thức, kỹ năng học tập bộ môn của sinh viên.

3. Biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy học phần Thống kê kinh tế tại
3.1.

Trường Đại học Hải Dương đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0
Sử dụng internet để tăng cường quan hệ giao tiếp – thông tin giữa giáo viên và
học sinh


Vietluanvanonline.com

Page 14


Ngày nay, công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển, internet đang
dần dần trở thành một kênh giao tiếp phổ biến trong xã hội bên cạnh những kênh
hàng ngày như đối thoại, thư tín. Giảng viên của trường đại học Hải Dương có
thể tân dụng kênh thông tin này để tăng cường quan hệ giao tiếp với sinh viên.
Các ứng dụng có thể giúp giao tiếp rất thông dụng như email, zalo, viber,
facebook,…Giảng viên có thể giao bài tập, giảng bài, trả lời thắc mắc cho sinh
viên ngay trên các ứng dụng này. Thậm chí, các ứng dụng còn giúp giáo viên có
thể live stream với sinh viên một các dễ dàng, sau đó đưa phần live này lên
youtube, giúp học sinh xem lại bất kì lúc nào. Ngoài ra, một số ứng dụng khác
như zoom, teams,…còn giúp giáo viên quản lí nhóm học sinh, tổ chức các buổi
họp nhóm một cách dễ dàng. Điều này diễn ra đơn giản bởi sinh viên là đối
tượng tiếp cận và sử dụng internet một cách dễ dàng và thường xuyên nhất. Đa
số sinh viên trường đại học Hải Dương đều có điện thoại, máy tính và các em rất
cập nhật công nghệ mới. Những ứng dụng giao tiếp phổ biến trên không xa lạ
với các em. Bằng chứng là trong thời kì nghỉ dịch, các em vẫn dùng các ứng
dụng này để học tập, giao tiếp với thầy cô và bạn bè. Việc cài đặt và sử dụng ứng
dụng mới không gây khó khăn cho các em. Quả thực, các em được thụ hưởng rất
nhiều từ những thành quả nổi bật của internet, đặc biệt là mở rộng phạm vi giao
tiếp và có môi trường giao lưu với những cá nhân khác. Xét trên phương diện
giao tiếp trong xã hội công nghệ ngày một phát triển hiện nay, Internet đã trở
thành một nét đặc trưng, phổ biến trong đông đảo sinh viên. đã trở thành một
kênh thông tin hữu hiệu để giáo viên có thể tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, sở
thích và nhu cầu của học sinh.
Với sự bùng nổ của công nghệ thông tin nói chung và internet nói riêng để

giao tiếp trong sinh viên, giảng viên vẫn giữ một vai trò quan trọng. Giảng viên
nên hướng dẫn học sinh sử dụng internet một cách hiệu quả để giao tiếp. Có lẽ,
việc sử dụng các chức năng của các ứng dụng giao tiếp không phải khó khăn với
sinh viên song các em chưa biết sử dụng nó để phục vụ học tập. Đại đa số mới
chỉ tập trung quanh việc nói chuyện phiếm. Vì vậy, giảng viên có thể cho sinh

Vietluanvanonline.com

Page 15


viên làm các nhóm học tập trên các ứng dụng, chia sẻ thông tin, trò chuyện trong
các nhóm này về học tập. Như vậy, việc sử dụng phương tiện công nghệ thông
tin có ích lợi lớn hơn.
Nhưng giảng viên không nên quá lạm dụng phương tiện trực tuyến để giao
tiếp, vì việc giao tiếp bên ngoài vẫn có ưu điểm riêng. Giảng viên cũng có thể
thông qua sử dụng internet để giáo dục học sinh song song với các phương tiện
truyền thống khác. Đồng thời, bản thân giảng viên cũng phải cung cấp thông tin
giúp sinh viên hạn chế các tác động xấu của nó. Làm được như vậy thì internet
sẽ đóng một vai trò quan trọng hỗ trợ trong việc tăng cường quan hệ giao tiếp –
thông tin giữa giảng viên và sinh viên đại học Hải Dương.
3.2. Ứng dụng CNTT vào việc thiết kế một số bài giảng

