Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luận văn tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn thành phố hội an, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.28 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN TUẤN

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số: 838.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THANH THÙY

HÀ NỘI, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn Thạc sĩ Luật học “Tội trộm cắp
tài sản từ thực tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” bảo đảm độ tin
cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn kế thừa
từ các tác giả khác đều được trích dẫn đầy đủ. Luận văn này là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của tiến sỹ. Nguyễn
Thị Thanh Thùy.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI
SẢN THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ .......................................................... 8
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản ....... 8
1.2. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản theo quy
định của Bộ luật Hình sự hiện hành .............................................................. 21
1.3. Những hạn chế, thiếu sót của Bộ luật Hình sự hiện hành trong quy
định về tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 31
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ
TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỘI AN,
TỈNH QUẢNG NAM ................................................................................. 35
2.1. Tình hình có liên quan đến tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.............................................................................. 35
2.2. Thực trạng định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp
tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam ............................... 39
2.3. Đánh giá chung về thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn thành phố Hội An........................................................... 47
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ........................ 53
3.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng
quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam vê tội trộm cắp tài sản .................... 53
3.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay về
tội trộm cắp tài sản ....................................................................................... 54
3.3. Một số giải pháp khác góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
đối với tội trộm cắp tài sản ........................................................................... 56
KẾT LUẬN ................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CẤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt

Viết đầy đủ

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật Tố tụng hình sự


BLDS

:

Bộ luật dân sự

CTTP

:

Cấu thành tội phạm

QPPL

:

Quy phạm pháp luật

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

TAND

:

Tòa án nhân dân


TANDTC

:

Tòa án nhân dân tối cao

THTT

:

Tiến hành tố tụng

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC :

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

:


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Cơ cấu các vụ tội phạm đã được đưa ra xét xử giai đoạn 2015 2019 ............................................................................................................. 38
Bảng 2.2. Cơ cấu các vụ án trộm cắp tài sản đã được đưa ra xét xử giai
đoạn 2015 - 2019 ......................................................................................... 38


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam, nằm bên bờ Bắc hạ lưu sông
Thu Bồn; có tổng diện tích tự nhiên 61,71 km2, cách thành phố Đà Nẵng
30km về phía đông nam, có vị trí địa lý: Phía đông giáp biển Đông; Phía tây
giáp thị xã Điện Bàn; Phía nam giáp huyện Duy Xuyên; Phía bắc giáp thị xã
Điện Bàn và biển Đông. Ngoài lợi thế nằm gần sân bay Chu Lai của Quảng
Nam và cảng hàng không quốc tế hiện đại Đà Nẵng, Hội An còn có một ưu
thế đặc biệt với vị trí nằm trên “Con đường di sản văn hóa miền Trung” bao
gồm: Hội An- Mỹ Sơn- Huế. Đây được xem là điều kiện khách quan thuận lợi
giúp Hội An thu hút được một lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước.
Với những điều kiện như vậy, thành phố Hội An có quá trình phát triển về
kinh tế với tốc độ cao trong thời gian qua, đời sống người dân ngày càng được
nâng cao. Tuy nhiên, đi cùng với sự phát triển đó thì tình hình tội phạm
những năm gần đây có xu hướng tăng lên và diễn biến ngày càng phức tạp,
mặc dù chính quyền các cấp thành phố Hội An đã rất quan tâm tới công tác
phòng, chống tội phạm, tình hình tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật,
tệ nạn xã hội được kiểm soát. Tuy nhiên, một số loại tội phạm vẫn chưa thực
sự được kiềm chế hiệu quả, trong đó tội trộm cắp tài sản xảy ra khá thường
xuyên trên một phạm vi rộng, một loại hình tội phạm đang có chiều hướng gia
tăng và có diễn biến phức tạp tại thành phố Hội An.
Dưới sự quan tâm chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, người đứng
đầu cơ quan, tổ chức ở một số ngành tại địa phương, nhiệm vụ phòng, chống
tội phạm được đưa vào chương trình, kế hoạch phát triển theo yêu cầu của
Đảng và Nhà nước, do đó các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hội An

