Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.26 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH LẠI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN CỦA
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÀNH LẠI

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN CỦA
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TỪ THỰC TIỄN
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN MINH PHÚ

HÀ NỘI, năm 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn của riêng tôi, các số liệu và kết quả
nghiên cứu trong luận văn “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền
cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng” là hoàn toàn trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định, không trùng lặp với
các đề tài khác trong cùng lĩnh vực.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Đà Nẵng, ngày tháng

năm 2020

Tác giả luận văn

Nguyễn Thành Lại


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ ........................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động tiếp công dân của chính quyền
cấp xã ...................................................................................................................... 6
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và hình thức thực hiện pháp luật tiếp công dân
của chính quyền cấp xã.......................................................................................... 11
1.3. Điều kiện bảo đảm việc thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp
xã .......................................................................................................................... 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG.................................................................................... 40

2.1. Thực trạng các quy định về pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã .. 40
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận
Cẩm Lệ.................................................................................................................. 42
2.3. Đánh giá chung về thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại
quận Cẩm Lệ ......................................................................................................... 52
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT TIẾP CÔNG DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ TẠI QUẬN CẨM
LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................................................ 61
3.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã
tại quận Cẩm Lệ .................................................................................................... 61
3.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp
xã tại quận Cẩm Lệ................................................................................................ 65
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Nghĩa đầy đủ

Từ viết tắt

1

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa


2

HĐND

Hội đồng nhân dân

3

UBND

Ủy ban nhân dân

4

KN

Khiếu nại

5

CHXHCN

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

6

BTCD

Ban tiếp công dân


7

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

8

UBKT

Ủy ban kiểm tra


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Số hiệu
bảng, hình

Tên bảng, hình

Trang

Trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức tham gia tiếp
2.1

công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các phường trên

44

đian bàn quận Cẩm Lệ năm 2019
1.1


Quy trình tiếp người khiếu nại

36

1.2

Quy trình tiếp người tố cáo

37

1.3

Quy trình tiếp người kiến nghị, phản ánh

38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác tiếp dân, giải quyết khiếu
nại, tố cáo nhằm phát huy quyền dân chủ của nhân dân, gắn với việc xây dựng bộ
máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
CNH-HĐH và hội nhập quốc tế. Những năm gần đây cùng với quá trình CNH,
HĐH thì quá trình đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, từ đó làm nảy sinh
những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân đòi hỏi phải được giải quyết. Trong
quá trình CNH, HĐH, đô thị hóa người dân bị thu hồi đất để chuyển giao cho Nhà
nước, cho doanh nghiệp mà không kiếm được kế sinh nhai, dẫn đến tình trạng thiếu
việc làm; Môi trường tự nhiên bị ô nhiễm nghiêm trọng, các giá trị của văn hóa
truyền thống, văn hóa cộng đồng ngày càng bị mai một,… thay vào đó là vấn đề tai

- tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Tất cả những vấn đề đó là nguyên nhân dẫn đến
một thực trạng đó là tình hình khiếu nại, tố cáo của người dân ngày càng nhiều, có xu
hướng phức tạp. Nhận thức rõ được tầm quan trọng của công tác công tác này, trong
những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản về công tác tiếp công dân
như: Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 ban hành kèm theo Quy chế tổ chức tiếp công
dân; Luật Khiếu nại, Tố cáo năm 1998; Quyết định số 858/QĐ-TTg ngày 14/6/2010
của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án đổi mới công tác tiếp công dân; Luật
Khiếu nại năm 2011; Luật Tố cáo năm 2011; Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày
03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại; Nghị
định số 76/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 của Chính phủ quy định chi tiết một số
điều của Luật Tố cáo…Mặc dù được quy định nhiều trong các văn bản, nhưng những
quy định về công tác tiếp công dân còn rải rác, chưa cụ thể, chưa thống nhất và còn
nhiều bất cập, hạn chế trên thực tế. Điều này, phần nào càng làm cho tình hình khiếu
nại, tố cáo diễn biến phức tạp trong thời gian qua, tình trạng khiếu kiện đông người
vượt cấp tiếp tục gia tăng, phát sinh nhiều điểm nóng gâymất ổn định xã hội. Phần
lớn những khiếu kiện của công dân liên quan đến đất đai: giải phóng mặt bằng, đền
bù, đòi lại đất cũ, tranh chấp đất hoặc liên quan đến việc giải quyết các chính sách
chế độ về nhà ở, chế độ trợ cấp xã hội, tố cáo cán bộ lợi dụng chức quyền tham
nhũng…
1


Trước tình hình thực tiễn trên, đồng thời xuất phát từ quan điểm chỉ đạo của
Đảng và Nhà nước ta, xét thấy cần phải đổi mới công tác tiếp công dân trong lĩnh
vực khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh để nâng cao hiệu quả hoạt động giải
quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, giảm bớt khiếu kiện phức
tạp kéo dài, đảm bảo trật tự ổn định xã hội, góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, ngày 25 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6 khóa XIII,
Quốc hội đã thông qua Luật Tiếp công dân năm 2013. Luật Tiếp công dân năm
2013 ra đời có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra nhiều yêu cầu mới trong tổ chức và
hoạt động của công tác tiếp công dân trong giai đoạn hiện nay.
Bản thân là công chức nhà nước, hiện đang công tác tại Văn phòng HĐND
và UBND phường Hòa Thọ Đông, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, là cơ quan
tham mưu cho UBND phường trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Môi trường công việc thường xuyên phải
tiếp xúc với công dân, với các quy định của pháp luật liên quan đến công tác này,
nên bản thân nhận thấy tổ chức và hoạt động tiếp công dân hiện nay của phường
Hòa Thọ Đông nói riêng, quận Cẩm Lệ nói chung đang gặp những khó khăn, thách
thức nhất định và cần có những giải pháp lâu dài.
Với những lý do trên, việc chọn đề tài: “ Thực hiện pháp luật về tiếp công
dân của chính quyền cấp xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” làm
đề tài luận văn tốt nghiệp là rất cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận và vừa có ý nghĩa
thực tiễn, góp phần đưa những giải pháp nhỏ bé nhằm đổi mới công tác tiếp công
dân của chính quyền cấp xã, phường trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng
nói riêng và công tác tiếp công dân trên cả nước nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật tiếp công dân, về thực tiễn
hoạt động công tác tiếp công dân nói chung trên cả nước, làm cơ sở lý luận và
nguồn tham khảo cho đề tài, cụ thể:
- Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình
mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình bày một số vấnđề
đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong

2


tình hình mới; Kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các địa phương trong công tác
giải quyết khiếu nại, tố cáo;
- Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND các cấp từ thực tiễn thành

phố Đà Nẵng của thạc sỹ Nguyễn Thị Hằng, 2015, làm rõ cơ sở lý luận vềtiếp công
dân trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện pháp luật về tiếp công
dân của UBND thành phố Đà Nẵng;
- Đề tài khoa học cấp Bộ của Thạc sỹ Bùi Mạnh Cường, 2013, Ứng dụng
công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân. Đề tài nêu rõ thực trạng về
tiếpcông dân và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong
những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động tiếp công dân trong thời gian tới ở nước ta;
- “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong các cơ quan của
Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Trinh.
- “Cải cách thủ tục hành chính trong tiếp dân, giải quyết KN, tố cáo”(Chủ
nhiệm- đồng chí Lê Đình Đấu- Vụ trưởng vụ xét khiếu tố), mục đích là nhằm đề
xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính
trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đều có đề cập vấn đề
tiếp công dân nói chung nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và trực tiếp
đến vấn đề tiếp công dân của chính quyền cấp xã, phường tại quận Cẩm Lệ, thành phố
Đà Nẵng. Các đề tài, bài biết, tham luận mới chỉ đề cập đến những vấn đề riêng hoặc ở
một số khía cạnh nhất định, rời rạc đến pháp luật về tiếp công dân và bất cập, khó khăn
trong quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân của các cơ quan, đơn vị.
Vì vậy, vấn đề “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp
xã từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng” là vấn đề cần được nghiên cứu.
Đó cũng chính là một trong những lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn
cao học Luật của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích lý luận và đánh giá thực trạng pháp luật, thực hiện pháp
luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng,

3



luận văn đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về tiếp công dân
trong giai đoạn tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ:
Một là, hệ thống hóa và phân tích một số vấn đề lý luận thực hiện pháp luật
tiếp công dân của chính quyền cấp xã: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, nội dung, các
điều kiện đảm bảo thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã.
Hai là, khảo sát và đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về
tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Ba là, xác định quan điểm và đề xuất giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật
về tiếp công dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung làm rõ việc thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính
quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã được nghiên
cứu trong luận văn này được giới hạn trong việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo,
kiến nghị, phản ánh với UBND cấp xã trong việc thực hiện chính sách, pháp luật
của Đảng, Nhà nước ở quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Về không gian: quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: số liệu thực tiễn được thu thập từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động tiếp công
dân nói chung và tiếp công dân của UBND cấp xã nói riêng. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể đó là: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khảo sát, đánh giá

thực tiễn, phân tích, tổng hợp, logic, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa.

4


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận và pháp lý về thực
hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã; đánh giá thực trạng tại quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, từ đó đề xuất giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao
hiệu quả và bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân của chính quyền cấp xã
tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Các phương hướng, giải pháp được đề ra trong luận văn có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong việc kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp
công dân trên cả nước nói chung và tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính
quyền cấp xã;
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật tiếp công dân của
chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảmthực hiện pháp luật tiếp công
dân của chính quyền cấp xã tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.

5


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TIẾP CÔNG
DÂN CỦA CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hoạt động tiếp công dân của
chính quyền cấp xã
1.1.1. Quan niệm về chính quyền cấp xã
Ở nước ta, theo quy định của pháp luật thực định, chính quyền địa phương được
tổ chức thành 3 cấp: tỉnh, huyện và xã. Ngoài ra, còn bao gồm đơn vị hành chính - kinh
tế đặc biệt do Quốc hội thành lập. Tuy nhiên, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt này
chưa được thành lập trên thực tế mà mới chỉ là quy định pháp lý có tính chất định
hướng, tạo hành lang.
Mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay thể hiện sự phân
công, phân cấp giữa các cấp chính quyền, trong từng phạm vi nhất định, mỗi cấp chính
quyền có sự độc lập, tự chủ về ngân sách và thẩm quyền quản lý theo luật định. Tuy
nhiên, xem xét với tính cách hệ thống, giữa các cấp chính quyền vẫn tồn tại tính thứ
bậc tương đối chặt chẽ, thể hiện ở chỗ tính hiệu lực bắt buộc của các quyết định quản lý
của cấp trên đối với cấp dưới, sự phê chuẩn của cấp trên đối với tổ chức bộ máy của
cấp dưới, tỷ lệ phân cấp ngân sách giữa cấp trên với cấp dưới… Điều này được lý giải
là để đảm bảo tính thống nhất, không thể phân chia của quyền lực nhà nước.
Theo cách hiểu như vậy, chính quyền xã là chính quyền địa phương cấp thấp
nhất trong hệ thống chính quyền ở Việt Nam. Chính quyền xã là hệ thống các cơ
quan nhà nước được thành lập ở cấp xã, thực thi quyền lực nhà nước trong phạm vi
quản lý nhà nước cấp xã; bao gồm HĐND xã và UBND xã.
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, gắn với đơn vị hành
chính có quy mô nhỏ nhất (trong tương quan với đơn vị hành chính cấp trên trực
tiếp), tiếp xúc trực tiếp với đòi hỏi của công dân và những gì công dân mong muốn
từ nhà nước, là mắt xích cuối cùng và cơ bản nhất của sợi dây liên kết giữa chính
quyền và dân chúng. Bởi vậy, chú trọng vào năng lực của chính quyền xã là một
trong những ưu tiên cần được xem xét trong cải cách cách hành chính nhằm tạo ra
những hiệu quả trực tiếp nhất, gắn với lợi ích cụ thể của công dân.