Trong một bài học, nếu giảng viên chỉ truyền tải bằng lời nội dung văn bản
của bài học đến sinh viên thì lượng thông tin sẽ rất đơn điệu. Người học khó tiếp
thu, kém hứng thú học tập. Hơn nữa, nếu chỉ truyền thông tin một chiều, không
có sự phản hồi của người học thì thu nhận thông tin của người học không đầy đủ,
kém chính xác, có thể sai lệnh dẫn đến ngƣời học hiểu sai vấn đề. Đổi mới
phương pháp giảng dạy theo cách mạng 4.0 là phải ứng dụng CNTT vào việc
thiết kế một số bài giảng để làm tăng sự hứng thú của sinh viên, làm tăng giá trị

lượng thông tin, trao đổi thông tin nhanh hơn, nhiều hơn và hiệu quả hơn. Việc
đưa máy tính và các ứng dụng tin học khác vào giảng dạy là rất cần thiết để hiện
đại hoá môi trường giáo dục của đại học Hải Dương nói chung và thay đổi
phương pháp giảng dạy ở học phần Thống kê kinh tế nói riêng.
Giảng viên cần được trang bị những kiến thức cơ bản về tin học khi thiết
kế bài giảng có ứng dụng CNTT. Đó là yêu cầu đầu tiên. Vì vậy, giảng viên của
trường có thể tham gia các lớp học, tập huấn về CNTT, các sử dụng các ứng
dụng powpoint, eschool,…Trường cũng nên tổ chức các chuyên đề hướng dẫn
giảng viên cách soạn bài có yếu tố CNTT. Đặc biệt, lưu ý giảng viên nắm được
và thống nhất về qui trình, nguyên tắc thiết kế bài giảng ứng dụng CNTT. Tránh
Vietluanvanonline.com

Page 16


tình trạng mỗi người làm một kiểu, sáng tạo không đúng hướng làm ảnh hưởng
tới sự tiếp thu của sinh viên. Ví dụ: việc trang trí màn hình trình chiếu, các slide
trong trình chiếu hay để lượng tranh ảnh, chữ viết sao cho phù hợp cũng cần
thống nhất. Không phải cứ trang trí thật cầu kì mới là có hiệu quả. Nhiều giảng
viên để quá nhiều chữ trên slide làm sinh viên chỉ biết cắm đầu vào chép bài.
Đây cũng là một sai lầm.
Việc thiết kế bài soạn giảng có CNTT có thể theo các bước sau:
- Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài dạy
- Bước 2: Thu thập nguồn tài liệu, bổ sung mở rộng kiến thức
- Bước 3: Xây dựng kịch bản cho bài giảng trên máy vi tính
- Bước 4: Sử dụng một ứng dụng thiết kế và làm từng phần. Phổ biến nhất
vẫn là ứng dụng Powpoint.
- Bước 5: Kiểm tra kết quả qua việc trình chiếu thử đi kèm với thuyết giảng
- Bước 6: Sữa chữa lại cho phù hợp sau khi giảng bài trên lớp
Ý tưởng kịch bản của bản thiết kế là điều quan trọng nhất. Trong kịch

bản thiết kế, cần dự kiến những kiến thức, các bản đồ, hình ảnh cần thiết đưa
vào bài, số slide chính, phụ cho toàn bộ bài giảng, các hoạt động cụ thể cho
từng đơn vị kiến thức trong toàn bộ bài giảng. Sau khi đã viết kịch bản xong,
giảng viên tiến hành việc thể hiện kịch bản của mình trên máy tính. Phương tiện
sử dụng gồm một máy vi tính có cài đặt chương trình Power Point, hoặc một
chương trình tương tự. Ngoài những kiến thức cơ bản trong giáo trình, giảng
viên nên tham khảo thêm một số tài liệu sau để làm phong phú và cập nhật cho
nội dung của bài học. Giảng viên phải kết hợp được kiến thức với các hoạt
động, câu hỏi, clip, tranh ảnh sao cho phù hợp, làm sinh viên tăng hứng thú mà
không làm loãng kiến thức. Khi thiết kế bài giảng, giảng viên cần chú ý phải kết
hợp được những phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực chủ động
của sinh viên trong tiết học để làm sao trong quá trình lên lớp sinh viên phát
Vietluanvanonline.com

