Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố hội an, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.9 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THÚY VÂN

ĐẶNG THỊ THÚY VÂN

CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHÓA IX

HÀ NỘI, năm 2020.


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐẶNG THỊ THÚY VÂN

CÁC BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM.

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
T.S NGUYỄN KHẮC HẢI

HÀ NỘI, năm 2020.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi, dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ Nguyễn Khắc Hải. Các kết quả nghiên cứu
trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu và ví dụ nêu trong Luận văn đảm bảo độ chính xác, khách quan và trung
thực. Các kết luận khoa học của các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ
trong Luận văn.

Tác giả luận văn

Đặng Thị Thúy Vân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................................... 17
1.1. Một số vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội ....................................................................................................... 17
1.2. Pháp luật hình sự một số nước về biện pháp tư pháp đối với người dưới

18 tuổi phạm tội ........................................................................................... 30
CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT
NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................ 37
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành về biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ............................................................. 37
2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ................................................... 45
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ CÁC GIẢI PHÁP GÓP
PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TƯ PHÁP ĐỐI
VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ............................................... 62
3.1. Các yếu tố đảm bảo áp dụng đúng quy định về biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 ....................... 62
3.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội ........................................................................................... 65


3.3. Các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ................................................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................. 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự


BLTTHS:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX:

Hội đồng xét xử

TAND:

Tòa án nhân dân

THAHS:

Thi hành án hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số bảng


Tên bảng

hiệu

Trang

Phân biệt biện pháp tư pháp đối với người dưới 18
Bảng 1.1 tuổi phạm tội và hình phạt đối với người dưới 18 tuổi

18

phạm tội
Tình hình áp dụng biện pháp tư pháp đối với người
Bảng 2.1 dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An và tỉnh

33

Quảng Nam từ năm 2015 đến năm 2019
Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với
Bảng 2.2 người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An từ

35

năm 2015 đến năm 2019
Các tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện bị áp
Bảng 2.3 dụng biện pháp tư pháp trên địa bàn thành phố Hội

37

An từ năm 2015 đến năm 2019

Thống kê số bị cáo là người dưới 18 tuổi theo giới
Bảng 2.4 tính, nhóm tuổi và trình độ học vấn tại thành phố Hội
An từ năm 2015 đến năm 2019

38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
kinh tế quốc tế, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu lớn về khoa học, kinh tế,
văn hóa, xã hội, chính trị. Tuy nhiên, việc phát triển về mọi mặt của đời sống
xã hội cũng mang đến những mặt tiêu cực, lối sống cực đoan và kết quả tất
yếu là tình hình tội phạm ngày càng phức tạp, trong đó, tình hình người dưới
18 tuổi phạm tội ngày càng diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng về số
lượng và tính chất nguy hiểm của hành vi.
Người dưới 18 tuổi là người đang trong quá trình phát triển và hoàn
thiện về thể chất, tâm sinh lý, nhân cách sống. Người ở độ tuổi này chưa phát
triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần, nhân cách; có sự hạn chế
về kinh nghiệm sống, kiến thức pháp luật, dễ bị tác động, chi phối bởi điều
kiện sống; chưa thể nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi mà mình thực hiện, khả năng tự kiềm chế chưa tốt. Trong tư duy của
người ở độ tuổi này bắt đầu hình thành ý thức độc lập trong việc quyết định
cuộc sống riêng của mình, bắt đầu tự độc lập trong hành động, suy nghĩ, ứng
xử và thiết lập các mối quan hệ riêng biệt, dễ bị người khác kích động, dụ dỗ,
lôi kéo vào việc thực hiện những hành vi trái pháp luật. Chính vì vậy, vấn đề
người dưới 18 tuổi phạm tội ngày càng thu hút sự quan tâm của xã hội và các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
Là đạo luật quan trọng quy định những vấn đề liên quan đến tư pháp
hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS năm 2015 đã dành nhiều