luôn thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật trong hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử đối với việc xử lý các vụ án hình sự nói chung và tội trộm
1


cắp tài sản nói riêng. Nhờ sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng, chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử ngày càng được nâng cao.
Tỷ lệ phát hiện số vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An chiếm tỷ
lệ cao và được đưa ra xét xử nghiêm minh trước pháp luật. Tuy nhiên, công
tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trộm cắp tài sản trên thực tế địa
bàn thành phố Hội An vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.
Qua thực tiễn xét xử, số vụ phạm tội trộm cắp tài sản chiếm tỷ lệ lớn
nhất trong cơ cấu nhóm tội xâm phạm sở hữu. Thực tiễn áp dụng quy định của
Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An cho thấy
những bất cập, khó khăn trong việc xác định một số dấu hiệu định tội, một số
tình tiết định khung hình phạt và mức hình phạt đối với người phạm tội. Hiện
nay vẫn chưa có hướng dẫn mới về các tội trộm cắp tài sản theo quy định của
Bộ Luật hình sự năm 2015, văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đối với các
tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng còn chưa có
sự thống nhất do đó dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này còn
nhiều hạn chế. Do đó, việc nghiên cứu tội phạm cụ thể trong luật hình sự Việt
Nam dưới góc độ thực tiễn tại thành phố Hội An, không những có ý nghĩa sâu
sắc về mặt lý luận mà còn về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật.
Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài “Tội trộm cắp tài sản từ thực
tiễn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận văn Thạc sĩ.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối
với tội này, đề tài góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của các cơ
quan tiến hành tố tụng trong công tác áp dụng pháp luật tại thành phố Hội
An, tỉnh Quảng Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến tội trộm cắp tài sản đã có
nhiều nhiều công trình khoa học được công bố, tiếp cận dưới các góc độ
2


nghiên cứu khác nhau. Các góc độ tiếp cận điển hình nhất bao gồm:
- Nhóm công trình nghiên cứu về quy định của PLHS đối với tội trộm
cắp tài sản gồm có:
+ Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở
hữu, Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và pháp luật, Hà Nội, 2001;
Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội;
+ Nguyễn Thanh Tùng, Tội trộm cắp tài sản theo Luật hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh); Luận văn thạc sĩ,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2015;
+ Lê Thị Hồng, Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam; Luận
văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;
+ Trần Thị Phường, Định tội danh đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu
tại tỉnh Bình Định giai đoạn 2006-2010, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;
+ Nguyễn Văn Trượng, Một số vấn đề cần hoàn thiện đối với tội trộm
căp tài sản, Tạp chí TAND số 4, tháng 2/2008; v.v...
- Nhóm công trình nghiên cứu về tình hình tội trộm cắp tài sản gồm có:
+ “Tình hình trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội” - Luận
văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Đình Hải năm 2016;
+“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra các vụ án trộm cắp
tài sản tại chỗ ở của công dân trên địa bàn tỉnh Kom Tum” Luận văn Thạc sỹ
luật học của tác giả Từ Vương Thông năm 2010;
+“Nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa tội phạm trộm cắp tài sản
tại nơi ở của công dân trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi của lực lượng CSĐT tội
phạm về trật tự xã hội” Luận văn Thạc sỹ luật học của tác giả năm 2015.