Page 17


huy được khả năng tìm tòi sáng tạo của mình dưới sự hướng dẫn của giảng viên,
thông qua các hoạt động cá nhân, hoạt động nhóm với các phiếu học tập. Học
sinh tự chiếm lĩnh tri thức mới dựa vào các gợi ý từ tranh ảnh, clip,...kết hợp
vốn hiểu biết của bản thân. Trong bài thiết kế cũng luôn chú ý đến việc tận dụng
được những tính năng ưu việt của máy tính, đó là: Hệ thống hình ảnh, màu sắc,
âm thanh, khối lượng kiến thức một cách phù hợp và có hiệu quả nhất. Bản thiết
kế cũng luôn chú ý đến tính linh hoạt khi thể hiện bài giảng trên máy vi tính,
đến sự phù hợp với đối tượng giảng viên và sinh viên trong trường. Vấn đề
thường gặp khi thiết kế bài giảng hay trong quá trình giảng dạy trên lớp khi ứng
dụng CNTT là do có nhiều nguồn kiến thức, hình ảnh, âm thanh, video... mà
giảng viên có thể sử dụng để minh hoạ cho bài giảng của mình. Vì thế nếu
không biết chọn lọc bài học sẽ mất đi tính trọng tâm, làm cho giáo viên bị động
khi giảng bài. Để khắc phục nhƣợc điểm này, trong nội dung chính của bản

thiết kế, chỉ nên đưa ra những slide có nội dung cơ bản, có kiến thức trọng tâm
theo mục đích yêu cầu của bài học. Không đưa quá nhiều kiến thức mở rộng,
nâng cao. Về kỹ thuật, không sử dụng quá nhiều các hiệu ứng phức tạp dễ làm
cho sinh viên bị phân tán khi học bài. Những vấn đề mang tính chất bổ sung
làm phong phú cho nội dung bài học, việc trình bày các slide phụ được gắn với
các slide chính bởi các nút liên kết, giáo viên có thể sử dụng hay không sử dụng
các slide này tuỳ thuộc vào thời gian và hoàn cảnh cụ thể của tiết học. Bằng
cách này giúp cho giảng viên linh hoạt hơn khi điều khiển bài giảng của mình
mà không phụ thuộc một cách cứng nhắc vào nội dung của bản thiết kế, có thể
khống chế được nội dung kiến thức cần được đưa vào trong bài phù hợp với
thời gian và đối với từng đối tượng người học.

Vietluanvanonline.com

Page 18


3.3. Vận dụng các phương pháp gắn với công nghệ hiện đại, đẩy
nhanh quá trình chuyển đổi số, đón đầu áp dụng công nghệ mới.
Ngoài ra, giảng viên nên vận dụng các phương pháp gắn với công nghệ
hiện đại, đặc biệt nên đón đầu công nghệ mới, sử dụng ứng dụng, phát minh mới
nhất để sau này đỡ mất thời gian thay đổi, cập nhật. Hiện công nghệ thay đổi
từng ngày, vì thế áp dụng công nghệ cũ sẽ không tạo được sự đột phá. Để áp
dụng các công nghệ mới này, đòi hỏi nhà trường phải có sự đầu tư cơ sở vật chất
và mất thời gian tập huấn cho giáo viên.
Nhà trường có thế tham khảo một số mô hình giảng viên dạy trực tuyến đã
và sẽ được ứng dụng trong đào tạo và bồi dưỡng giảng viên như Mô hình Elearning (đây là mô hình hệ thống quản lý qua mạng); mô hình B-learning (mô
hình dạy học kết hợp hình thức học tập trên lớp với hình thức học hợp tác qua
mạng máy tính và tự học); mô hình ứng dụng kỹ thuật hội thảo truyền hình (là
dịch vụ cho phép nhiều người hội thảo từ xa, với sự xuất hiện của hình ảnh và