6


Cấp xã là một cấp trong hệ thống 3 cấp chính quyền địa phương ở Việt Nam.
Với tính cách là một cấp chính quyền địa phương, theo quy định của Hiến pháp,
cũng như các cấp chính quyền địa phương khác, chính quyền cấp xã bao gồm: Hội
đồng nhân dân (HĐND) và UBND (UBND) là bộ máy quản lý, điều hành công việc
nhà nước trong phạm vi xã, phường, thị trấn.
Theo các quy định trong các văn bản pháp lý ở nước ta, thuật ngữ “cấp xã”
được sử dụng chung cho 3 loại đơn vị hành chính là xã, phường, thị trấn. Do vậy, cả
ba thuật ngữ “chính quyền xã”, “chính quyền phường” và “chính quyền thị trấn”
đều có thể được gọi chung là “chính quyền cấp xã”. Cách phân chia chính quyền
này xuất phát từ đặc thù của từng địa bàn quản lý giữa đô thị và nông thôn. Chính
quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương được thành lập ở xã, tức địa bàn
nông thôn; chính quyền thị trấn được hiểu là chính quyền địa phương được lập ở thị
trấn, chính quyền phường được hiểu là chính quyền địa phương được thành lập ở
các phường, tức địa bàn đô thị.
Như vậy, chính quyền xã được hiểu là chính quyền địa phương ở xã, là hệ
thống các cơ quan nhà nước được thành lập ở địa bàn các xã, thực thi quyền lực nhà
nước trong phạm vi quản lý nhà nước ở xã; bao gồm hai hệ thống cơ quan: một là,
cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, tức HĐND xã và hai là, cơ quan hành
chính nhà nước ở địa phương, tức UBND xã.
Theo Điều 113 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 6 Luật Tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015 quy định: HĐND gồm các đại biểu HĐND do cử tri ở
địa phương bầu ra, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa
phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Điều 119 Hiến pháp năm 2013 và Điều 8
Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015 quy định: UBND do HĐND cùng cấp
bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương,
chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương, HĐND cùng cấp và cơ quan hành

chính nhà nước cấp trên.
1.1.2. Khái niệm hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã
Trước khi có Luật tiếp công dân năm 2013, thuật ngữ tiếp công dân đã
thường xuyên xuất hiện trong đời sống hàng ngày, trong hoạt động quản lý của nhà

7


nước và trong các văn bản pháp luật, được hiểu rằng đó là một hoạt động của quản
lý nhà nước, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tiếp công dân, trình
tự, thủ tục tiến hành tiếp công dân...Tuy nhiên chưa có một khái niệm chính thức về
tiếp công dân trong bất kỳ văn bản nào.
Luật tiếp công dân năm 2013 khái niệm: “Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ
chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đón tiếp để lắng
nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích,
hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
theo đúng quy định của pháp luật” [21]. Như vậy, tiếp công dân là hoạt động cơ
quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận thông tin từ người dân thông qua ba hoạt
động đó là: khiếu nại; tố cáo; kiến nghị, phản ánh.
Trên cơ sở khái niệm tiếp công dân và chính quyền cấp xã, trong phạm vi
luận văn, tác giả đề xuất khái niệm tiếp công dân của chính quyền cấp xã là việc các
đơn vị, ban, ngành của chính quyền cấp xã có thẩm quyền theo quy định đón tiếp
nhân dân để lắng nghe, tiếp nhận các ý kiến của nhân dân ; giải thích, hướng dẫn
nhân dân về việc thực hiện các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy
định của pháp luật hiện hành.
1.1.3. Đặc điểm hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã
Hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tiếp công dân là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể mang quyền
lực nhà nước, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Đặc điểm này nhằm xác
định trách nhiệm của nhà nước, cụ thể là trách nhiệm của người có thẩm quyền

trong việc thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, đồng thời cũng nhằm hạn chế sự né
tránh, đùn đẩy hay lạm quyền, tùy tiện trong công tác tiếp dân.
Thứ hai, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của nhà
nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phức tạp: Khác với hoạt động tiếp
xúc giữa công dân với cơ quan nhà nước để giải quyết các công việc cụ thể thông
thường diễn ra liên tục hàng ngày liên quan đến quản lý nhà nước trên các lĩnh vực
theo thủ tục nhất định. Hoạt động tiếp công dân bao gồm tiếp công dân khiếu nại, tiếp
công dân tố cáo, tiếp công dân kiến nghị, phản ánh, trong mỗi trường hợp thì việc tiếp

