Tải bản đầy đủ (.docx) (111 trang)

Đặc điểm truyện về loài vật của nguyễn nhật anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.12 KB, 111 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ TRÂM

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT
CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên – 2017


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

VŨ THỊ TRÂM

ĐẶC ĐIỂM TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT
CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân

Thái Nguyên – 2017


LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn đều
trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Thị Trâm


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm ơn Ban
Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Văn – Xã hội, Trường Đại học Khoa học –
Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã trực tiếp giảng dạy, giúp đỡ trong
suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn TS. Nguyễn Thị Thanh Ngân đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong suốt
thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè đã giúp
đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2017
Tác giả luận văn

Vũ Thị Trâm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU......................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................................1

2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu....................................................................................2
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu............................................................................7
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu......................................................................8
5. Phạm vi nghiên cứu...................................................................................................8
6. Đóng góp của luận văn..............................................................................................9
7. Cấu trúc của luận văn................................................................................................9
Chương 1 : KHÁI QUÁT TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA NHÀ
VĂN NGUYỄN NHẬT ÁNH..................................................................................... 10
1.1. Vài nét về truyện về loài vật ở Việt Nam.............................................................. 10
1.1.1. Những thành tựu nổi bật.................................................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm truyện về loài vật............................................................................... 12
1.2. Truyện loài vật trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh.......................................... 18
1.2.1. Sơ lược về tác giả Nguyễn Nhật Ánh................................................................. 18
1.2.2. Vài nét truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh............................................... 20
Tiểu kết chương 1........................................................................................................ 24
Chương 2: TỪ QUAN ĐIỂM SÁNG TÁC ĐẾN NỘI DUNG TRUYỆN VỀ LOÀI
VẬT CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH............................................................................ 25
2.1. Hướng đến đối tượng độc giả đa dạng.................................................................. 25
2.1.1. Truyện cho “trẻ con”......................................................................................... 25
2.1.2. Truyện “cho những người đã từng là trẻ con”.................................................. 31
2.2. Làm sống lại thế giới trẻ thơ................................................................................. 35
2.1.1. Tái hiện những trò nghịch ngợm....................................................................... 35
2.1.2. Khơi gợi những tình cảm phong phú................................................................. 39
2.3. Ẩn chứa những bài học cuộc sống giản dị, sâu sắc............................................... 46
2.3.1. Bài học ứng xử với tự nhiên............................................................................... 46
2.3.2. Bài học ứng xử với con người............................................................................ 55


Tiểu kết chương 2........................................................................................................ 59
Chương 3: PHƯƠNG THỨC XÂY DỰNG NHÂN VẬT, NGÔN NGỮ, GIỌNG

ĐIỆU TRONG TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH..................60
3.1. Phương thức xây dựng nhân vật…………………………………………60

3.1.1. Chân dung nhân vật được miêu tả rõ nét........................................................... 60
3.1.2. Tâm lý nhân vật được khắc họa sâu sắc............................................................ 67
3.2. Ngôn ngữ truyện................................................................................................... 73
3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện................................................................................ 73
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật............................................................................................ 80
3.3. Giọng điệu............................................................................................................ 86
3.3.1. Giọng điệu hài hước, dí dỏm............................................................................. 86
3.3.2. Giọng điệu triết lí, chiêm nghiệm...................................................................... 91
Tiểu kết chương 3........................................................................................................ 96
KẾT LUẬN................................................................................................................. 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................100