âm thanh từ một người đến những người còn lại);…Cụ thể, ta có thể thống kê
một số công nghệ mới như sau:
- Dạy học trực tuyến E-learning,
- Phương pháp giáo dục tích hợp khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học
(Giáo dục STEM)...
Các hình thức học trực tuyến E-Learning hiện khá phổ biến và thông dụng:
- Học thông qua các thiết bị điện tử; Mobile Learning: Học thông qua các
thiết bị di động;…
- Blended-learning: mô hình học kết hợp giữa học trên lớp và học online

Vietluanvanonline.com

Page 19


- Context aware u-learning: học theo ngữ cảnh, thông qua các thiết bị định
vị
- Collaborative environments: học trong các môi trường mang tính tương
tác cao
- Cloud computing: sử dụng công nghệ điện toán đám mây cần được đẩy
mạnh áp dụng.
Để thực hiện được việc áp dụng công nghệ hiện đại, nhà trường phải tiến
hành số hóa chương trình giảng dạy. Hiện nay, có rất nhiều công cụ cho chuyển
đổi số như:
- Công cụ hội nghị truyền hình Skype, GoToMeeting, Blue jeans;…
- Ứng dụng đàm thoại, chia sẻ tài nguyên Microsoft Teams;…
- Ứng dụng OneNote; Stream;…
- Ứng dụng phân tích người đọc Reader Analytics; tra từ điển Tflat; App
hỗ trợ vẽ mindmap (Mindnode, Simplemind);…
- Dịch vụ trực tuyến Wolfram Alpha; công cụ Power BI và các Hệ thống

quản lý học tập Blackboard, WebCT, Desire2Learn, ANGEL, Sakai, Moodle...
Các trường đại học cần áp dụng công nghệ mới, sử dụng các công cụ đa năng
như máy tính, máy chiếu, bài giảng điện tử, bảng điện tử thông minh, sách giáo
khoa điện tử, nhất là các phần mềm dạy học (E-learning...). Điều này sẽ nâng cao
việc tự động hóa của quá trình dạy và học. Điều đơn giản nhất là mỗi giảng viên
sẽ tạo một hệ thống bài giảng trực tuyến được ghi hình lại cẩn thận. Xây dựng
các mô hình trường quay thu nhỏ sử dụng công nghệ mới, các phòng học ảo,
phòng thí nghiệm ảo, thiết bị ảo, thư viện ảo... dưới sự hỗ trợ của các thiết bị
thông minh. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ AI, nhất là trong tổng hợp thông
tin học tập, các gợi ý hữu ích cho giảng viên và sinh viên, tạo điều kiện cho sinh
Vietluanvanonline.com

Page 20


viên tiếp cận giáo trình chuẩn hóa theo từng cá nhân, trong đánh giá năng lực và
nhu cầu của sinh viên, hoặc sử dụng để khắc phục sự thiếu hụt đội ngũ giảng
viên (chẳng hạn dạy ngoại ngữ). Bên cạnh đó là hệ thống câu hỏi kiểm tra dưới
nhiều cấp độ mà sinh viên có thể vào làm và biết kết quả bất kì lúc nào. Hiện
nhiều chương trình đã cung cấp các bài kiểm tra có giám sát về thời gian và
chấm điểm tự động như vậy. Theo đó, việc tổ chức lớp học, giao bài tập, giới hạn
thời gian, kiểm tra bài, cung cấp tài liệu, nhận phản hồi, điều chỉnh hoạt động
của sinh viên... đều được thao tác trên máy. Ngay cả giáo trình, sách trong thư
viện cũng cần được số hóa lần lượt để phục vụ sinh viên học từ xa. Các giảng
viên và ban lãnh đạo nhà trường chú ý một số điểm về chuyển đổi số. Chuyển
đổi phải bảo đảm 4 yếu tố, bao gồm:
- Giảng viên phải có quyền hoạch định kế hoạch và chủ động trong bài
giảng được số hóa
- Cần có câu hỏi, hoạt động tương tác với sinh viên.
- Dù tương đối khó thực hiện song các chương trình số hóa vẫn cần tối ưu