- Nhóm công trình nghiên cứu về thực trạng phòng, chống tội trộm cắp
tài sản gồm có:
3


+ Hoàng Văn Hùng, Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng, chống tội
phạm này ở Việt Nam, “Hoạt động của lực lượng cảnh sát nhân dân trong
phòng ngừa tội trộm cắp tài sản tại địa bàn công cộng tại thành phố, thị xã”
của tác giả Đinh Anh Tuấn năm 2009;
+ “Sử dụng biện pháp vận động quần chúng của lực lượng Cảnh sát nhân
dân trong giai đoạn điều tra ban đầu các vụ trộm cắp tài sản” của tác giả Lê
Quốc Trân năm 2010.
+ “Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Thị Thu Huyền năm 2017;
Như vậy, việc nghiên cứu về tội trộm cắp tài sản không còn là vấn đề
mới. Tuy nhiên, các công trình trên hoặc là có phạm vi nghiên cứu rộng, hoặc
chỉ xem xét dưới góc độ tội phạm học, cũng có những công trình tuy nghiên
cứu về việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản gắn với một địa
bàn cụ thể nhưng không liên quan đến tình hình thực tế tại thành phố Hội An,
tỉnh Quảng Nam. Nhiều công trình đã nghiên cứu cách đây khá lâu, do vậy
giá trị lý luận và thực tiễn đã không còn cao. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
chuyên sâu về tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật
hình sự của thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam một cách đầy đủ, toàn diện là
yêu cầu cấp thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 . Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, pháp luật và phân tích thực tiễn áp dụng
về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam giai
đoạn từ năm 2015 đến năm 2019, luận văn đề xuất hoàn thiện quy định của
pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, cũng như đưa ra các kiến nghị, giải

pháp cụ thể trong hoạt động áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội
trộm cắp tài sản nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống tội phạm trộm cắp tài
4


sản trên địa bàn thành phố Hội An nói riêng và tỉnh Quảng Nam nói chung.
3.2 . Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu
sau đây:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội trộm cắp tài sản
theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam; Khái quát lịch sử hình thành các
quy định của pháp luật Việt Nam về tội trộm cắp tài sản;
- Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật thông qua hoạt động định tội
danh và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành
phố Hội An, tỉnh Quảng Nam; những hạn chế, bất cập trong áp dụng pháp
luật tội trộm cắp tài sản;
- Đưa ra các kiến nghị, đề xuất, giải pháp góp phần kiến nghị nâng cao
hiệu quả phòng ngừa tội trộm cắp tài sản.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội trộm cắp tài sản,
thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ của Luật hình sự và
tố tụng hình sự.
- Về không gian, đề tài được nghiên cứu và khảo sát trong phạm vi
thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu dựa trên số liệu thực tế từ thực tiễn xét
xử của Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam từ năm 2015 đến

năm 2019.

5


5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội
phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp lịch sử: phương pháp này được sử dụng để làm rõ sự
hình thành và phát triển của tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam
từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay.
- Phương pháp thống kê, tổng hợp: phương pháp này được sử dụng để
làm rõ tình hình xử lý hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để làm rõ
những vấn đề chung và những hạn chế, vướng mắc về tội trộm cắp tài sản.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân
tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, luận văn sử dụng
phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về
vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể
hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình sự.
- Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh giữa pháp luật hiện
hành với các các văn bản pháp luật trước đây qua các giai đoạn lịch sử.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận

Đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội trộm cắp tài
sản, nghiên cứu có hệ thống cả về lý luận và thực tiễn về tội trộm cắp tài sản
6


xảy ra trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ những kết quả đạt được trong quá trình nghiên cứu, đề tài giúp nâng
cao hiệu quả thực tiễn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản. Bên cạnh đó,
nội dung và kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khai thác, sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác đào tạo luật, nghiên cứu khoa học, hội thảo tập
huấn chuyên đề, nâng cao hiệu quả công tác của các cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng khi giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên địa
bàn thành phố Hội An.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tội trộm cắp tài sản theo pháp luật
hình sự;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản
trên địa bàn thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về tội trộm cắp tài sản.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