điều khoản quy định về chính sách xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo hướng vì lợi ích tốt nhất của họ. Theo đó, việc xử lý người dưới
18 tuổi phạm tội phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định và phải nhằm


mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, trở thành người có ích cho xã
hội và cho gia đình. Việc truy cứu TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
phải được cân nhắc trên cơ sở đánh giá đầy đủ các đặc điểm tâm sinh lý, các
yếu tố gia đình và xã hội, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng như yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm. Ngay cả khi người dưới 18
tuổi phạm tội bị truy cứu TNHS thì họ vẫn có khả năng không bị áp dụng
hình phạt, việc áp dụng hình phạt được xem là biện pháp cuối cùng. Thay vào
đó, Tòa án ưu tiên áp dụng biện pháp tư pháp hoặc biện pháp giám sát, giáo
dục trong trường hợp được miễn TNHS nếu việc áp dụng các biện pháp này
vẫn đảm bảo mục đích giáo dục, cải tạo người dưới 18 tuổi phạm tội.
Trong những năm qua, quá trình áp dụng các quy định của BLHS liên
quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội đã phát huy hiệu quả đáng kể mục đích
giáo dục, cải tạo cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ trong
tư pháp hình sự. Tuy nhiên, tình hình tội phạm xâm hại người dưới 18 tuổi
diễn ra khá nghiêm trọng, các tội về hiếp dâm, mua bán trẻ em cũng đang là
vấn đề được cả xã hội quan tâm, trong khi đó, việc áp dụng quy định có liên
quan của BLHS đối với người dưới 18 tuổi vẫn còn gặp một số khó khăn,
vướng mắc. Bên cạnh đó, việc nước ta ký kết Công ước của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em đã đặt ra yêu cầu bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền lợi ích hợp
pháp của người dưới 18 tuổi, do đó, các biện pháp tư pháp hình sự áp dụng
với người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải có những sửa đổi, bổ sung để phù
hợp hơn. BLHS cần phải quy định những chế tài xử lý riêng đối với người
dưới 18 tuổi, thủ tục tố tụng cũng phải phù hợp với lứa tuổi này nhằm thể
hiện tính nhân đạo trong đường lối, chính sách xử lý người dưới 18 tuổi phạm
tội của Đảng và Nhà nước. Cần phải đảm bảo các chế tài xử lý hình sự đối

với người dưới 18 tuổi cũng cần phải đủ mạnh để đảm bảo tính ren đe, phòng
ngừa họ tiếp tục phạm tội cũng như có sức ren đe đối với cộng đồng.


Với những lý do đó, tác giả chọn đề tài “Các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam”
để làm Luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, ở các mức độ khác nhau đã có những công trình
khoa học đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài này.
Về giáo trình, sách chuyên khảo, bình luận có các công trình sau: Đinh
Văn Quế (2018), Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015 - Phần thứ nhất, Nxb.
Thông tin và truyền thông, Hà Nội; 2) TS. Phạm Mạnh Hùng (2014), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 3) Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo Sau
đại học: Những vấn đề cơ bản trong Khoa học Luật hình sự (phần chung),
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội; 4) Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo
trình luật hình sự Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; 5) Trịnh Tiến
Việt (2012), Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luậthình sự trước
yêu cầu đổi mới đất nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 6) Đinh Văn Quế
(2000), Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm 1999 - Phần chung, Nhà
xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh; 7) Nguyễn Đức Mai (2009),
Bình luận khoa học BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 phần chung,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; 8) Đinh Văn Quế (2006), Thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự những vấn đề lí luận và thực tiễn, Nxb. Phương Đông, Hà
Nội; 9) Nguyễn Xuân Yêm (2004), Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội Trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội; 10) Trịnh Tiến Việt (2013), Pháp luật hình sự Việt Nam về miễn trách
nhiệm hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Bên cạnh đó, dưới góc độ khoa học có một số công trình ở cấp độ luận
văn thạc sĩ, tiến sĩ luật học như: 1) T.S Nguyễn Gia Viễn (2019), Áp dụng



hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn tỉnh Sóc Trăng, Luận văn Tiến sĩ, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội; 2) Th.S Đỗ Thị Bảo Ngọc (2019), Các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Trị”, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; 3) Th.S
Lưu Ngọc Cảnh (2010), Các hình phạt và biện pháp tư pháp áp dụng đối với
người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc
sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 4) Th.S Nguyễn Thị Tố Nga
(2011), Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội theo quy định của pháp luật hình sự, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 5) Th.S Đỗ Văn Hùng (2016), Các biện pháp tư
pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo pháp luật hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; 6)
Th.S Nguyễn Thị Minh Nguyệt (2016), Biện pháp tư pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn đối với người chưa thành niên phạm tội trong Luật hình sự
Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
7) Th.S Lưu Thị Thu Hương (2014), Các biện pháp tư pháp trong pháp luật
hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội; 8) Th.S Trần Hồng Nhung (2017), Các biện pháp giám sát, giáo dục
và biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, Luận văn Thạc sĩ,
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Ngoài ra, có một số nghiên cứu được đăng trên các tạp chí chuyên ngành
luật như: 1) Th.S Trần Văn Dũng (2008), “Chế định thẩm phán vị thành niên
trong Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp”, Tạp chí Luật
học, số 5, tr. 54-59; 2) Th.S Hà Lệ Thủy (2016), “Các biện pháp tư pháp
trong Luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 4,
tr. 32-36; 3) PGS.TS Lê Thị Sơn (2015), “Nguyên tắc xử lý đối với người



chưa thành niên phạm tội và sự thể hiện trong Bộ luật hình sự”, Tạp chí luật
học, số 3, tr. 55-64; 4) Lê Cảm, Đỗ Thị Phượng (2004), “Tư pháp hình sự đối
với người chưa thành niên: Những khía cạnh pháp lý hình sự, tố tụng hình sự,
tội phạm học và so sánh luật học”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 20; 5)
Nguyễn Đình Gấm (2002), “Nguyên nhân tâm lý xã hội của tội phạm vị thành
niên”, Tạp chí Tâm lý học, số 5; 6) Phạm Văn Hùng (2008), “Hệ thống điều
tra thân thiện với người chưa thành niên”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số
20; 7) TS. Trần Đình Thắng (2020), “Biện pháp tư pháp - Thực trạng và giải
pháp”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 09.
Có thể thấy, do phạm vi và mục đích nghiên cứu nên các công trình khoa
học chưa đi sâu nghiên cứu một các có hệ thống, đồng bộ và toàn diện các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ cơ sở đánh
giá thực tiễn áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
trên một địa bàn cụ thể là thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam. Chính vì vậy,
việc làm sáng tỏ những quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đồng thời đưa ra những giải
pháp góp phần hoàn thiện các chính sách hình sự đối với người dưới 18 tuổi,
đặc biệt là các biện pháp tư pháp, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả giáo
dục, phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của luận văn nhằm làm sáng tỏ một cách có hệ thống những
vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội theo pháp luật hình sự Việt Nam và phân tích pháp luật hình sự của một số
quốc gia trên thế giới về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội. Đồng thời, luận văn tiến hành tổng kết và đánh giá thực tiễn áp dụng các



biện pháp này tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015
đến năm 2019, trên cơ sở đó, nêu ra những vướng mắc, hạn chế, khó khăn
trong việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về
các biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cũng như đưa ra
các giải pháp nâng cao hiệu quả trong việc áp dụng biện pháp tư pháp này
trên thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ chủ
yếu sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích để làm rõ một số vấn đề lý luận về các biện pháp
tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Khái niệm, đặc
điểm, vai trò, phân biệt giữa biện pháp tư pháp với hình phạt áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới
về các biện pháp này.
- Tổng kết, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam, từ đó
nêu ra những vướng mắc, bất cập, khó khăn trong việc áp dụng biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về biện pháp tư
pháp đối với người dưới 18 tuổi cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả
của việc áp dụng biện pháp này trên thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó: Các biện
pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Dưới góc độ chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự, luận văn chỉ
đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp tư pháp áp dụng
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành cũng như phân tích những nội dung xoay quanh việc áp dụng
các quy định của pháp luật về biện pháp tư pháp này trên cơ sở đánh giá thực
tiễn áp dụng tại thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2015
đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ
em cũng như các chính sách hình sự, phòng ngừa tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên một tổng thể các phương pháp nghiên cứu như:
- Phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ quy định của pháp luật
hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để đúc kết các nội dung pháp lý
về các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã
được đánh giá, phân tích; tổng hợp các số liệu thu thập được từ tổng kết áp


dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hội
An.
- Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu, làm rõ sự khác biệt
trong việc quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội trước và sau khi BLHS năm 2015 ban hành; so sánh giữa biện pháp
tư pháp với hình phạt áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Phương pháp liệt kê, thống kê được sử dụng để tìm ra số liệu áp dụng

biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi trên địa bàn thành phố Hội An.
- Phương pháp phỏng vấn được sử dụng để thăm hỏi ý kiến Thẩm phán,
Kiểm sát viên về việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
trên địa bàn thành phố Hội An.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự về biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và đánh giá thực
tiễn áp dụng cán biện pháp này trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng
Nam, luận văn đề xuất những giải pháp góp phần hoàn thiện các chế định
hình sự về biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo
lý luận cần thiết, phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập khoa học pháp luật
hình sự cho sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành hình
sự và tố tụng hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn thành phố Hội An, luận văn đề
xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp này


trên thực tiễn có ý nghĩa trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như
giáo dục, cải tạo người phạm tội nói chung và người dưới 18 tuổi phạm tội
nói riêng ở nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài liệu có thể làm căn cứ sửa đổi
pháp luật hiện hành và tiến đến hoàn thiện hệ thống tư pháp hình sự trong
tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và pháp luật hình sự một số nước trên

thế giới về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 2: Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và các giải pháp góp phần nâng cao hiệu
quả áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VỀ BIỆN PHÁP TƯ
PHÁP ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người dưới
18 tuổi phạm tội
1.1.1.1. Khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
Để có thể đưa ra khái niệm biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội, trước hết cần phải làm rõ người dưới 18 tuổi được hiểu như thế nào,
các đặc điểm tâm sinh lý của đối tượng này, từ đó đưa ra khái niệm người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo Điều 1 Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em được Đại hội
đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có nêu: “Trong phạm vi
Công ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp
áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành niên sớm hơn.” Theo đó, độ
tuổi trẻ em được xác định trong Công ước 1989 chỉ mang tính định hướng
trên cơ sở tôn trọng tuyệt đối hệ thống pháp luật của các quốc gia thành viên
dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ em cũng như tập quán xã hội ở mỗi quốc
gia đó. Như vậy, độ tuổi của người chưa thành niên được xác định không

giống nhau tùy thuộc vào điều kiện của mỗi quốc gia thành viên.
Nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn
bản pháp luật ở nước ta quy định thống nhất độ tuổi của người chưa thành


niên là dưới 18 tuổi, riêng Luật trẻ em năm 2016 quy định trẻ em là người
dưới 16 tuổi. Có thể thấy rằng, mỗi văn bản pháp luật có mỗi phạm vi điều
chỉnh riêng phù hợp với từng chế định pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể
nên có những quy định khác nhau khi xác định độ tuổi được coi là người chưa
thành niên, trẻ em.
BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi là BLHS
năm 2015) ra đời đã sửa đổi cụm từ “người chưa thành niên” theo quy định
của BLHS năm 1999 thành “người dưới 18 tuổi” nhưng vẫn giữ nguyên độ
tuổi góp phần làm rõ quy định người chưa thành niên là người dưới 18 tuổi.
Có thể thấy, khái niệm người dưới 18 tuổi tương đồng với khái niệm người
chưa thành niên, trên cơ sở căn cứ vào sự phát triển về thể chất, tinh thần
cũng như đặc điểm tâm sinh lý, có thể hiểu người dưới 18 tuổi là người chưa
phát triển hoàn thiện về thể chất, tinh thần, tâm sinh lý và nhân cách, chưa có
đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Ở độ tuổi này, người dưới 18 tuổi đang trong quá trình hoàn thiện về thể
chất, tâm sinh lý nên họ thường tò mò, sôi nổi, muốn thể hiện là người lớn,
nhưng lại dễ nổi giận, cáu ghét, không kiềm chế được hành vi, cảm xúc,…
nên dễ bị chi phối bởi những tác động bên ngoài, họ tự cho mình quyền tự do
nhưng đôi khi lại tự do hành động một cách tùy tiện và thực hiện các hành vi
thiếu suy nghĩ chín chắn. Sự tùy tiện vô kỷ luật này là hành vi vi phạm pháp
luật và có thể dẫn đến sự mất tự do của họ. Từ đặc điểm về lứa tuổi, các đặc
trưng nêu trên của người dưới 18 tuổi nên pháp luật Việt Nam cũng như pháp
luật nhiều quốc gia trên thế giới đều có những chế định pháp luật, đường lối,
chính sách phù hợp để giáo dục, xử lý đối với người dưới 18 tuổi vi phạm
pháp luật cũng như bảo vệ, phòng ngừa các hành vi xâm phạm người dưới 18

tuổi.