8


xúc giữa nhà nước và công dân cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đa dạng,
phong phú tùy theo tính chất phức tạp của từng vụ việc, theo từng nội dung.
1.1.4. Vai trò của hoạt động tiếp công dân của chính quyền cấp xã
Tiếp công dân là việc làm không thể thiếu trong hoạt động quản lí trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung và hoạt động quản lí hành chính nhà
nước nói riêng, nhờ hoạt động này mà chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của nhà nước được thực hiện hiệu quả, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy;
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được giải quyết nhanh chóng, góp phần giúp
xây dựng và tổ chức chính quyền vững mạnh hơn. Thực hiện pháp luật với tính
cách là một nhu cầu, một phạm vi hoạt động xã hội, có mối liên hệ với thực tiễn xã
hội, phản ánh đặc điểm của các quan hệ xã hội mà pháp luật có nhiệm vụ điều chỉnh
[36]. Thực hiện tốt pháp luật về tiếp công dân chắc chắn sẽ tăng cường kỷ cương
hành chính, trách nhiệm công vụ, dẫn đến những thay đổi tích cực về thái độ, lề lối,
tác phong tiếp công dân của cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân;
tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền
công dân. Vai trò của thực hiện pháp luật về tiếp công dân được nhìn nhận trên các
khía cạnh sau:

1.1.4.1. Nhìn từ mối quan hệ giữa pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp
công dân
Nếu như xây dựng và ban hành pháp luật về tiếp công dân là một quá trình
lao động quyền lực, trong đó chủ thể chính là các cơ quan quyền lực nhà nước
(Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ v.v.) với sự tham gia của các tổ
chức, các cá nhân công dân (trong quá trình tham gia ý kiến v.v.), thì thực hiện pháp
luật về tiếp công dân là một quá trình rộng hơn nhiều, nếu xét theo phạm vi hoạt
động, theo số lượng các chủ thể tham gia các hoạt động đó và đặc biệt là tính phức
tạp cũng cao hơn bởi tính chất các quan hệ xã hội đa dạng hơn [38].
Pháp luật về tiếp công dân là sự ghi nhận về mặt pháp lí trách nhiệm của nhà
nước với xã hội và cá nhân công dân thông qua hoạt động tiếp công dân. Làm tốt
việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân sẽ góp phần huy động sự tham gia rộng rãi
của nhân dân vào hoạt động quản lí của nhà nước, quản lí xã hội, tạo động lực thúc
đẩy hoàn thiện công tác quản lí nhà nước nói chung và quản lí hành chính nói riêng.

9


1.1.4.2. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với
bảo đảm quyền dân chủ của người dân
Đảm bảo, bảo vệ quyền dân chủ của công dân là một mục tiêu phát triển căn
bản đã được Đảng và nhà nước Việt Nam khẳng định, quyền dân chủ được quy định
trong pháp luật quốc gia, trở thành ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân thủ
và được pháp luật bảo vệ. Pháp luật về tiếp công dân ghi nhận các giá trị của con
người và trở thành phương tiện để các thành viên của xã hội có điều kiện để bảo vệ
lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân có vai trò bảo đảm
cho các quyền dân chủ hiến định của người dân được thực thi trên thực tế. Quyền dân
chủ của công dân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm; quyền con người, quyền
công dân không phải là những quyền được trao, nhà nước không ban phát các quyền
cho con người, cho công dân mà Điều 3 Hiến pháp năm 2013 quy định nhà nước có

trách nhiệm “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân”. Thông qua việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân, quyền dân chủ của người
dân được phát huy hiệu quả. Việc thực hiện pháp luật ở mỗi người có nhiều sự khác
nhau, tần suất thực hiện pháp luật theo đó sẽ dao động khác nhau, phụ thuộc vào các
yếu tố xã hội, dân chủ trong cuộc sống hiện đại [21]. Việc ý thức cao hơn về nghĩa
vụ, trách nhiệm của mỗi công dân với nhà nước giúp công dân khéo léo sử dụng
quyền dân chủ của mình phản ứng lại các hành vi, quyết định của cơ quan nhà nước
trái với quy định của pháp luật hoặc không hợp lí, hợp tình.
1.1.4.3. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với
thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
Thực hiện pháp luật về tiếp công dân tạo tiền đề, cơ sở, là bước đầu của việc
thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị của công
dân. Trên thực tế, chủ yếu người dân đến các trụ sở tiếp dân là để khiếu nại, tố cáo.
Tiếp công dân gắn với quy trình xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân;
đồng thời, quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của công dân khi đến khiếu nại, tố cáo
tại trụ sở tiếp công dân bởi đây là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết khiếu nại,
tố cáo hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người dân. Qua hoạt
động này, người dân có quyền trình bày quan điểm của mình với cơ quan nhà nước
có thẩm quyền, thể hiện quyền dân chủ của nhân dân tham gia vào quá trình quản lí

10


nhà nước, tăng cường kiểm tra, giám sát của người dân, đấu tranh với biểu hiện tiêu
cực trong hoạt động quản lí hành chính của các cơ quan nhà nước. Cần chú ý đúng
mức với việc gắn việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân với việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân vì đây là mục đích chính của việc tiếp công dân, cũng là
mục đích chính của người dân khi đến trụ sở tiếp dân, tránh tình trạng chỉ tập trung
vào giải quyết vấn đề đón tiếp, lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo của công dân.
1.1.4.4. Nhìn từ mối quan hệ giữa thực hiện pháp luật về tiếp công dân với

