Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.35 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIM TÂM

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI , năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KIM TÂM

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật hiến pháp và luật hành chính
Mã số

: 8.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Lê Văn Long


HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn chưa
từng được công bố trong các công trình khác.
Hà Nội, ngày

tháng

Tác giả luận văn

năm 2020


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

NVQS

Nghĩa vụ quân sự

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

ANQP

An ninh quốc phòng


LLVT

Lực lượng vũ trang

BVTQ

Bảo vệ tổ quốc

QPTD

Quốc phòng toàn dân

UBND

Ủy ban nhân dân

HĐND

Hội đồng nhân dân

AHLĐ

Anh hùng lao động

ĐCSVN

Đảng cộng sản Việt Nam

ANTQ


An ninh tổ quốc

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VPHC

Vi phạm hành chính


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ ............................. 10
1.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công
dân ................................................................................................................... 10
1.2. Vai trò của thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ............ 15
1.3 Nội dung thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân ................ 19
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng tới thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của
công dân .......................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA
VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TẠI QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG ...................................................................................................... 31
2.1. Các yếu tố đặc thù của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ảnh hưởng
đến nghĩa vụ quân sự của công dân .................................................................. 31
2.2. Thực trạng qui định pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân .............. 34
2.3. Thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ............................................................................ 39
2.4. Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công

dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng ....................................................... 45
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ CỦA CÔNG DÂN TỪ THỰC
TIỄN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ...................................... 49
3.1. Quan điểm đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công
dân ................................................................................................................... 49
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của
công dân ........................................................................................................... 53
3.3. Giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự đối với nhà
nước ................................................................................................................ 63


KẾT LUẬN .................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực ngày nay đã có nhiều thay đổi, tuy
nhiên, Việt Nam vẫn đứng trước nhiều nguy cơ đe dọa về độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ... Ngày nay, những nguy cơ, thách thức cũ
vẫn còn đó thì lại có thêm những nguy cơ, thách thức mới. Đó là bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và hạnh phúc
của nhân dân. Gắn liền với nguy cơ, thách thức đó là phương thức chống phá
của các thế lực thù địch, đó là chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật
đổ. Về kỹ thuật, đó là việc các thế lực thù địch sử dụng internet, mạng xã hội
làm phương thức chống phá mới.
Ứng phó với tình hình đó, đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng
và Nhà nước ta đã có những điểm mới. Văn kiện Đại hội XII của Đảng ta xác
định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ

thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế,
kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền”… Chính
sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là “Tăng cường tiềm lực quốc
phòng và an ninh”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ
quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường hòa
bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã công khai hóa chính sách quốc phòng
của Nhà nước ta. Đó là: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang
tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và
tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ
1


trương từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ
nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ.
Việt Nam chủ trương không tham gia các tổ chức liên minh quân sự,
không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của mình để
chống lại nước khác”.
Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi) năm 2015 được Quốc hội nước Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII thông qua là sự thể chế hóa Hiến
pháp 2013 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân”
(Điều 15); “Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự
bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp,
làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng” (Điều 16).
Luật Nghĩa vụ quân sự quy định nghĩa vụ quân sự là “Nghĩa vụ vẻ vang
của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân;… Công dân trong độ tuổi

thực hiện nghĩa vụ quân sự, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự theo quy định của luật này” (Điều 4).
Luật Nghĩa vụ quân sự nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc - chế
độ trong tình hình mới. Về mặt lý luận cũng như thực tế, thực hiện
Luật Nghĩa vụ quân sự không làm tăng quân số tuyệt đối, không nhằm chạy
đua vũ trang… mà chỉ nhằm luân chuyển nhân lực từ dân sự sang quân sự và
ngược lại (đó là những đợt ra quân theo định kỳ hằng năm).
Thực tế cho thấy, ngay trong thời chiến, Quân đội ta vẫn dành một lực
lượng nhất định tham gia sản xuất (phục vụ quốc phòng và dân sinh)… Hiện
nay, không ít đơn vị quân đội đang làm đồng thời cả hai nhiệm vụ: kinh tế và
quốc phòng, như một số đơn vị quân đội làm kinh tế, tự đáp ứng một phần
nhu cầu, giảm thiểu gánh nặng ngân sách cho Nhà nước. Hoặc các bệnh viện
quân đội vừa là một cơ sở y tế trong hệ thống y tế quốc gia, vừa làm nhiệm vụ
2