1.1. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội trộm cắp
tài sản
1.1.1. Tội trộm cắp tài sản trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm
1985
Quy định về tội trộm cắp tài sản nói riêng và các quy định khác trong
pháp luật hình sự nói chung của nước ta giai đoạn mới giành độc lập bước
đầu được kế thừa từ pháp luật của chế độ cũ. Từ sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật để bảo vệ thành
quả cách mạng là công cụ hữu hiệu nhất, đặc biệt đã thể hiện chính sách hình
sự đối với các hành vi xâm phạm sở hữu. Một số các văn bản như: Sắc lệnh số
47/SL ngày 10/10/1946 của Chủ tịch Hồ Chí Minh tạm thời giữ lại các luật lệ
tại miền Bắc, Trung, Nam Bộ; Sắc lệnh số 26/SL ngày 25/02/1946 quy định
các hành vi phá hoại công sản. Ngày 09/11/1946, Quốc hội nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa thông qua Hiến pháp đầu tiên, tại Điều 12 đã ghi nhận:
“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”. Trong giai
đoạn này Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã ban hành một số
Sắc lệnh quy định về tội phạm xâm phạm sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài
sản như: Sắc lệnh số 267 ngày 15-6-1958 trừng trị những âm mưu và hành
động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân, làm cản
trở việc thực hiện chính sách kế hoạch của Nhà nước về xây dựng kinh tế và
văn hoá; Sắc lệnh số 12 ngày 12/3/1949 quy định trừng trị các hành vi trộm
cắp vật dụng nhà binh trong thời bình và thời kỳ chiến tranh.
8


Đồng thời, Nhà nước ta cũng quan tâm đến việc bảo vệ các tài sản riêng
của Công dân như quy định tại Thông tư 442-TTg ngày 19-01-1955 của Thủ
tướng Chính phủ.
Tư tưởng chủ đạo giai đoạn này là chú trọng bảo vệ tài sản chung là tài

sản XHCN hơn tài sản riêng tài sản cá nhân. Trước khi Bộ luật hình sự năm
1985 được ban hành thì các hình phạt không được quy định tập trung, sắp xếp
theo một trình tự nhất định và cũng không có tiêu chí đánh giá chung, áp dụng
thống nhất.
Ngoài những văn bản pháp luật có liên quan nêu trên, trong giai đoạn
này còn có Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân
được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 21/10/1970 và Pháp lệnh
số 149-LCT ngày 21/10/1970 là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản
Xã hội chủ nghĩa và. Pháp lệnh này quy định:
Tài sản xã hội chủ nghĩa bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của Nhà
nước thuộc sở hữu toàn dân, và tài sản thuộc sở hữu của hợp tác xã và các tổ
chức hợp pháp khác thuộc sở hữu của tập thể; tài sản của công dân bao gồm:
của cải do sức lao động của công dân làm ra một cách hợp pháp hoặc để dành
được như xe cộ, tiền bạc, trang sức, nhà cửa và những đồ dùng cá nhân có giá
trị khác.
Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân quy
định tội trộm cắp tài sản riêng của công dân tại Điều 6 như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản riêng của công dân thì bị phạt tù từ ba
tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc những trường hợp sau:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
9


d) Gây hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của người bị thiệt hại hoặc
gây hậu quả nghiêm trọng khác, thì bị phạt tù từ hai năm đến mười năm.
3. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN quy định tội trộm
cắp tài sản XHCN tại Điều 7 như sau:
“1. Kẻ nào trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 06 tháng
đến 05 năm.
2. Phạm tội trong những trường hợp sau đây:
a) Có tính chất chuyên nghiệp hoặc tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Có móc ngoặc;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
e) Trộm cắp tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
f) Dùng tài sản trộm cắp được vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ,
hoặc vào những việc phạm tội khác thì bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm rất lớn hoặc có
nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị
phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc bị xử tử
hình”.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự các cơ quan chức năng đã có
những văn bản hướng dẫn giải quyết đối với các trường hợp cụ thể như: Báo
cáo tổng kết công tác của TAND tối cao năm 1971, 1972; Thông tư
213/NCPL ngày 5/5/1973 của TAND tối cao - VKSND tối cao - Bộ Công an.
Nội dung hai pháp lệnh trên đã thể hiện chính sách pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm về sở hữu nói chung và tội trộm cắp tài sản nói
riêng thể hiện trình độ kỹ thuật lập pháp của Nhà nước ta nhằm đảm bảo
10