1

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, truyện viết về loài vật nói riêng, truyện cho trẻ em nói
chung trở thành vấn đề quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Bởi từ sau năm 1975, đặc
biệt từ thời kì Đổi mới và hội nhập, mảng sáng tác này đã ghi những thành tựu đáng
kể, thực sự thu hút bạn đọc không chỉ bởi cách tiếp cận đời sống mà còn là sự đa dạng
trong phong cách, trong giọng điệu. Cùng với truyện cho trẻ em, truyện loài vật thực
hiện sứ mệnh cao cả hướng về những giá trị nhân bản, vừa bao quát được cuộc sống
trẻ thơ, vừa sâu sắc với mỗi cuộc đời.
Trong số những nhà văn viết về loài vật, Nguyễn Nhật Ánh được tôn vinh như
một hiện tượng văn học trẻ với các danh hiệu “hoàng tử bé trong thế giới tuổi thơ”,
“nhà văn được yêu thích nhất trong 30 năm (1975-2005), “nhà văn có sách bán chạy

nhất”… Truyện Nguyễn Nhật Ánh được độc giả nhỏ tuổi háo hức đón nhận, bởi nhà
văn đã dựng lên một thế giới tuổi thơ phong phú, trong trẻo, gần gũi, đầy cảm xúc.
Đọc Nguyễn Nhật Ánh, trẻ nhỏ tìm thấy cuộc sống của mình trên từng trang sách,
người lớn cảm thấy hạnh phúc khi được trở về với thời thơ dại, tâm hồn thư thái hơn
sau những vật lộn mưu sinh.
Viết về loài vật, Nguyễn Nhật Ánh không chỉ hướng đến đối tượng độc giả là
thiếu nhi, mà còn dành cho “những người đã từng là thiếu nhi”. Truyện của ông đưa
người đọc đến với thế giới tuổi thơ hồn nhiên, trong trẻo, đồng thời hàm chứa trong đó
những bài học cuộc sống sâu sắc, những triết lý giản dị về cuộc đời mà những người
trưởng thành vô cùng thấm thía. Truyện của ông “đã thực sự vượt thoát ra khỏi khuôn
khổ câu chuyện của một chú cún, của những cô bé, cậu bé mới lớn để vươn tới những
khía cạnh khác nhau của cuộc sống mỗi chúng ta” [6,tr.241].
Tính đến thời điểm hiện tại, đã có rất nhiều bài viết khai thác tác phẩm của
Nguyễn Nhật Ánh nói chung và những sáng tác về loài vật của ông nói riêng dưới ánh
sáng của lý luận văn học. Tuy nhiên, các vấn đề liên quan đến nội dung và nghệ thuật
truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh lại chưa được khai thác thỏa đáng và có hệ


2

thống. Vì vậy, chúng tôi cho rằng, đề tài “Đặc điểm truyện về loài vật của Nguyễn
Nhật Ánh” nằm trong những đề tài thú vị và cấp thiết hiện nay.
2.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1. Những công trình đánh giá chung về Nguyễn Nhật Ánh
Là nhà văn có những đóng góp không nhỏ cho dòng văn học viết cho thiếu nhi,
Nguyễn Nhật Ánh nhận được nhiều sự yêu mến, quan tâm của độc giả và các nhà phê
bình. Đánh giá về Nguyễn Nhật Ánh, các tác giả khai thác vị trí của nhà văn trong nền
văn học thiếu nhi.
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Xuân trong bài viết “Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ Đọc văn xuôi Nguyễn Nhật Ánh” đăng trên báo Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh, số
237 (ra ngày 26/12/1996) đã nhận định giá trị làm nên thành công của truyện Nguyễn