sẵn sàng phục vụ cứu chữa trong thời chiến. Trong thời bình, ở những bệnh
viện này, không chỉ cán bộ, chiến sĩ quân đội được chữa trị mà còn có cả
những bệnh nhân dân sự… nhất là những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo.
Trên lĩnh vực phòng chống thiên tai, quân đội luôn là lực lượng nòng
cốt và có không ít cán bộ, chiến sĩ đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai trên khắp mọi miền Tổ
quốc.
Thực tế cho thấy, trong những năm qua, các thế lực thù địch thường lợi
dụng những vấn đề kinh tế - xã hội khó khăn như: ô nhiễm môi trường, những
sơ hở trong quản lý kinh tế - dịch vụ công… để kích động người dân chống
lại chính quyền. Hành vi “bất tuân dân sự” - là kịch bản trong đó, những phần
tử cầm đầu tập hợp lực lượng, tụ tập đông người, biểu tình gây rối… từng
bước đi đến bạo loạn, lật đổ chế độ xã hội, chuyển hóa xã hội hiện hữu sang
con đường tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc vào ngoại bang. Vì vậy, cuộc đấu tranh

trên lĩnh vực chính trị tư tưởng ngày càng quyết liệt. Trên mặt trận ấy, các cán
bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam lại là một trong những lực
lượng tiên phong...
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam ngày nay là: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh. Điều kiện và tiền đề để thực hiện mục tiêu đó
là giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và ổn định
xã hội. Thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự là góp phần đưa dân tộc ta đi đến
mục tiêu đó.
Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn có ý kiến “phản biện” rằng: “Thời bình
sao phải tuyển nhiều lính như thời chiến?”; “Sao không tập trung vào phát
triển kinh tế, chống tham nhũng?”, nếu không nói là một luận điệu chính trị
xấu độc thì cũng thể hiện sự hiểu biết ấu trĩ về nhiệm vụ của lực lượng vũ
trang nói chung, của Quân đội ta nói riêng trong thời bình. Thậm chí tại một
số địa phương trong thời gian gần đây, tỉ lệ thanh niên không chấp hành pháp
3


luật nghĩa vụ có chiều hướng gia tăng; tuy nhiên, việc xử lý còn chậm, thiếu
tính giáo dục và răn đe, nhiều trường hợp thể hiện sự lúng túng, thậm chí bế
tắc trong khâu xử lý hình sự. Thực trạng này có cả nguyên nhân khách quan
và chủ quan: do trình độ và năng lực của một số cán bộ Ban chỉ huy quân sự
phường còn hạn chế nên thiếu chặt chẽ, quy trình còn thiếu nhưng không thể
khắc phục được. Sự hạn chế này dẫn đến tuy hành vi vi phạm (chống lệnh
nhập ngũ) đã được quy định trong Bộ luật Hình sự nhưng thiếu sót, thiếu chặt
chẽ trong khâu lập thủ tục nên không thể xử lý được; có trường hợp hồ sơ
tương đối chặt chẽ nhưng hành vi vi phạm chưa được quy định trong Bộ luật
Hình sự dẫn đến tình trạng lúng túng, hay nói đúng hơn là bế tắc trong quá
trình xử lý về hình sự, nhất là đối với các trường hợp không chấp hành lệnh
gọi khám sức khỏe. Việc quyết định xử phạt vi phạm hành chính nói chung,
đối với hành vi không chấp hành lệnh gọi khám sức khỏe nói riêng, chủ thể

xử phạt là chủ tịch UBND các xã, phường, thị trấn chưa thực hiện đúng
nguyên tắc về xử phạt (tính chất, mức độ; hậu quả và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ) từ đó nảy sinh tình trạng cào bằng, trung bình trong xử phạt. Ngoài
ra, quy định về xử phạt, trong đó có mức xử phạt vi phạm pháp luật nghĩa vụ
quân sự đã khá lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu phòng, chống vi phạm
pháp luật. Dễ nhận thấy, sở dĩ các trường hợp bị xử phạt dù nặng hay nhẹ; dù
xử phạt ở mức cao nhất hay trung bình của khung xử phạt cũng không nảy
sinh tình trạng khiếu nại quyết định xử phạt…
Cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp
luật nghĩa vụ quân sự của công dân có ý nghĩa chính trị sâu sắc, nó thể hiện
lòng yêu nước, trách nhiệm của công dân với Tổ quốc mình; đồng thời thể
hiện ý chí quyết tâm chống lại mọi thủ đoạn của thế lực thù địch nhằm chống
phá cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ lý luận và thực tiễn cũng như phù
hợp với yêu cầu thực tiễn công tác, tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện pháp luật