nguyên tắc pháp chế đáp ứng việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng. Hai cấu thành tội phạm hoàn
chỉnh về tội trộm cắp tài sản đó là tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp
tài sản riêng của công dân quy định cụ thể và tập trung các tình tiết định

khung tăng nặng trong điều luật, có các khung hình phạt tương ứng với tính
chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tội phạm, phân hoá trách nhiệm hình
sự người phạm tội được thể hiện qua hai pháp lệnh này. [26, tr.25].
Việc ban hành hai bản Pháp lệnh tại thời điểm này thể hiện sự quan tâm
của Nhà nước ta đối với tài sản công như tài sản thuộc quyền quản lý trực tiếp
của nhà nước và đối với tài sản riêng của cá nhân, nâng cao lòng tin của nhân
dân đối với chính quyền trong thời điểm này. Tạo niềm tin, nhân dân càng
yên tâm tích cực tham gia sản xuất và chiến đấu chống giặc Mỹ xâm lược.
Ngoài hai pháp lệnh nêu trên, Ban bí thư Trung ương Đảng Lao động
Việt Nam cũng đã ban hành Chỉ thị số 185 ngày 09/12/1970 về tăng cường
bảo vệ tài sản XHCN nhằm chỉ đạo thi hành nội dung hai pháp lệnh trong
thực tiễn cuộc sống.
Sắc luật số 03 quy định về tội phạm và hình phạt được thông qua ngày
15/3/1976. Tại Điều 4 sắc lệnh này quy định: “Phạm các tội như: trộm cắp,
tham ô, lừa đảo, bội tín, cướp giật thì bị phạt tù từ sáu tháng đến bảy năm.
Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù đến mười lăm năm”.
1.1.2. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1985
Năm 1985 Bộ luật hình sự đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở của
nền kinh tế bao cấp và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm
1985 với ý nghĩa là nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt
tại thời điểm này. BLHS năm 1985 là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc xử
lý người phạm tội, song vẫn còn sự phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản XHCN
và tội trộm cắp tài sản của công dân.
11


Tội trộm cắp tài sản XHCN được quy định tại Điều 132 BLHS năm
1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy định:
1. Người nào trộm cắp tài sản XHCN thì bị phạt cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt từ 3 năm đến 12 năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ ba
năm đến mười hai năm: a) Có tổ chức; b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy
hiểm; c) Hành hung để tẩu thoát; d) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn; đ) Tái
phạm nguy hiểm.
Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù
từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình trong trường hợp:
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ
mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Tội trộm cắp tài sản của công dân được quy định tại Điều 155 BLHS
năm 1985 bao gồm 3 khung hình phạt. Tại khung cơ bản (Khoản 1) có quy
định:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt tù từ hai năm đến mười năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ
hai năm đến mười năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; hành hung để tẩu thoát;
c) Chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng
khác;
12


d) Tái phạm nguy hiểm
Khung tăng nặng thứ 2 được quy định tại khoản 3 với mức hình phạt tù
từ bảy năm đến hai mươi năm trong trường hợp:
3. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ

bảy năm đến hai mươi năm.
Các vấn đề liên quan đến định lượng tài sản để xác định cấu thành Tội
trộm cắp tài sản và các khung hình phạt tăng nặng được hướng dẫn trong các
văn bản như: Nghị quyết 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng
dẫn áp dụng quy định trong phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự của Hội
đồng thẩm phán; Thông tư liên ngành 04/TTLN năm 1985 hướng dẫn thi
hành Bộ luật hình sự do Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối
cao - Bộ Tư pháp ban hành.
1.1.3. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999
Trên cơ sở yêu cầu của xã hội, kinh tế nước ta dần chuyển sang nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN, để đảm bảo và thực hiện sự
bình đẳng của các thành phần kinh tế, chính sách hình sự và pháp luật hình sự
cũng phải thay đổi theo. Trước sự phát triển không ngừng của xã hội, việc sửa
đổi, bổ sung các quy định của BLHS 1999 trở thành một yêu cầu tất yếu.
BLHS năm 1999 đã góp phần quan trọng trong quản lý xã hội, đấu tranh và
phòng ngừa tội phạm; giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo
vệ lợi ích của Đảng, Nhà nước, tổ chức và của công dân. Tại kỳ họp thứ VI
Quốc hội khóa X ngày 21-12-1999, có hiệu lực từ ngày 01-07-2000 Bộ luật
hình sự năm 1999 được thông qua.
Bộ luật hình sự năm 1999 đã gộp hai chương liên quan đến các tội xâm
phạm sở hữu trong BLHS năm 1985 thành một.
“Điều 138. Tội trộm cắp tài sản
13