phổ biến, giáo dục pháp luật về tiếp công dân
Không phải ngẫu nhiên mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra chủ trương phấn
đấu xây dựng những quy định pháp luật có khả năng điều chỉnh trực tiếp, áp dụng
trực tiếp, đi thẳng vào cuộc sống. Vì vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật, đề cao
việc giáo dục ý thức chính trị, ý thức pháp luật là việc làm vô cùng cần thiết và cần
đến bộ máy và các cơ chế tuyên truyền, giáo dục pháp luật, phổ biến pháp luật,
cưỡng chế thi hành pháp luật. Đặc biệt, cần tạo ra những điều kiện thuận lợi cho
việc thực hiện pháp luật; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật về tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo một cách sâu rộng cho mọi tầng lớp nhân dân và
cán bộ công chức để nhận thức rõ về quyền con người, quyền công dân trong lĩnh
vực này, đồng thời cũng để cán bộ, công chức nhận thức đúng đắn trách nhiệm của
mình. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân đóng vai trò quan trọng trong việc nâng
cao nhận thức, hiểu biết về pháp luật tiếp công dân và các lĩnh vực pháp luật có liên
quan, giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật của công dân.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, quy trình và hình thức thực hiện
pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã
Có nhiều hình thức hoạt động khác nhau để các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị, khiếu tố từ nhân dân như: (i) tiếp xúc
cử tri (là việc đại biểu dân cử gặp gỡ, trao đổi với cử tri nhằm mục đích nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng chính đáng của các cử tri) của đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; (ii)
tiếp cận thông tin (là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin), phản
ánh qua các trang thông tin điện tử của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; (iii) tiếp nhận
thông tin, phản ánh từ các phương tiện thông tin đại chúng và (iv) tiếp công dân.
11


Tiếp nói chung được hiểu là hoạt động giao tiếp, đón tiếp các đối tượng nhất
định; tiếp nhận những thứ từ chủ thể khác, nơi khác chuyển đến, ví dụ như: tiếp đón
đoàn đại biểu nước ngoài, tiếp khách đến thăm cơ quan đơn vị, tiếp nhận hồ sơ, tiếp

nhận hàng hoá, tiếp nhận đơn thư... Trong đó, việc tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố
cáo, hoặc ý kiến kiến nghị, phản ánh của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
các chủ thể khác có trách nhiệm thường gắn liền với hoạt động tiếp công dân.
Trong chế độ dân chủ, địa vị cao nhất là dân, nhân dân là người chủ. Nhân
dân có quyền chủ động đến cơ quan nhà nước gặp gỡ, tiếp xúc với cán bộ, công
chức để giao tiếp, thể hiện tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, thái độ hay để đưa ra các
yêu cầu, kiến nghị, phản ánh về bất cứ vấn đề gì liên quan đến lợi ích của nhân dân,
công việc của nhà nước và tinh thần, trách nhiệm phục vụ nhân dân của đội ngũ cán
bộ, công chức mà nhân dân quan tâm. Do vậy, tiếp công dân là yêu cầu bắt buộc, là
trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, công chức nhà nước. Tiếp công dân một mặt thể
hiện ý thức tôn trọng nhân dân, quyền của nhân dân từ phía bộ máy công quyền,
một mặt cũng là thể hiện quyền của nhân dân-cội nguồn, gốc rễ của quyền lực nhà
nước. Hay nói cách khác, tiếp công dân là biểu hiện của dân chủ, là hình thức biểu
hiện trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân với nhà nước, qua đó thể hiện sự quan
tâm của Đảng và nhà nước đối với nhân dân cũng như thể hiện gián tiếp việc thực
hiện quyền giám sát của nhân dân đối với nhà nước. Bên cạnh đó, tiếp công dân là
công cụ bảo vệ và khôi phục các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan,
tổ chức; nhờ đó mà nhà nước nắm rõ được ý chí, nguyện vọng của công dân, cơ
quan, tổ chức; kịp thời đề ra các biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, cơ quan, tổ chức. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên việc này luôn được Đảng và nhà
nước ta hết sức đề cao và coi trọng. [7, tr.23].
Khái niệm “tiếp công dân” có thể được hiểu là việc mặt đối mặt một cách
trực tiếp giữa bên tiếp (cán bộ tiếp công dân) và bên được tiếp (công dân đến trụ sở
tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh) gặp gỡ để lắng nghe hoặc tiếp
nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, cơ quan, tổ chức, đơn vị;
khác với việc tiếp nhận đơn thư gửi qua bưu điện khi mà mọi sự việc khiếu nại, tố
cáo, kiến nghị, phản ánh đều được trình bày bằng chữ viết hay những ý kiến phản