4


về nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng” là thực sự cần thiết về cả mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về thực hiện NVQS của thanh niên còn có nhiều bài viết đề cập. Bài
Hà Nội tiễn 1.900 thanh niên lên đường nhập ngũ (15/2/2014) của Hà Trang
và Nguyễn Khánh, đăng trên Báo điện tử Tuổi trẻ. Các tác giả đã phản ánh
trung thực sự nhiệt huyết của thanh niên Hà Nội, hăng hái lên đường làm
nhiệm vụ xây dựng và BVTQ. Hòa vào không khí đó là những giọt nước mắt,
cái nắm tay chặt chẽ của người thân gia đình tiễn đưa con em và niềm vui của
của bố mẹ khi có con nhập ngũ: “Thực sự rất thương con vì đang trong vòng
tay gia đình mà phải đi ra tự lập hoàn toàn, nhưng cũng rất là mừng vì cháu
nhận thức được cái nghĩa vụ nó phải đi vì Tổ quốc”. Bài Hàng ngàn thanh

niên các địa phương phấn khởi nhập ngũ (19/2/2014) của Vinh Quang, Quang
Sáng và cộng tác viên Trúc Giang, đăng trên Báo điện tử VOV. Bài viết đã
phản ánh rõ số lượng và chất lượng nhập ngũ của các thanh niên ở thành phố
Hồ Chí Minh, tỉnh Bình Thuận và Lâm Đồng, như: Trong tổng số 2.570 thanh
niên lên đường thực hiện NVQS ở thành phố Hồ Chí Minh, có 113 đảng viên
tình nguyện nhập ngũ, 25% thanh niên có trình độ đại học, cao đẳng, trung
cấp; Lâm Đồng, trong tổng số 500 thanh niên lên đường thực hiện NVQS,
khoảng trên 90% thanh niên có đơn tình nguyện xin nhập ngũ và số đảng
viên, cán bộ công chức được gọi đi nhập ngũ so với mọi năm cao hơn 12%;
Bình Thuận, trong 700 thanh niên trúng tuyển NVQS, có 24 đảng viên trẻ, 58
thanh niên đã tốt nghiệp cao đẳng, đại học và 54 thanh niên là dân tộc ít
người.
Bên cạnh đó, bài Cán bộ, công chức cũng phải nhập ngũ như con em
nông dân, trích đăng tờ trình dự án luật NVQS (sửa đổi) của Đại tướng Phùng
Quang Thanh trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội trên Báo điện tử Dân trí lại
cho thấy tình hình đối tượng nhập ngũ trong cả nước. Hiện nay, công dân đã
5


có việc làm, có trình độ học vấn cao, có chuyên môn kỹ thuật và con em cán
bộ, công chức, các gia đình có điều kiện kinh tế thực hiện NVQS chưa nhiều,
chỉ chiếm 4,94% và có xu hướng giảm. Con em nông dân, người chưa có việc
làm nhập ngũ chiếm số đông, trên 80% và có xu hướng tăng. Cho nên, theo
Đại tướng Phùng Quang Thanh, phải tuyển cán bộ là công chức, viên chức, đã
tốt nghiệp đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp vào phục vụ trong
quân đội; tránh để như hiện nay số nhập ngũ có tới 90% con em nông dân,
còn số có điều kiện học hành cơ bản, làm cán bộ công chức trong hệ thống
chính trị gần như không tuyển.
Hiện nay, hướng nghiên cứu về thực hiện NVQS của thanh niên hầu
như chưa có, nhưng thông qua các tư liệu, bài viết được đăng tải trên các

website của thế giới, Việt Nam và các văn bản pháp luật trong nước đã được
công bố, có thể thấy rằng, các tư liệu, bài viết đó có những giá trị tham khảo
nhất định. Bởi vì, pháp luật thực hiện NVQS của thanh niên các nước trên thế
giới, dù có nhiều đặc điểm khác Việt Nam về đối tượng, độ tuổi, thời gian
nhập ngũ, nhưng đều cho thấy, để xây dựng và BVTQ, việc thực hiện NVQS
của thanh niên là cần thiết với mọi quốc gia. Do đó, tư liệu về thực hiện
NVQS của thanh niên các nước trên thế giới sẽ giúp bổ sung các hình thức,
biện pháp phù hợp nhằm phát huy tốt nhất công tác tuyển chọn, gọi thanh
niên nhập ngũ ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
nghĩa vụ quân sự của công dân.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:

6


- Phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận về pháp luật về nghĩa vụ quân sự
của công dân trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh của Đảng và quy định của Nhà nước ta.
- Phân tích thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của
công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong những năm gần đây, qua
đó rút ra những hạn chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế
đó.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về nghĩa vụ
quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về
nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật
về nghĩa vụ quân sự của công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng từ
năm 2016 - 2018.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về nghĩa vụ quân sự của thanh niên.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
Luận văn sử dụng các nghiên cứu định tính và định lượng để thu thập
và xử lý thông tin qua đó trình bày và phân tích các thông tin, dữ liệu. Các
bước cụ thể như sau:
7


- Một là thu thập thông tin
Nguồn dữ liệu thứ cấp: Thu thập thông tin từ nguồn đã có sẵn, đây là
những dữ liệu đã qua tổng hợp và xử lý gồm sách, báo, tạp chí chuyên ngành,
các văn bản luật, nghị định, thông tư của Quốc hội, chính phủ, các bộ ngành
về thực hiện nghĩa vụ quân sự; các báo cáo đánh giá tình hình thực hiện về
công tác thực hiện tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ, các chính sách đào tạo
nghề cho công dân hoàn thành NVQS …của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng. Các dữ liệu từ nguồn này vừa là cơ sở lý luận, vừa mang tính thời sự.
Nguồn dữ liệu sơ cấp: Điều tra thu thập thông tin từ các UBND cấp xã,
quận thông qua quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp, phỏng vấn trực tiếp, điều

tra để thu nhận thông tin.
- Hai là xử lý phân tích dữ liệu: Các dữ liệu thu thập được sẽ được kiểm
tra, sàng lọc, sau đó sử dụng công cụ word, excel để tiến hành thống kê, phân
tích. Bên cạnh đó, tiến hành xử lý số liệu bằng cách sử dụng sơ đồ, bảng
biểu... để phân tích, tổng hợp và đánh giá.
- Ba là trình bày, diễn giải và phân tích dữ liệu: Kết quả nghiên cứu sẽ
được trình bày dưới dạng bảng, biểu đồ, đồ thị thống kê. Tác giả tiến hành
diễn giải và phân tích kết quả khảo sát căn cứ vào các quy định pháp lý về
thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn vận dụng lý luận, pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công dân
tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng để đánh giá việc thực hiện pháp luật
NVQS; từ đó chỉ ra những bất cập, tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật
NVQS, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật NVQS của công dân.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

8


Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân trong
thời gian tới của quận Cẩm Lệ nói riêng và cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của thực hiện pháp luật
về nghĩa vụ quân sự.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quận sự của
công dân tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về

nghĩa vụ quân sự của công dân từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà
Nẵng.

9


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ QUÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thực hiện pháp luật về nghĩa
vụ quân sự của công dân
1.1.1. Khái niệm pháp luật thực hiện nghĩa vụ quân sự
Thực hiện NVQS là quy định bắt buộc với hầu hết các quốc gia trên thế
giới hiện nay. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội và
dân số mà các nước quy định độ tuổi nhập ngũ cho công dân của nước mình;
hoặc quy định nhập ngũ bắt buộc hay nhập ngũ tự nguyện, theo hợp đồng,
thậm chí quy định nhập ngũ bắt buộc đối với cả nữ giới (ở Israel, tất cả thanh
niên nam, nữ học xong trung học đều phải vào quân ngũ). Tình hình thực hiện
NVQS của một số nước trên thế giới và Việt Nam cho thấy, trong xây dựng
và BVTQ ở mỗi quốc gia cần thiết phải thực hiện NVQS đối với thanh niên.
Hiến pháp năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng
liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân
sự và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân”. Quy định trên, khẳng
định mọi công dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín
ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú đều phải thực hiện
nghĩa vụ quân sự và nhằm thể chế quy định của Hiến pháp năm 2013: “Công
dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự”, Luật nghĩa vụ quân sự đã quy
định: “Nghĩa vụ quân sự là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong
Quân đội nhân dân Việt Nam”. Thực hiện nghĩa vụ quân sự bao gồm phục vụ
tại ngũ và phục vụ trong ngạch dự bị của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Luật NVQS là cơ sở pháp lý bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân đối
với sự nghiệp BVTQ; tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn NVQS và tham gia
xây dựng nền QPTD. Luật NVQS góp phần quan trọng vào xây dựng Quân
10


đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại
và tăng cường QPTD, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
Luật NVQS có các quy định về đối tượng, thời gian thực hiện NVQS; trách
nhiệm, nghĩa vụ của thanh niên trong thời gian tại ngũ; vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức, lực lượng trong thực hiện NVQS; quy định miễn, tạm hoãn
gọi nhập ngũ.
Luật NVQS đang hiện hành quy định, công dân nam từ đủ 18 tuổi đến
hết 25 tuổi, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng tôn giáo,
trình độ văn hóa, nghề nghiệp, nơi cư trú có nhiệm vụ tại ngũ trong Quân đội
nhân dân Việt Nam. Thời gian phục vụ tại ngũ của hạ sĩ quan và binh sĩ trong
thời bình, với lục quân là 24 tháng, với các binh chủng kỹ thuật là 24 tháng
[2, trg7]. Trong thời gian tại ngũ, thanh niên phải tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam XHCN và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao; Gương mẫu chấp hành
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ
của quân đội; Ra sức học tập chính trị, quân sự, rèn luyện tính tổ chức, tính kỷ
luật và thể lực, không ngừng nâng cao bản lĩnh chiến đấu,… [2, trg14].
Luật NVQS cũng quy định vai trò của các cơ quan trong hệ thống chính
trị các cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, nhà trường, gia đình, Hội đồng
NVQS xã, phường, thị trấn trong việc thực hiện NVQS của thanh niên. Trong
đó có quy định, gia đình có trách nhiệm động viên, giáo dục và tạo điều kiện
cho công dân làm tròn NVQS [2, trg16].
Ngoài ra, các văn bản hiện hành còn có các quy định về đối tượng được
miễn, tạm hoãn gọi nhập ngũ. Nghị định Chính phủ, số 38/2007/NĐ-CP, ngày

15 tháng 3 năm 2007 quy định những công dân được miễn gọi nhập ngũ trong
thời bình: Con của liệt sĩ, con của thương binh hạng 1, con của bệnh binh
hạng 1; Một người anh trai hoặc em trai của liệt sĩ; Một con trai của thương
binh hạng 2; Cán bộ, viên chức, công chức, thanh niên xung phong, thanh
11


niên tình nguyện, trí thức trẻ tình nguyện đã phục vụ từ hai mươi bốn tháng
trở lên và công dân được tạm hoãn gọi nhập ngũ: Công dân có anh, chị hoặc
em ruột là hạ sĩ quan, binh sĩ đang phục vụ tại ngũ và học viên là hạ sĩ quan,
binh sĩ đang học tập tại các trường quân đội, trường ngoài quân đội theo kế
hoạch của Bộ Quốc phòng; Công dân đang học tập tại các trường thuộc hệ
thống giáo dục quốc dân theo hình thức giáo dục chính quy tập trung (Trường
trung học phổ thông, trường phổ thông có nhiều cấp học, trường phổ thông
dân tộc nội trú, trường phổ thông dân tộc bán trú, trường chuyên, trường năng
khiếu, dự bị đại học; v.v...) [13].
Qua những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật về thực hiện NVQS là
hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung do nhà nước đặt ra
hoặc thừa nhận thể hiện ý chí của nhà nước nhằm đảm bảo việc thực hiện
nghĩa vụ quận sự của công dân trên cơ sở giáo dục thiết phục và cưỡng chế.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về NVQS
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước không chỉ
không ngừng xây dựng, hoàn thiện pháp luật mà còn có trách nhiệm tổ chức
thực hiện pháp luật, kịp thời phát hiện, đấu tranh phòng ngừa và xử lý các
hành vi vi phạm để pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh, thống nhất. Các
quy phạm pháp luật muốn đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả điều chỉnh
thì phải gắn với các quan hệ xã hội, với chủ thể, được thực hiện qua hoạt động
có mục đích của chủ thể. Hơn nữa, đó còn là một yếu tố, giai đoạn không thể
thiếu của cơ chế điều chỉnh pháp luật. Sau khi được ban hành, để phát huy
vai trò, pháp luật phải được các chủ thể tiếp nhận, tôn trọng và tự giác thực

hiện. Vì thế, thực hiện pháp luật là quá trình các chủ thể khi gặp phải tình
huống, sự kiện mà quy phạm pháp luật đã dự liệu, từ nhận thức, chuyển hóa
sáng tạo chúng vào tình huống cụ thể đó bằng hành vi thực tế, hợp pháp của
mình. Ngoài ra, thực hiện pháp luật còn là nghĩa vụ của tất cả cơ quan, tổ