1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ năm trăm
nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi
chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích

mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Tái phạm nguy hiểm;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng;
g) Gây hậu quả nghiêm trọng.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
bảy năm đến mười lăm năm:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm
trăm triệu đồng;
b) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;
b) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm
mươi triệu đồng”.
14


So với quy định về tội trộm cắp tài sản trong bộ luật cũ, tội trộm cắp tài
sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 có một số điểm mới như sau:
Thứ nhất, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 đã
hợp nhất hai điều luật về tội trộm cắp tài sản XHCN và tội trộm cắp tài sản

của công dân thành một điều luật. Tuy nhiên, để đấu tranh có hiệu quả với
hành vi trộm cắp tài sản công, Điều 48 BLHS năm 1999 quy định tình tiết
tăng nặng mới “Xâm phạm tài sản nhà nước”.
Thứ hai, Bộ luật hình sự năm 1999 đã định lượng cụ thể giá trị tài sản
bị chiếm đoạt, có giá trị từ năm trăm nghìn đồng đến dưới năm mươi triệu
đồng hoặc dưới năm trăm nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về tội chiếm
đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu theo khoản
1, đồng thời người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo các
khoản khác nhau của điều luật tùy theo mức độ vi phạm.
Thứ ba, tội trộm cắp tài sản tại Điều 138 được quy định bốn khung hình
phạt do đó khoảng cách giữ mức tối đa và mức tối thiểu của một khung hình
phạt được thu hẹp lại tạo cơ sở cho việc áp dụng hình phạt chuẩn xác hơn khi
lượng hình.
Thứ tư, Điều 138 BLHS năm 1999 đã xác định ranh giới giữa trường
hợp xử lý hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Trộm cắp tài sản có giá
trị có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng
hoặc chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích thì không bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Tuy nhiên, trước những thay đổi lớn lao trên các mặt của đời sống xã
hội, sự phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ hội nhập, nhận thức pháp luật
của của người dân ngày càng nâng cao, những thủ đoạn phạm tội ngày càng
15


tinh vi, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện… những vấn đề đó đòi hỏi cần
phải có sự điều chỉnh sửa đổi, bổ sung của hệ thống pháp luật trong đó có
pháp luật hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra trong công tác đấu
tranh phòng, chống tội phạm. BLHS năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung một

lần vào năm 2009, xác định lại ranh giới giữa trường hợp hành vi vi phạm
pháp luật hành chính với trường hợp: Trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu
đồng và hành vi này không gây hậu quả nghiêm trọng hoặc người đó chưa bị
xử lý hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc chưa bị kết án về tội chiếm đoạt
tài sản thì chỉ bị xử phạt hành chính.
1.1.4. Tội trộm cắp tài sản trong Bộ luật hình sự năm 2015
Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 ra đời đã
kế thừa và phát triển trên cơ sở của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi,
bổ sung năm 2009. Bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, thể hiện được
tính nhân đạo sâu sắc mang bản chất giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, phù hợp với luật pháp quốc tế. Phù hợp với các quy định của Hiến
pháp năm 2013 đề cao quyền con người, quyền công dân, đáp ứng được yêu
cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, là cơ sở để khắc phục
những tồn tại, bất cấp trong thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự. Phù hợp với
các Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, những vấn đề tội phạm,
hình phạt liên quan đến đối tượng phạm tội là người mang quốc tịch nước
ngoài được quy định khá đầy đủ, chi tiết đáp ứng được quá trình hội nhập và
phát triển với các nước trong khu vực và thế giới. Bộ luật đã cụ thể hóa được
những vấn đề mới, những nguy cơ tiềm ẩn của các loại tội phạm có thể xảy
tra trong tương lai, đảm bảo sự ổn định lâu dài trong quá trình thi hành. Đối
với những nội dung về quy định chung, các tội phạm cụ thể, về bố cục, kết
cấu, vị trí của các chương, điều, khoản, ngôn ngữ diễn đạt về kỹ thuật lập
pháp hoàn toàn phù hợp với Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, thể
16