12



ánh được trình bày gián tiếp bằng lời nói qua điện thoại; hoặc thông tin trên các
trang mạng trực tuyến, mạng xã hội. Đây là đặc điểm nổi bật nhất của tiếp công
dân, cũng từ đây đặt ra các yêu cầu về tinh thần, thái độ làm việc, ý thức trách
nhiệm của cả bên tiếp công dân và bên được tiếp trong hoạt động tiếp công dân.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Muốn cho dân yêu, muốn
được lòng dân, việc gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân
phải hết sức tránh” [7, tr.32]. Thực vậy, quyền lực nhà nước được thực hiện thông
qua các quyền lập pháp, hành pháp và quyền tư pháp. Mặc dù các quyền này được
đặt trong cơ chế kiểm tra, giám sát nhưng quá trình thực thi quyền khó tránh khỏi sự
xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Trong đó, quyền hành pháp
được thực hiện thông qua hoạt động chấp hành, điều hành, hoạch định và tổ chức
thực hiện các chính sách quốc gia. Trong mối quan hệ giữa các chủ thể được giao
thẩm quyền quản lí hành chính (gồm hệ thống cơ quan hành chính và nhiều cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác, trải rộng từ trung ương đến địa phương thông qua cơ
chế phân cấp quản lí của nhà nước cho các đơn vị hành chính lãnh thổ tương ứng:
tỉnh, huyện, xã và các đơn vị hành chính tương đương) và đối tượng chịu sự quản lí,
các chủ thể được giao thẩm quyền quản lí có thể xâm phạm đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân thông qua việc ban hành các quyết định hoặc thực hiện hành
vi bất hợp pháp, bất hợp lí. Bên cạnh đó, tại nhiều cơ quan nhà nước, nhiều ý kiến,
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân chưa được tiếp nhận, xem xét thấu đáo; công tác
quản lí hành chính nhà nước chưa thực sự được coi trọng đúng mức. Người dân
thường ở vị trí yếu thế, cần được bảo vệ. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng viết:
“Cán bộ ta nhiều người ‘cúc cung tận tụy’ hết sức trung thành với nhiệm vụ, với
Chính phủ với quốc dân, nhưng cũng có những người hủ hóa, lên mặt làm quan
cách mạng hoặc là độc hành, độc đoán, hoặc dĩ công dinh tư” [7, tr.23], khi nắm
được quyền hành trong tay hay lạm dụng. Trong chế độ dân chủ đòi hỏi người dân
phải được chống lại, phản ứng lại với sự xâm phạm đó, cụ thể là phản ứng đối với
các quyết định, hành vi trái pháp luật được thực hiện trong quá trình thực thi quyền

của cá nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các yếu tố dân chủ trong xã hội
ngày càng phát triển, gắn liền với với đó là việc mở rộng và bảo đảm tốt hơn các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; chế độ dân chủ phải ghi nhận một quyền

13


riêng cho người dân để phản ứng lại sự vi phạm này- đó là quyền khiếu nại, tố cáo
hành chính, kiến nghị, phản ánh. Hoạt động tiếp công dân là hoạt động quan trọng,
là khâu đầu tiên trong chu trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền với người dân.
Khoản 1 Điều 2 Luật Tiếp công dân năm 2013 quy định: Tiếp công dân là
việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm tiếp công dân để lắng nghe,
tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn
cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy
định của pháp luật [25]; tiếp công dân là công tác quan trọng từ trung ương đến cơ
sở, gồm: hoạt động tiếp công dân thường xuyên, tiếp công dân định kì và tiếp công
dân đột xuất.
Luật tiếp công dân năm 2013 có hiệu lực ngày 01/7/2014 và Nghị định số
64/2014/NĐ-CP ngày 26/6/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Tiếp công dân, Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm
2014 quy định về quy trình tiếp công dân là những cơ sở pháp lí quan trọng quy
định về trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức trong cơ quan nhà
nước, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác tiếp công dân; quy
định về quyền và nghĩa vụ của nhân dân khi thực hiện quyền trong thực hiện pháp
luật về tiếp công dân.
Pháp luật về tiếp công dân cần được quan niệm là một lĩnh vực pháp luật độc
lập (tương đối) so với pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo nói chung. Bởi pháp luật
về khiếu nại tố cáo quy định việc tiếp công dân nhằm mục đích tiếp nhận khiếu nại, tố
cáo nhưng trên thực tế, khi đến trụ sở tiếp công dân, người khiếu nại, tố cáo vẫn có thể

khiếu nại, tố cáo hoặc kiến nghị, phản ánh mọi hoạt động liên quan đến mọi lĩnh vực
trong đời sống. Tiếp công dân là kênh giao tiếp đặc biệt để lắng nghe người dân góp ý,
hiến kế, phản hồi về công tác điều hành quản lí của bộ máy hành chính; pháp luật về
khiếu nại, tố cáo quy định tiếp công dân để nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo chỉ là một
nội dung của pháp luật về tiếp công dân nói chung. Tiếp công dân, tiếp nhận, giải quyết
đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là một hoạt động liên quan trực tiếp đến
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, được xem như
những bước đầu tiên trong việc giải quyết những thắc mắc liên quan đến quyền khiếu

14


nại, tố cáo của công dân. Với những văn bản đã ban hành, pháp luật về khiếu nại, tố
cáo và pháp luật về tiếp công dân đều là cơ sở pháp lí quan trọng trong việc giải quyết,
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.
Tóm lại, có thể hiểu: Pháp luật về tiếp công dân là tổng thể các quy phạm
pháp luật quy định về nhiệm vụ tiếp công dân của cơ quan nhà nước và quyền của
công dân được trực tiếp trình bày, trực tiếp gửi đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị,
phản ánh đến trụ sở tiếp công dân các cấp; quy định về nguyên tắc, thẩm quyền, thủ
tục giải quyết tiếp công dân khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
Thực hiện pháp luật về tiếp công dân
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung, do cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội; là sự
ghi nhận về mặt pháp lí trách nhiệm của nhà nước đối với xã hội và cá nhân công
dân; là phương tiện quản lí nhà nước có hiệu lực, hiệu quả đối với mọi mặt đời sống
xã hội; là phương tiện đảm bảo cho quần chúng nhân dân tham gia quản lí nhà
nước, quản lí xã hội. Pháp luật, đồng thời là phương tiện thể chế, ghi nhận sự phát
triển của nền dân chủ, đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân
[43]. Nhà nước ta rất đề cao vai trò của pháp luật, chú trọng xây dựng và thực hiện
pháp luật, coi đó là công cụ quản lí xã hội hữu hiệu và là điều kiện không thể thiếu