12


chức, cá nhân và được tiến hành bằng nhiều hình thức với quy trình khác
nhau.
Thực hiện pháp luật về NVQS bao gồm nhiều biện pháp tác động trong
một quá trình nên có tính liên tục, thường xuyên. Việc thực hiện pháp luật về
NVQS được xem là bộ phận quan trọng trong tổng thể các biện pháp thúc đẩy
trên các lĩnh vực gắn với bảo đảm nghĩa vụ công dân, hướng đến xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực hiện pháp luật về NVQS giúp
chủ thể - công dân - tiếp cận pháp luật, nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của
họ trong xã hội. Do thuộc tính điều chỉnh và bắt buộc chung của pháp luật,
nên thực hiện pháp luật về NVQS đối với nước ta là nghĩa vụ và trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân, trong đó trước hết và chủ yếu thuộc về Nhà
nước mà đại diện là cơ quan, đội ngũ cán bộ, công chức - người làm công
tác tham mưu, hoạch định chính sách cán bộ. Các chủ thể này phải là tấm
gương sáng trong tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật một cách đúng
đắn, sáng tạo. Nhà nước có trách nhiệm thiết lập các thể chế, thiết chế hỗ trợ
công dân thực hiện pháp luật; giúp họ tiếp cận pháp luật, sử dụng các thiết
chế hỗ trợ trong thực hiện các chính sách NVQS.
Như vậy, có thể hiểu thực hiện pháp luật về NVQS là một quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật NVQS đi vào
cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp
luật. Hay nói cách khác, thực hiện pháp luật về NVQS là hoạt động thực tiễn
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân được tiến hành theo những hình thức pháp

lý nhất định, có mối liên hệ và quy định lẫn nhau trong một cơ chế phù hợp
với điều kiện của từng giai đoạn lịch sử, nhằm hiện thực hóa các yêu cầu, nội
dung của quy phạm pháp luật về NVQS, bảo đảm cho việc thực hiện quyền
và nghĩa vụ công dân được thiết lập và duy trì trong đời sống xã hội và gia
đình.
1.1.3. Đặc điểm của thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự
13


- Đặc điểm về chủ thể thực hiện:
Chủ thể thực hiện pháp luật về Nghĩa vụ quân sự mang tính đa dạng và
phong phú. Cụ thể: Các cơ quan nhà nước: đây là chủ thể đặc biệt vì trong
quá trình thực hiện, cơ quan nhà nước phải thể hiện là chủ thể mang tính
quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước thực hiện trách nhiệm quản lý xã
hội, đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ quân sự được tổ chức thực hiện trên
một phạm vi rộng lớn là toàn quốc. Bên cạnh đó, khác với các việc đảm bảo
việc thực hiện pháp luật khác, việc thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự còn
do cơ quan các cơ quan có vị trí, chức năng đặc biệt thực hiện, đó là: Ban chỉ
huy quân sự cấp xã; Ban chỉ huy quân sự cấp huyện; Hội đồng nghĩa vụ quân
sự các cấp.
Ban chỉ huy quân sự cấp xã: Ban chỉ huy quân sự cấp xã được quy
định: Tham mưu cho cấp ủy Đảng, Ủy ban nhân dân cấp xã lãnh đạo, chỉ đạo,
điều hành thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở cơ sở; đăng ký, quản lý
công dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ tham gia dân quân tự vệ, công dân
nam trong độ tuổi sẵn sàng nhập ngũ; tuyển chọn gọi công dân nhập ngũ,
quản lý lực lượng dự bị động viên theo quy định của pháp luật...
Hội đồng NVQS các cấp là cơ quan tham mưu giúp UBND cùng cấp
trong lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nhiệm vụ tuyển chọn, gọi công dân nhập
ngũ.
- Đặc điểm về phạm vi pháp luật nghĩa vụ quân sự. Phạm vi thực hiện

pháp luật về NVQS là môi trường và những giới hạn không gian, địa lý để các
chủ thể tiến hành các hoạt động thực hiện pháp luật về NVQS. Để có được
phạm vi thực hiện pháp luật về NVQS đòi hỏi nhà nước phải quy định trách
nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện pháp luật
về NVQS; chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện về
pháp luật về NVQS mang tính chất về an ninh quốc phòng.
- Đặc điểm về nội dung thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự:
14