hóa tổ chức và đổi mới phương pháp bằng cách lập các nhóm thảo luận cho sinh
viên, các cuộc thi online, các khoảng nhật kí riêng của sinh viên,….
Quá trình chuyển đổi số ở trường đại học cũng không phải diễn ra nhanh
chóng mà phải diễn ra ở cả ba giai đoạn, bao gồm:
- Lập kế hoạch
- Xây dựng chiến lược một cách độc lập và thực hiện các đổi mới sáng
tạo.
- Giám sát tác động của việc triển khai công nghệ.
Ngay cả việc bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho giảng viên cũng cần thay
bằng các phương pháp hiện đại, tiên tiến. Hiện nay, nhiều giảng viên chưa tiếp
Vietluanvanonline.com

Page 21


cận được với các mô hình dạy học mới sẽ làm hạn chế việc rèn kỹ năng nghề cho
sinh viên sư phạm. Vì thế công tác bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giảng
viên nên kết hợp các mô hình đào tạo tiên tiến 4.0, đào tạo trực tuyến, từ xa để
giảng viên sư phạm vừa nâng cao trình độ chuyên môn, vừa tiếp cận các mô hình
dạy học mới. Các hình thức dạy học này sẽ giúp giảng viên bổ sung vào kiến
thức nghiệp vụ, làm phong phú hơn các hình thức dạy học của mình. Và nhất là
thầy cô cũng phải am hiểu hóa ứng dụng công nghệ thông tin, phương tiện trực
quan vào quá trình dạy học để giải đáp cho sinh viên. Các thầy cô cũng cần phải
được bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao trình độ năng lực bằng những biện pháp
như tập huấn sử dụng công nghệ phục vụ dạy học để làm quen với việc sử dụng
CNTT, ứng dụng các hình thức tiên tiến, mô hình trực tuyến vào công tác bồi
dưỡng giảng viên, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng theo
hướng nghiên cứu. Bên cạnh đó, phải nâng cao trình độ ngoại ngữ mới có thể
tiếp cận tốt với việc đón nhận các phương pháp mới.
3.4. Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực

Ngoài ra, giảng viên cần thay đổi tư duy dạy và học theo phương pháp mới
để người học vừa lĩnh hội được kiến thức, vừa biết vận dụng sáng tạo vào thực
tiễn. Trong dạy học trực tiếp, giảng viên nên kết hợp giữa các phương pháp
truyền thống (thuyết trình, đàm thoại, luyện tập...) với các phương pháp mới
(giải quyết vấn đề, dạy học tình huống, dạy học định hướng hành động...). Đối
với quá trình dạy tiếp cận xu hướng 4.0, điều cốt yếu chưa hẳn là sự thay đổi
công nghệ mà căn bản là sự sáng tạo, chủ động của sinh viên. Nguyên tắc dạy
học là cần chuyển từ truyền thụ kiến thức sang hình thành phẩm chất và phát
triển năng lực người học hay là tổ chức một nền giáo dục mở, thực học, thực
nghiệp; chuyển phát triển giáo dục đào tạo từ chủ yếu theo số lượng sang chú
trọng cả số lượng, chất lượng và hiệu quả; chuyển từ chỉ chú trọng giáo dục nhân
cách nói chung sang kết hợp giáo dục nhân cách với phát huy tốt nhất tiềm năng
cá nhân; chuyển từ quan niệm cứ có kiến thức là có năng lực sang quan niệm
kiến thức chỉ là yếu tố quan trọng của năng lực. Giảng viên phải giúp sinh viên
Vietluanvanonline.com