Nhật Ánh chính là thái độ vào cuộc của nhà văn cùng yếu tố “cách kể, cách đối thoại
đã vượt lên nội dung câu chuyện” và “ngôn ngữ văn chương chuẩn mực. Ở đó, ngôn
ngữ trần thuật, ngôn ngữ đối thoại và văn tả cảnh thường thể hiện thành những mẫu
câu ngắn, đơn giản mà vẫn biểu đạt được các sắc thái khác nhau.” [33,tr.28].
Tác giả Vũ Ân Thy trong “Nguyễn Nhật Ánh - người bạn thân mến của độc giả
trẻ” đăng trên báo Sài Gòn giải phóng (1997) cũng đề cao tác phẩm của nhà văn xứ
Quảng “có sức hấp dẫn lạ và mới”, “luôn gần gũi như truyện dân gian cổ tích, như
ước mơ của tuổi thơ mà lại mang tính hấp dẫn hiện đại” [29,tr.52].
Tác giả Vân Thanh trong “Nguyễn Nhật Ánh nhà văn thân quý của tuổi thơ”
đăng trên Tạp chí Văn học số 6 - 1998 nhận định: “Nguyễn Nhật Ánh thông qua sự
sống dung dị và trẻ trung, giúp ta tiếp nhận được nhiều vấn đề: lí tưởng sống, tình
bạn, tình yêu nam nữ, tình thầy trò, tình yêu quê hương” [25]. Đặc biệt trong bài “Văn
học thiếu nhi Việt Nam với một lịch sử: từ Tô Hoài đến Nguyễn Nhật Ánh ”, tác giả đã
đánh giá cao vị trí của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh trong dòng văn học thiếu nhi: “Nói
về thành tựu văn học thiếu nhi trong Đổi mới và hội nhập, tôi nghĩ đến một hiện tượng
đột xuất, đó là Nguyễn Nhật Ánh với hành trình sáng tác luôn gây được ấn tượng, nếu
không nói là chấn động trong sự đón nhận của các thế hệ thiếu nhi hôm nay. Một ấn
tượng, hoặc chấn động, có lẽ chỉ “Dế mèn” của Tô Hoài mới có thể sánh được.” Cắt


3

nghĩa lí do vì sao Nguyễn Nhật Ánh chiếm được cảm tình của các em, người viết đưa
ra các lí do cơ bản, đó là: nhà văn “hiểu, và nắm rất kĩ, rất rõ cái thời của các em đang
sống hôm nay”, “cách kể tự nhiên về những chuyện của đời thường không tẻ nhạt, có
sức chứa những ý tưởng mới mẻ và những triết lí hồn nhiên, nhằm mở rộng sự sống
của thế giới trẻ thơ, và gieo trồng những tình cảm đặc trưng cho bước chuyển từ trẻ
con sang người lớn, từ gia đình ra xã hội” [6,tr.124].
Tác giả Lã Thị Bắc Lý trong cuốn “Văn học thiếu nhi Việt Nam thời kì hội nhập”
(năm 2016) cũng nhắc tới Nguyễn Nhật Ánh với tư cách là một trong những “nhà văn

giao thời của hai thế kỉ”, “là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thiếu nhi Việt Nam
những năm cuối thế kỉ XX” [19,tr.38]. Sang thế kỉ XXI, ngòi bút Nguyễn Nhật Ánh
vẫn thể hiện sức sống bền bỉ của mình với nhiều tác phẩm hay trong đó có Cho tôi xin
một vé đi tuổi thơ. Ở tác phẩm này “vẫn với lối viết dí dỏm kiểu Kính vạn hoa, Tôi là
Bêtô nhưng dấu ấn tâm trạng tác giả đã in đậm nét hơn, tâm trạng của con người càng
đi xa tuổi thơ càng da diết nhớ về tuổi thơ” [19,tr.38].
Tác giả Lê Huy Bắc trong “Nguyễn Nhật Ánh và truyện thiếu nhi” khẳng định
“Phải thừa nhận, ở thời điểm thực tại, viết truyện cho trẻ em (thiếu nhi) ở Việt Nam,
chẳng ai sánh bằng Nguyễn Nhật Ánh”. Theo tác giả, ở nhà văn Nguyễn Nhật Ánh
“hội đủ nhiều tố chất như trí tuệ, cảm xúc hồn nhiên, sự trải nghiệm cá nhân, trí tưởng
tượng phong phú, phi thường và đặc biệt phải rất nhân ái thì mới có thể chinh phục
người đọc” [6,tr.40].
Tác giả Văn Giá trong bài “Nguyễn Nhật Ánh – Hiệp sĩ của tuổi thơ” khẳng định
nhà văn Nguyễn Nhật Ánh là người “viết nhiều và viết hay” cho thiếu nhi và “không
chỉ thiếu nhi”. Người viết cho rằng “điểm đầu tiên tạo nên thành công trong tác phẩm
Nguyễn Nhật Ánh là nhà văn miêu tả thế giới trẻ thơ như chính trẻ thơ chứ không phải
ai khác” [6,tr.50]. Bên cạnh đó, để chinh phục bạn đọc mọi lứa tuổi, nhà văn đã “chủ
động lựa chọn một lối viết dung dị, chân thực nhất”, “một người kể chuyện tin cậy từ
đầu đến cuối” [6,tr.57].
Tác giả Lê Minh Quốc trong cuốn “Nguyễn Nhật Ánh - hoàng tử bé trong thế
giới tuổi thơ” (năm 2013) đã khẳng định “vị trí đặc biệt” của nhà văn Nguyễn Nhật
Ánh trong dòng văn học dành cho thiếu nhi và tuổi mới lớn đồng thời giải thích