Ở Việt Nam, thuật ngữ người dưới 18 tuổi phạm tội được đề cập chủ yếu
trong BLHS và BLTTHS; trong đó, BLHS dành Chương XII và BLTTHS
dành Chương XXVIII để quy định riêng chính sách hình sự liên quan đến
người dưới 18 tuổi phạm tội. Tuy nhiên, BLHS và BLTTHS không đưa ra
một định nghĩa chính thức về người dưới 18 tuổi phạm tội.
Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì người chưa thành
niên phạm tội được hiểu là “người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực
trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ do hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và
đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị luật hình sự cấm” [6, tr. 9]. Xét toàn cục, quan điểm này chứa đựng nhiều
hạt nhân hợp lý khi phân tích tương đối bao quát các dấu hiệu đặc trưng về
người chưa thành niên phạm tội như: Độ tuổi, năng lực TNHS, mức độ lỗi,
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Tuy nhiên, khái niệm này
không còn phù hợp với sự thay đổi, bổ sung của BLHS 2015 khi các chế định
hình sự được quy định đều liên quan đến thuật ngữ “người dưới 18 tuổi phạm
tội”.
Còn theo Th.S Đinh Văn Quế, người dưới 18 tuổi phạm tội được hiểu là
“người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm” [24, tr. 367]. Định nghĩa này hoàn
toàn phù hợp với sự thay đổi, bổ sung của BLHS năm 2015 khi sửa đổi cụm
từ “người chưa thành niên phạm tội” thành “người dưới 18 tuổi phạm tội”
cũng như phù hợp với các chế định hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi
phạm tội được quy định trong BLHS, BLTTHS và các văn bản pháp luật liên
quan. Tuy nhiên, khái niệm này còn quy định chung chung, chưa nêu rõ các
dấu hiệu đặc trưng về người dưới 18 tuổi phạm tội.
Do đó, trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học nêu trên, tác giả cho
rằng, người dưới 18 tuổi phạm tội có thể định nghĩa như sau: Người dưới 18



tuổi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi có năng lực trách nhiệm
hình sự chưa đầy đủ do bị hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội mà Bộ luật hình sự quy định là tội phạm với lỗi
cố ý hoặc vô ý.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, bên cạnh hệ thống các hình phạt thì
pháp luật hình sự nước ta còn quy định một biện pháp cưỡng chế hình sự khác
ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt đó là biện pháp tư pháp.
Theo giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường Đại học Luật Hà Nội:
“Biện pháp tư pháp là các biện pháp hình sự được Bộ luật hình sự quy định,
do các cơ quan tư pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã
hội, có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế hình phạt” [41, tr. 194]. Tác giả cho
rằng, quan điểm này còn quy định chung chung, chưa phản ánh đầy đủ các
dấu hiệu của biện pháp tư pháp, chẳng hạn như bản chất của biện pháp tư
pháp là biện pháp cưỡng chế hình sự. Ngoài ra, quan điểm trên ghi nhận đối
tượng bị áp dụng là người có hành vi nguy hiểm cho xã hội là không chính
xác. Bởi chỉ những người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình
sự cấm thì mới có thể bị áp dụng biện pháp tư pháp. Còn đối với những người
cũng thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải là tội phạm
thì không được áp dụng biện pháp tư pháp theo quy định của BLHS.
Ngoài ra, giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần chung của trường Đại
học kiểm sát Hà Nội, các biện pháp tư pháp được hiểu là “các biện pháp
cưỡng chế hình sự do Bộ luật hình sự quy định, được áp dụng đối với người
phạm tội có tác dụng hỗ trợ hoặc thay thế cho hình phạt” [12, tr. 276]. Quan
điểm này là phù hợp nhưng chưa đầy đủ. Do đó, để đảm bảo phản ánh đầy đủ
các dấu hiệu đặc trưng của biện pháp tư pháp, tác giả cho rằng cần bổ thêm
vào định nghĩa này thẩm quyền áp dụng các biện pháp tư pháp.