Thực hiện pháp luật về pháp luật về NVQS có nội hàm phong phú và
bao trùm toàn bộ đời sống xã hội. Nội dung đó được thể hiện thông qua các
chiến lược, chính sách, mục tiêu của nhà nước về pháp luật về NVQS, thực
hiện nghĩa vụ quân sự là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc,
không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp … Những công dân đến tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự cần
thực hiện tinh thần trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc.
Trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, mỗi gia đình cần động viên, giáo dục,
khuyến khích con em mình nhận thức đúng về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
quân sự đối với đất nước, tích cực tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự khi
đến tuổi quy định.
Bên cạnh việc động viên, khuyến khích việc thực hiện phát luật NVQS
thì Nhà nước có nhiều chính sách đối với những cá nhân, gia đình có người
tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự. Mặt khác, một trong những nội dung
không thể thiếu trong thực hiện pháp luật về NVQS gồm các biện pháp thúc
khuyến khích, động viên; phổ biến, chính sách pháp luật về NVQS, bồi dưỡng
kiến thức, nâng cao nhận thức pháp luật về NVQS cho thế hệ trẻ, đội ngũ cán
bộ - những người có liên quan đến việc thực thi pháp luật về NVQS.
1.2. Vai trò thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự

Xuất phát từ khái niệm và đặc điểm thực hiện pháp luật về NVQS trên
đây, có thể thấy thực hiện pháp luật về NVQS có vai trò đặc biệt quan trọng
trong đời sống xã hội.
1.2.1. Thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự là phương thức để
đường lối, chính sách, pháp luật đi vào thực tiễn đời sống xã hội
Thực hiện pháp luật NVQS là cách thức, biện pháp cơ bản, có hiệu lực,
hiệu quả nhất để đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước,
nhất là chính sách bảo đảm thực hiện pháp luật NVQS được đi vào cuộc sống.
15


Ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo. Sự lãnh đạo đó
được thực hiện bằng việc đề ra đường lối, chủ trương, chính sách. Nhà nước
thể chế hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với việc thực hiện
NVQS thành pháp luật. Nội dung pháp luật NVQS là chủ trương, quan điểm,
chính sách của Đảng đối với NVQS trong xã hội. Do vậy, thực hiện pháp luật
về NVQS là cách thức cơ bản, có hiệu lực, hiệu quả nhất để chủ trương, chính
sách đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong điều chỉnh các quan hệ xã
hội và đến với các chủ thể; giúp họ nắm bắt đầy đủ và thực hiện tốt hơn chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Qua đó giúp Đảng,
Nhà nước kiểm nghiệm tính đúng đắn của các chính sách, pháp luật đã được
ban hành trong thực tiễn để kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp; phát hiện,
uốn nắn những sai sót trong tổ chức thực hiện để bảo đảm thực hiện tốt hơn
các chính sách NVQS trong mọi lĩnh vực.
1.2.2 Thực hiện pháp luật nghãi vụ quân sự đảm bảo mục tiêu bảo vệ
tổ quốc
Đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng và Nhà nước ta có cơ sở
lịch sử, chính trị, pháp lý minh bạch. Trước hết, đó là vì dân tộc ta phải
thường xuyên chống lại các thế lực xâm lược để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc ta cho

thấy, không có một thế kỷ nào nhân dân ta không phải chống lại các cuộc
chiến tranh xâm lược, hiện nay dân tộc ta vẫn đứng trước nhiều nguy cơ đe
dọa về độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ... Ngày nay,
những nguy cơ, thách thức cũ vẫn còn đó thì lại có thêm những nguy cơ,
thách thức mới. Đó là bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ Đảng,
bảo vệ Nhà nước và hạnh phúc của nhân dân. Gắn liền với nguy cơ, thách
thức đó là phương thức chống phá của các thế lực thù địch - đó là chiến lược
“Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ. Về kỹ thuật, đó là việc các thế lực thù
địch sử dụng internet, mạng xã hội làm phương thức chống phá mới.
16


Để ứng phó có hiệu quả với tình hình đó, đường lối, chính sách quốc
phòng của Đảng và Nhà nước ta đã có những điểm mới. Văn kiện Đại hội XII
của Đảng ta xác định: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân
tộc, của cả hệ thống chính trị, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng
đồng quốc tế, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền”… Chính sách và chiến lược quốc phòng của Đảng ta là “Tăng cường
tiềm lực quốc phòng và an ninh”; “Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân
gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc... Kiên quyết, kiên trì đấu tranh
bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc
biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời giữ vững
môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước”.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã công khai hóa chính sách quốc phòng
của Nhà nước ta. Đó là: “Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng mang
tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và
tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việt Nam chủ
trương từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường tiềm lực quốc phòng chỉ
nhằm duy trì sức mạnh quân sự ở mức cần thiết để tự vệ.