để cải cách hành chính thành công [16]. Hệ thống các quy phạm này là sự tổng kết,
điển hình hóa, mô hình hóa các quan hệ phát sinh trong mọi lĩnh vực đời sống; tạo
khuôn khổ cho hoạt động xã hội, chứa đựng các quy tắc cấm đoán hoặc bắt buộc
chung và tác động, điều chỉnh tới các quan hệ xã hội. Có thể nói rằng, pháp luật
thường là những phạm trù trừu tượng, có tính khái quát cao. Từ thực tiễn cuộc sống
cho đến pháp luật yêu cầu cả một quá trình sàng lọc chặt chẽ, những gì thực sự điển
hình mới được đưa lên thành luật để đại diện cho toàn bộ thực tiễn. Và như vậy,
pháp luật và thực tiễn không thể trùng khớp với nhau, hay nói cách khác là pháp
luật không nhất thiết phản ánh toàn bộ thực tiễn cuộc sống [38, tr.3].
Xét theo nghĩa rộng, thực hiện pháp luật là phạm trù rộng lớn, bao gồm tất cả
các hoạt động của nhà nước, cá nhân, tổ chức nhằm đưa pháp luật vào cuộc sống,
thực tiễn; là phương thức tồn tại của pháp luật để pháp luật có thể thực hiện chức
năng xã hội của mình, đó là pháp luật trong hành động. Xét theo tính chất của các

15


quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động của các chủ thể, hệ thống pháp luật có
cách thức và quy trình thực hiện khác nhau. Khoa học pháp lí đã phân định thành 04
hình thức thực hiện pháp luật, đó là: (i) tuân thủ pháp luật, (ii) chấp hành pháp luật,
(iii) sử dụng pháp luật và (iv) áp dụng pháp luật.
Thực hiện pháp luật là bước tiếp theo sau khi văn bản pháp luật được ban hành
để đưa các quy phạm pháp luật trở thành các quy tắc xử sự của các chủ thể pháp luật;
là quá trình hiện thực hóa các quy định của pháp luật, nguyên tắc pháp luật vào các
trường hợp cụ thể trên thực tế. Vì vậy, thực hiện pháp luật không chỉ đòi hỏi sự quan
tâm của nhà nước, mà còn là của mỗi cá nhân, bởi kết quả của quá trình thực hiện
pháp luật tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật là
những hành vi (hành động hoặc không hành động) đơn lẻ, tức thời của cá nhân, là
quy trình bao gồm nhiều hoạt động khác nhau của các cá nhân; việc tổ chức thực hiện
pháp luật có tính chất quá trình. Nói đến thực hiện pháp luật là nói đến một kết quả

tích cực của quy trình điều chỉnh pháp luật mà điều chỉnh pháp luật thì hướng tới hai
yêu cầu: (i) thực hiện hành vi hợp pháp hoặc (ii) không thực hiện hành vi trái pháp
luật [38].
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, hiện nay có một số quan niệm về
thực hiện pháp luật, như sau:Giáo trình Lí luận chung về nhà nước và pháp luật của
Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội, cho rằng: tất cả những hoạt động của con
người, của các tổ chức mà thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật thì đều được
coi là biểu hiện của việc thực hiện các quy phạm pháp luật [21, tr.494].
Từ những quan niệm trên cho thấy các định nghĩa đều thống nhất về thực
hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích nhằm thực hiện những yêu
cầu của pháp luật, là hoạt động thực tế, hợp pháp, làm cho những quy định của pháp
luật trở thành hoạt động thực tế trong cuộc sống con người.
Trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân, các chủ thể tham gia vào hoạt
động tiếp công dân buộc phải tuân thủ đầy đủ các hình thức thực hiện pháp luật nêu
trên; đây là một quá trình thống nhất để giải quyết những khiếu nại, tố cáo, kiến
nghị, phản ánh của công dân, là yêu cầu quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động của chủ thể từ thời điểm trình bày trực tiếp hoặc trực tiếp gửi khiếu nại,
tố cáo, kiến nghị, phản ánh tới cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền qua hoạt

16


động tiếp công dân hình thành quan hệ xã hội mà pháp luật về tiếp công dân điều
chỉnh; thực hiện các quy định về tiếp công dân và vấn đề áp dụng pháp luật về tiếp
công dân để giải quyết vướng mắc phải thực hiện thống nhất theo quy định của
pháp luật. Công bằng, nhất quán và nhân văn là nguyên tắc căn bản của thực hiện
pháp luật đối với mọi chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân, không chỉ ở nội
dung các quy định của pháp luật mà còn rất quan trọng trong thực hiện pháp luật.
Bởi thực hiện pháp luật trên thực tế vốn là khâu khó khăn hơn nhiều so với việc thể
hiện các nguyên tắc này trong nội dung văn bản pháp luật.

Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là
hoạt động thực tiễn của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân được tiến hành theo
những hình thức pháp lí nhất định, nhằm chuyển tải, truyền đạt rộng rãi, hiện thực
hóa các nguyên tắc, nội dung của quy phạm pháp luật về tiếp công dân; bảo đảm
cho các quy định của pháp luật về tiếp công dân được thực hiện trên thực tế, giúp
phát huy cao độ quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm cho việc thực hiện quyền
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân.
1.2.2. Đặc điểm thực hiện pháp luật tiếp công dân của chính quyền cấp xã
Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là một lĩnh vực cụ thể của thực hiện
pháp luật nên nó vừa có đặc điểm chung của thực hiện pháp luật, vừa có những đặc
điểm riêng, mang tính đặc thù. Đây chính là những dấu hiệu đặc trưng mà nhờ nó có
thể phân biệt được thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này với thực hiện pháp luật về
các lĩnh vực khác.
1.2.2.1. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân là trách nhiệm của nhà nước
Công dân có quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ với nhà nước. Trong mối
quan hệ này, quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại. Mọi người
đều có quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và tiếp đón để giải quyết khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là trách nhiệm của nhà nước, là nhiệm vụ công tác
thường xuyên của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị. Trách nhiệm của nhà
nước trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân thể hiện qua các nội dung sau:
Một là, nhà nước bảo đảm cho mọi công dân được hưởng quyền làm chủ của
mình như “quyền bình đẳng trước pháp luật”, “quyền tham gia quản lí nhà nước và
xã hội”, “quyền khiếu nại, tố cáo” v.v. (đã được ghi trong Hiến pháp năm 2013 của