Theo GS.TSKH Lê Cảm thì “biện pháp tư pháp là biện pháp cưỡng chế
về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn hình phạt do pháp luật hình sự
quy định và được các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền căn cứ vào giai
đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể áp dụng đối với người phạm tội nhằm
hạn chế quyền, tự do của người đó hoặc hỗ trợ hay thay thế hình phạt” [5, tr.
679]. Có thể thấy, quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm đã định nghĩa cụ thể
biện pháp tư pháp với các dấu hiệu đặc trưng mà nhìn vào đó, người đọc có
thể hiểu rõ biện pháp tư pháp là gì và phân biệt được biện pháp tư pháp với
hình phạt. Do đó, tác giả hoàn toàn đồng ý với quan điểm này.
Như vậy, có thể thấy, so với hình phạt thì biện pháp tư pháp là một chế
tài hình sự ít nghiêm khắc hơn, chỉ mang tính hỗ trợ hoặc thay thế cho hình
phạt chứ không mang tính trừng trị như hình phạt.
Vậy, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là
gì? Hiện nay, BLHS cũng như các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thi hành
BLHS chưa đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về biện pháp tư pháp đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
BLHS hiện hành quy định nguyên tắc chủ đạo khi xử lý người dưới 18
tuổi phạm tội là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ và nhằm mục đích giáo
dục, giúp đỡ họ sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có
ích cho xã hội chứ không nhằm mục đích trừng trị. Khi xét xử người dưới 18
tuổi phạm tội, Tòa án phải ưu tiên miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một
trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc áp dụng biện pháp tư pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 với tính chất là biện pháp giáo
dục, phòng ngừa thay thế cho hình phạt. Do đó, trên cơ sở những định nghĩa
về biện pháp tư pháp và người dưới 18 tuổi phạm tội được nêu trên cũng như
quy định của pháp luật hình sự về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18


tuổi, có thể định nghĩa biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
như sau:

Biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp
cưỡng chế hình sự của Nhà nước áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi thực
hiện hành vi phạm tội, được các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền áp
dụng nhằm thay thế hình phạt.
1.1.1.2. Đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Theo Thạc sĩ Đỗ Văn Hùng, các biện pháp tư pháp áp dụng cho người
chưa thành niên phạm tội có những dấu hiệu cơ bản sau: Thứ nhất, các biện
pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội là các biện
pháp cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt; thứ hai, các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội có tính
chất thay thế, hỗ trợ cho hình phạt. [11, tr. 32-34]
Ngoài ra, trong Luận văn thạc sĩ của Thạc sĩ Nguyễn Thị Tố Nga, các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội gồm có
những đặc điểm cơ bản sau: Biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội trước hết là một biện pháp của pháp luật hình sự và chỉ
có thể được áp dụng khi có hành vi phạm tội do người chưa thành niên thực
hiện; biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp
cưỡng chế về hình sự ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt và việc áp dụng
biện pháp tư pháp thay thế hình phạt không để lại án tích; biện pháp tư pháp
áp dụng đối với người chưa thành niên là biện pháp tư pháp nhằm thay thế
hoặc hỗ trợ hình phạt do cơ quan có thẩm quyền áp dụng. [17, tr. 14-16]
Như vậy, qua việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá các quan điểm khoa
học về đặc điểm của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội


cũng như các quy định về biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội tại Chương XII BLHS và các văn bản dưới luật hướng dẫn; từ định nghĩa
biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được nêu ở Mục
1.1.1.1, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội có những đặc

điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là biện pháp cưỡng chế về hình sự của Nhà nước ít nghiêm khắc hơn so
với hình phạt.
Có thể thấy rằng, hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc
nhất của Nhà nước. Việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trước hết
là nhằm mục đích trừng trị. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi là những người
phát triển chưa đầy đủ về nhân cách, về trạng thái tâm lý, sinh lý, nhận thức
của họ còn non nớt, thiếu chín chắn và đặc biệt dễ bị kích động, lôi kéo, dụ dỗ
bởi những người xung quanh, nếu ở môi trường xấu và không được chăm sóc,
quan tâm, giáo dục chu đáo thì họ rất dễ bị ảnh hưởng bởi những thói hư, tật
xấu dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm pháp [10, tr. 12]. Do đó, việc xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội trước tiên là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của họ.
Đây là nguyên tắc mang tính nhân đạo trong chính sách hình sự của Đảng và
Nhà nước ta trong quá trình xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội với mục đích
chủ yếu là nhằm giáo dục, uốn nắn, ren đe những hành vi lệch lạc, làm cho họ
thấy được những sai phạm của mình để sửa chữa sai lầm, phát triển lành
mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội chứ không nhằm mục đích
trừng trị. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình phạt có thể hạn chế hoặc tước bỏ
một số quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội như quyền tự do, quyền
sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể hay thậm chí kể cả quyền
sống thì các biện pháp tư pháp chỉ hạn chế quyền tự do và chỉ mang tính thay
thế cho hình phạt với ý nghĩa giáo dục, cải tạo, phòng ngừa người dưới 18