1.2.3. Thực hiện pháp luật nghĩa vụ quân sự là phương thức giúp các
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nâng cao ý thức pháp luật
Thực hiện pháp luật về NVQS đóng vai trò quan trọng trong việc củng
cố, nâng cao ý thức pháp luật đồng thời bồi dưỡng năng lực làm chủ để tham
gia quản lý nhà nước và xã hội, giải quyết công việc chung của cộng đồng;
giúp các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân nắm vững pháp luật, nhận thức
sâu sắc, hiểu biết đầy đủ hơn về chuẩn mực xã hội, thấy được giới hạn của các
hành vi vi phạm pháp luật NVQS; biết được nội dung quyền và nghĩa vụ của
công dân khi thực hiện NVQS. Nhờ đó, các cơ quan, tổ chức, gia đình, cá
nhân nhận thức được bản chất pháp lý của các tình huống, sự kiện; biết lựa
17


chọn hành vi xử sự phù hợp; biết tìm kiếm giải pháp tốt tối ưu cho mình. Các
cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vị trí, vai trò
của pháp luật; từ đó, tích cực, chủ động áp dụng pháp luật để bảo đảm mục
tiêu thực hiện pháp luật NVQS. Hiểu biết pháp luật giúp các cơ quan, tổ chức,
gia đình, cá nhân tôn trọng quyền hợp pháp của chủ thể khác; yêu cầu các chủ
thể thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ; tham gia quản lý Nhà nước, hoạt động
xã hội, góp phần thực thi công lý, bảo đảm công bằng xã hội. Các cơ quan, tổ
chức, gia đình, cá nhân sẽ nhận thức đầy đủ hơn về vai trò, trách nhiệm của
mình trước Nhà nước và xã hội, trong thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với Tổ
quốc.
1.2.4. Thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự là biện pháp phòng
ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về nghĩa vụ quân sự và tăng cường
pháp chế xã hội chủ nghĩa
Thực hiện pháp luật về NVQS giúp các chủ thể nhận thức được giới
hạn hành vi bị nghiêm cấm, nhờ đó, mỗi chủ thể sẽ tự giác và chủ động thực
thi quyền, nghĩa vụ; không vi phạm quyền lợi hợp pháp của Nhà nước và chủ
thể khác. Khi phát hiện chủ thể thực hiện hành vi vi phạm pháp luật NVQS

thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
Theo quy định tại các Điều 4, 5, 6 và 7 Nghị định 120/2013/NĐ-CP của
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu
thì hành vi không đăng ký nghĩa vụ quân sự lần đầu đối với công dân nam đủ
17 tuổi trong năm thuộc diện phải đăng ký nghĩa vụ quân sự bị phạt cảnh cáo.
Phạt tiền từ 200.000 đồng đến 600.000 đồng đối với hành vi không đăng ký
nghĩa vụ quân sự lần đầu, trừ trường hợp được áp dụng hình thức cảnh cáo.
Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi không có mặt
đúng thời gian hoặc địa điểm tập trung sơ tuyển ghi trong giấy gọi sơ tuyển
thực hiện nghĩa vụ quân sự mà không có lý do chính đáng. Phạt tiền từ
18


800.000 đồng đến 1.200.000 đồng đối với hành vi không có mặt đúng thời
gian hoặc địa điểm kiểm tra, khám sức khỏe ghi trong giấy gọi kiểm tra, khám
sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự mà không có lý do chính đáng. Phạt tiền
từ 1.500.000 đồng đến 2.500.000 đồng đối với hành vi không có mặt đúng
thời gian hoặc địa điểm tập trung ghi trong lệnh gọi nhập ngũ mà không có lý
do chính đáng. Ngoài ra, người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục
hậu quả là buộc thực hiện nghĩa vụ quân sự theo quy định.
Khoản 1 Điều 332 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào
không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự,
không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tính mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm”.
1.2.5. Thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự đóng vai trò quan
trọng trong công tác giáo dục thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc

Công dân có bổn phận làm nghĩa vụ quân sự, thực hiện nghĩa vụ quân
sự là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc, không phân biệt dân tộc,
thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp …
Những công dân đến tuổi tham gia nghĩa vụ quân sự cần thực hiện tinh thần
trách nhiệm, nghĩa vụ của mình đối với Tổ quốc.
1.3. Nội dung thực hiện pháp luật về nghĩa vụ quân sự của công
dân
1.3.1. Quy định về độ tuổi, tiêu chuẩn, thời gian đi nghĩa vụ quân sự
- Độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự: Cũng như các quy định trước
đây, độ tuổi gọi nhập ngũ là đủ từ 18 tuổi đến hết 25 tuổi. Riêng các trường
hợp công dân được đào tạo trình độ cao đẳng, đại học đã được tạm hoãn gọi

19


×