Page 22


điều chỉnh định hướng về chất lượng và ý nghĩa của nguồn thông tin. Giảng viên
phải là nhà giáo dục chuyên nghiệp có đầu óc sáng tạo, biết phê phán, tư duy độc
lập, năng lực hợp tác tích cực và hỗ trợ có hiệu quả giữa người học với những gì
họ muốn biết. Thầy cô sẽ là người cung cấp cách hiểu mới cho người học. Vai
trò người dạy - truyền thụ kiến thức theo cách truyền thống đã sang vai trò xúc
tác và điều phối, họ phải chuyển sang chức năng hướng dẫn người học. gười dạy
cũng cần thay đổi phương pháp giảng dạy, dần dần chuyển đổi từ phương pháp
đọc – chép - học thuộc lòng sang hình thức giảng dạy khác phù hợp hơn như dạy
học nêu vấn đề, thảo luận nhóm, seminar, báo cáo – thảo luận, học tập lý thuyết
kết hợp sinh hoạt thực tế,.... Theo phương pháp giáo dục truyền thống, người
thầy truyền tải tri thức, thông tin cho sinh viên, hiện nay các trang mạng trên In

ternet đang dần thay thế vai trò đó, cung cấp thông tin một cách nhanh chóng,
tiện lợi và miễn phí; sinh viên không còn bị giới hạn trong bốn bức tường phòng
học mà có điều kiện học mọi lúc mọi nơi, mở rộng ra phạm vi toàn cầu. Khi công
nghệ hỗ trợ tối đa mục tiêu kiến thức và kỹ năng, nhưng không thể thay thế
người thầy chuyền tải, truyền cảm hứng cho sinh viên về thái độ sống và làm
việc, thích ứng với mọi thay đổi, về tính hợp tác và năng lực sáng tạo. Năng lực
và thái độ có vai trò quyết định trong mục tiêu đào tạo của các nhà trường; kiến
thức không chỉ được tiếp nhận thông qua giáo trình, tài liệu tham khảo, trên lớp,
mà được bổ sung, đổi mới và nhân lên từng giờ từng phút, sinh viên có thể dễ
dàng học tập, nhưng phải qua đối thoại, làm việc nhóm, phản biện vấn đề. Giảng
viên cần xác định các chuẩn năng lực chung và năng lực chuyên môn; các hình
thức tích hợp hoặc phân hóa trong chương trình dạy học tùy theo cấp học. Giảng
viên sẽ kích thích năng lực tư duy, niềm đam mê nghiên cứu và khám phá cái
mới trong sinh viên. Từ đó, nền giáo dục cần chuyển đổi cách thức giáo dục từ
truyền thụ kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của sinh viên, hình
thức giáo dục sẽ linh hoạt về thời gian, không gian, phù hợp với điều kiện và nhu
cầu cá nhân phát triển

Vietluanvanonline.com

Page 23


Ngay trong các hình thức học online, học trực tuyến đòi hỏi giảng viên
không phải truyền thụ kiến thức nữa, mà phải là người hướng dẫn, điều phối tạo
ra môi trường học tập cho sinh viên. Giảng viên không phải giảng bài mà tập
trung giúp sinh viên định hướng việc học. Người giảng viên không chỉ phải giỏi
về chuyên môn, sẵn sàng giải đáp câu hỏi của sinh viên, mà còn phải có bản lĩnh,
thường xuyên nâng cao năng lực thích ứng với hoàn cảnh mới. Cần chuyển từ
học thuộc, nhớ nhiều sang hình thành năng lực vận dụng, thích nghi, giải quyết