tuổi phạm tội nên ít nghiêm khắc hơn. Đồng thời, việc áp dụng các biện pháp
tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích thay thế cho việc
áp dụng hình phạt sẽ không để lại án tích cho họ.
Thứ hai, biện pháp tư pháp áp dụng đối với người dưới 18 tuổi chỉ khi
có hành vi phạm tội xảy ra do người dưới 18 tuổi thực hiện.

Chỉ khi người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội và thuộc một
trong các trường hợp bị xử lý hình sự được quy định trong BLHS thì người
dưới 18 tuổi mới bị áp dụng biện pháp tư pháp. Điều này có nghĩa là phải có
hành vi phạm tội xảy ra và chủ thể thực hiện hành vi đó phải là người dưới 18
tuổi. Nếu không có tội phạm xảy ra và chủ thể thực hiện hành vi phạm tội
không phải là người dưới 18 tuổi thì không thể áp dụng biện pháp tư pháp đối
với người dưới 18 tuổi với tính chất là biện pháp cưỡng chế về hình sự ít
nghiêm khắc hơn hình phạt.
Thứ ba, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội do Tòa
án áp dụng.
Thẩm quyền áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội thuộc về Tòa án. Theo đó, Tòa án có thể áp dụng biện pháp tư pháp giáo
dục tại trường giáo dưỡng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thay thế cho
hình phạt nếu xét thấy do tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội, do
nhân thân và môi trường sống của người đó mà cần đưa họ vào một tổ chức
giáo dục có kỷ luật chặt chẽ. Việc áp dụng các biện pháp tư pháp này thể hiện
tính nhân đạo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, vẫn đảm bảo các quyền lợi
của người dưới 18 tuổi như đối với công dân bình thường và đáp ứng các điều
kiện áp dụng mà pháp luật hình sự quy định mà không cần thiết phải áp dụng
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.


Thứ tư, biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm tội mang
tính chất thay thế cho hình phạt.
Mặc dù hình phạt là biện pháp cưỡng chế hình sự nghiêm khắc nhất của
Nhà nước nhưng hình phạt không phải là cách thức, phương tiện duy nhất để
đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đặc biệt đối với tội phạm do người dưới 18
tuổi thực hiện thì việc áp dụng hình phạt chỉ được xem xét sau cùng khi đã
cân nhắc áp dụng các biện pháp tư pháp, hay nói cách khác, việc áp dụng hình
phạt là biện pháp cuối cùng khi xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó,

khi xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải ưu tiên áp dụng việc
miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp: Khiển trách,
hòa giải tại cộng đồng và giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc áp dụng biện
pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng với tính chất là biện pháp bảo đảm hiệu
quả giáo dục, phòng ngừa thay thế cho hình phạt. Đây là nguyên tắc mang
tính nhân đạo, khoan hồng của Đảng và Nhà nước trong đường lối xử lý
người dưới 18 tuổi phạm tội, phù hợp với mục đích giáo dục, cải tạo người
dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ năm, việc áp dụng biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội không để lại án tích đối với họ.
Có thể thấy rằng, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội sẽ để lại án tích đối với họ còn việc áp dụng các biện pháp tư pháp
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhằm mục đích thay thế cho việc áp dụng
hình phạt sẽ không để lại án tích cho họ. Đây là quy định theo hướng có lợi
cho người dưới 18 tuổi khi thực hiện hành vi phạm tội.
1.1.2. Vai trò của biện pháp tư pháp đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội


×