17


nước CHXHCN Việt Nam); xác lập khuôn khổ pháp lí để xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền; khẳng định tiếp công dân là trách nhiệm có tính bắt buộc của
nhà nước, bảo đảm thể chế hóa quyền và trách nhiệm tham gia quản lí nhà nước của

nhân dân theo định hướng công bằng và phát triển.
Hai là, nhà nước đầu tư các nguồn lực để thực hiện pháp luật về tiếp công
dân có hiệu quả, cụ thể: nhà nước rất chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở, vật chất phục
vụ tiếp công dân; đầu tư kinh phí, quy định chi tiết về chế độ đãi ngộ của cán bộ
tiếp công dân và cán bộ hỗ trợ công tác tiếp công dân; đặc biệt tuyên truyền, giáo
dục pháp luật cho các vùng sâu, vùng xa, nơi nhân dân nghèo để nhân dân có hiểu
biết về pháp luật và có thể sử dụng hiệu quả các quyền của mình, trong đó có quyền
khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và quyền được đón tiếp tại cơ quan nhà nước,
tổ chức xã hội. Trong trường hợp này, chỉ có nhà nước mới có đủ sức mạnh đầu tư;
thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta đối với việc thực hiện mục tiêu dân chủ,
công bằng, văn minh.
Ba là, Hệ thống cơ chế, chính sách hợp lí của nhà nước không chỉ tạo điều
kiện xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, nhân viên hoạt động trong lĩnh vực tiếp
công dân đầy đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, mà còn phát huy vai trò, trách
nhiệm và sự đóng góp có hiệu quả của lực lượng này cho xã hội.
Bốn là, nhà nước thực hiện tốt việc giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lí vi phạm
pháp luật nhằm bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lí trong quản lí hành chính nhà
nước, bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích xã hội cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân. Thông qua thực hiện pháp luật về tiếp công dân, bên cạnh việc giúp cho cơ
quan hành chính nhà nước nắm được những tâm tư, nguyện vọng, những thông tin
phản hồi, các kiến nghị, góp ý của nhân dân từ thực tiễn trong việc thực hiện chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, còn giúp nhà nước kịp thời
chấn chỉnh, bổ sung hoặc hủy bỏ các nội dung quy định không phù hợp.
1.2.2.2. Chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân
Chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân là các bên trong quan hệ pháp
luật về tiếp công dân. Chủ thể thực hiện pháp luật về tiếp công dân là cơ quan và
nhà nước hoặc cá nhân có thẩm quyền quy định tại Điều 4 Luật tiếp công dân năm
2013, tiếp nhận những thông tin từ công dân để lắng nghe, giải quyết các yêu cầu

18



của người dân theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Ngoài ra, chủ thể thực
hiện pháp luật về tiếp công dân không chỉ có cơ quan, tổ chức, đơn vị của Đảng,
nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội mà còn là cá nhân người dân, tổ chức đến khiếu
nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Trong xã hội dân chủ, người dân có thể thẳng thắn,
công khai bày tỏ quan điểm, ý kiến của mình đối với các vấn đề về chính sách, pháp
luật, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, đội ngũ cán bộ,
công chức; họ sẵn sàng sử dụng quyền chủ thể của mình trong thực hiện pháp luật
về tiếp công dân.
Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013, quy định: “Mọi người có quyền
khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm
trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân”, chủ thể quyền được mở rộng hơn so
với Hiến pháp năm 1992 khi chỉ quy định “Công dân có quyền khiếu nại, quyền tố
cáo...” (Điều 74). Tức là, theo Hiến pháp năm 2013, mọi công dân Việt Nam và cả
người nước ngoài, người không quốc tịch đang hiện diện hợp pháp trên lãnh thổ
Việt Nam đều có quyền khiếu nại, tố cáo đối với những việc làm trái pháp luật của
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc
bất cứ cá nhân nào. Trong đó:
(i) Chủ thể thực hiện quyền khiếu nại là cá nhân, cơ quan, tổ chức khi có căn
cứ cho rằng quyền lợi bị xâm hại bởi một quyết định hành chính, hành vi hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước; yêu cầu nhà nước chấm dứt một quyết định, hành vi hành chính gây
thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ và đề nghị nhà nước đền bù thiệt hại
do sự vi phạm gây ra. Mục đích của chủ thể khiếu nại là nhằm khôi phục quyền, lợi
ích hợp pháp của mình đã bị xâm hại.
(ii) Chủ thể thực hiện quyền tố cáo chỉ có thể là cá nhân, một người cụ thể.
Cá nhân có quyền tố cáo mọi hành vi vi phạm mà mình biết được, hành vi vi phạm
đó có thể tác động trực tiếp, gián tiếp hoặc không tác động đến người tố cáo. Mục
đích của tố cáo là phát giác, hạn chế, ngăn chặn kịp thời và xử lí nghiêm minh mọi

hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của nhà nước hoặc quyền, lợi ích
hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức mà không nhất thiết là quyền, lợi ích hợp
pháp của người tố cáo.

19


×