vấn đề, tư duy độc lập. Giảng viên hướng dẫn sinh viên không chỉ học trong sách
vở, qua tài liệu mà phải học qua nhiều hình thức khác như qua trò chơi, liên hệ
tương tác, cung ứng đám đông, học bằng dự án. Sinh viên sẽ được giáo dục về
việc trở thành người lao động trong tương lai lấy việc học cả đời để làm việc cả
đời.
3.5. Tăng cường các hoạt động nghiên cứu khoa học, trải nghiệm thực
tế, tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá khoa học và các hoạt động
chuyên môn tại trường
Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động toàn cầu, đối với công tác giáo dục
thì ứng dụng công nghệ khoa học là một tất yếu khách quan, hoạt động nghiên
cứu khoa học luôn là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của bất kỳ một trường đại
học nào. Kết hợp ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học trong giảng dạy luôn là
một giải pháp tất yếu, một nội dung quan trọng trong tiến trình đào tạo đại học.
Đối với trường đại học Hải Dương nói chung và học phần Thống kê kinh tế nói
riêng, các thầy cô cần đặt ra lộ trình tiến tới quốc tế hóa các tiêu chuẩn đánh giá
các hoạt động khoa học và các hoạt động về chuyên môn trong trường.
Bên cạnh đó, việc trải nghiệm thực tế cũng quan trọng. Để học học phần
Thống kê kinh tế, thầy cô có thể tổ chức cho sinh viên thực hiện dự án về nghề
nghiệp liên quan, như làm kế toán cho lớp, trường, cho một dự án xã hội,… vì
trong tương lai, đất nước ta sẽ gắn với nền kinh tế tự do, do vậy sinh viên ngày
càng phải thích nghi với việc học tập theo kiểu dự án. Điều này có nghĩa học

Vietluanvanonline.com

Page 24


phải học cách áp dụng các kỹ năng trong một thời gian rất ngắn để giải quyết
nhiều tình huống khác nhau. Sinh viên nên sẵn sàng làm quen với các kỹ năng
dựa trên dự án trong trường đại học, đó là các kỹ năng quản lý tổ chức, kỹ năng

quản lý thời gian có thể được giảng dạy như những điều cơ bản mà mọi sinh viên
có thể sử dụng trong quá trình học tập của mình. Chương trình học Thống kê
kinh tế cần được gắn liền với lĩnh vực ngành nghề liên quan tới kế toán, kinh tế
để nâng cao tính thực tế. Trường đại học Hải Dương cần tạo nhiều cơ hội để sinh
viên có được các kỹ năng thực tế ở mỗi lĩnh vực đại diện cho chương trình học
của mình. Điều này có nghĩa là chương trình sẽ tạo ra nhiều khoảng trống cho
sinh viên hoàn thiện thông qua thực hành thực tế, tư vấn và tham gia vào các dự
án hợp tác.
III.

Kết luận và kiến nghị

Do ảnh hưởng tích cực từ cuộc CMCN 4.0, các trường đại học cần định
hướng tới nền giáo dục tương lai tiên tiến định hình và phát triển. CNTT đã và
đang ảnh hưởng ngày càng sâu sắc đến giáo dục và đào tạo, nhất là trong việc
đổi mới phương pháp giảng dạy, công nghệ dạy học. Trường đại học Hải Dương,
trong đó có bộ môn Thống kê kinh tế cũng vậy. Để bắt kịp nền giáo dục 4.0, các
thầy cô cần đổi mới phương pháp dạy học một cách kịp thời. Đổi mới phương
pháp giảng dạy nhằm làm thay đổi căn bản về chất quá trình dạy và học để tạo ra
nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời với sự phát triển của đất nước. Ở đó, chúng ta
coi trọng nguồn lực con người chất lượng cao mới thay vì nguồn lực tài chính
hay nhân công rẻ, kém chất lượng như hiện nay. Con người là nguồn lực chủ yếu
cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, các phương pháp phải kích thích được trí
tuệ, sự sáng tạo của con người. Các lớp học Thống kê kinh tế cần được số hóa,
sử dụng các thiết bị thông minh, thiết bị không dây và đa phương tiện kỹ thuật số
ảo được phát triển mạnh. Khóa học trên thiết bị di động và thiết kế trò chơi học
tập là những công nghệ được hình thành trong kỷ nguyên số, làm cho việc giảng
dạy bộ môn thay đổi để phù hợp và tiệm cận với xu thế phát triển của công nghệ.
Làm được điều đó thì sinh viên tham gia học phần Thống kê kinh tế sẽ giúp sinh
Vietluanvanonline.com


Page 25


×