hiện được tính kế thừa và phát triển. Bộ luật Hình sự năm 2015 gồm có 3
Phần, 26 chương, 426 điều so với Bộ luật Hình sự năm 1999 thì Bộ luật này
bãi bỏ 03 điều; giữ nguyên 30 điều; sửa đổi, bổ sung 396 điều, với nhiều nội
dung được sửa đổi lớn. Tội trộm cắp tài sản, được quy định tại Điều 173

BLHS gồm 04 khung và hình phạt bổ sung cụ thể:
Tại khung cơ bản (khoản 1 Điều 173) quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000
đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm
hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được
xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần
đối với người bị hại.
Khung tăng nặng thứ nhất được quy định tại Khoản 2 với mức hình
phạt tù từ hai năm đến bảy năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
17


d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm; đ) Hành hung để tẩu thoát;
e) Trộm cắp tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới
50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại
các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này;

g) Tái phạm nguy hiểm.
Khung tăng nặng thứ hai được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt
tù từ bảy năm đến mười lăm năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới
500.000.000 đồng;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung tăng nặng thứ ba được quy định tại Khoản 3 với mức hình phạt
tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu trộm cắp thuộc các trường hợp:
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
12 năm đến 20 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Trộm cắp tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000
đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d
khoản 1 Điều này;
c) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, tội trộm cắp tài sản còn quy định hình phạt bổ sung tại khoản
5:
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến
18


50.000.000 đồng.”
Như vậy, so với Điều 138 BLHS năm 1999 về tội trộm cắp tài sản thì
Điều 173 BLHS năm 2015 có một số điểm mới sau đây:
Thứ nhất, bổ sung thêm hai trường hợp đối với hành vi trộm cắp tài sản

thuộc khung hình phạt từ 6 tháng đến 3 năm tù.
Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 bổ sung thêm 02 trường hợp đối
với những hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng vẫn
phạm tội trộm cắp tài sản là:
“c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình
họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối
với người bị hại.”
Với tình trạng trộm cắp các loại tài sản dưới 2.000.000 đồng đang ngày
càng gia tăng gây tâm lí hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân đòi
hỏi phải có những hình thức răn đe tội phạm, chấn chỉnh lại trật tự xã hội. Do
vậy, việc pháp luật bổ sung thêm các trường hợp này là việc làm cần thiết.
Thứ hai, bỏ một số tình tiết định khung tăng nặng.
Đối chiếu với Bộ luật hình sự 1999, Bộ luật hình sự 2015 đã bỏ các tình
tiết định khung “Gây hậu quả nghiêm trọng; Gây hậu quả rất nghiêm trọng;
Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại các khoản 2, 3, 4 Điều 138
BLHS năm 1999. Đây là những tình tiết rất chung, rất khó cho các cơ quan
tiến hành tố tụng có thể xác định được trong quá trình thực hiện chức năng
của mình.
Thứ ba, sửa đổi tình tiết định khung tại khoản 2, tình tiết định khung
Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu
đồng” tại BLHS năm 1999 được sửa đổi như sau: Trộm cắp tài sản trị giá từ
2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường
19


×