4

nguyên nhân tạo ra “ma lực Nguyễn Nhật Ánh”. Đó là nhờ “cách viết phù hợp với tâm
lí đối tượng bạn đọc”, “câu văn trong sáng như nó vốn có, như lời ăn tiếng nói ta tiếp
nhận hàng ngày” [22,tr.52]. Các tác phẩm “kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố giải trí và
giáo dục” hướng trẻ thơ tới những giá trị nhân bản. “Yếu tố hóm hỉnh đóng vai trò

quan trọng” [22,tr.54] thể hiện qua những câu thoại và tình huống gây cười. Viết về thế
giới sinh động của tuổi mới lớn, nhà văn “đồng hành cùng với nhân vật, chứ không
phải đứng ngoài quan sát” [22,tr.61] nên tạo được sự hứng thú, đồng tình của độc giả.
Cũng ở phương diện này, tác giả Thái Phan Vàng Anh với bài viết “Nguyễn Nhật
Ánh, người kể chuyện của thiếu nhi” đăng trên Tạp chí Non nước (số 187 - 6/2013)đã
góp thêm một cách nhìn cho việc nghiên cứu truyện Nguyễn Nhật Ánh ở góc độ nghệ
thuật kể chuyện. Thái Phan Vàng Anh cho rằng dù không quá chú ý đến cách kể, đến
kĩ thuật dựng truyện nhưng cái hấp dẫn, cái “duyên” của truyện Nguyễn Nhật Ánh chủ
yếu nhờ vào “ sự hồn nhiên, tươi tắn ở ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật”, “Sức hút
của truyện Nguyễn Nhật Ánh còn nằm ở ngôn ngữ, giọng điệu trẻ thơ”, “truyện
Nguyễn Nhật Ánh là những câu chuyện được kể với thứ ngôn ngữ lạ kì, dí dỏm nhưng
không hề xa lạ, khó hiểu” [1,tr.61]
Bên cạnh những bài viết mà chúng tôi đã điểm qua ở trên, trong những năm gần
đây có không ít tiểu luận, luận văn của sinh viên đại học, cao học chọn truyện Nguyễn
Nhật Ánh làm đề tài nghiên cứu. Theo đó, sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh được khai
thác chủ yếu ở phương diện truyện viết cho thiếu nhi với các khía cạnh: nhân vật trẻ
nhỏ, nhân vật tuổi mới lớn, đặc điểm truyện, hồi ức tuổi thơ, triết lý trẻ thơ, thế giới trẻ
thơ, yếu tố huyền thoại…
Nhìn chung, các công trình này có nhiều điểm gặp gỡ nhận xét, đánh giá về Nguyễn
Nhật Ánh, giúp chúng tôi có cái nhìn toàn diện hơn về các giá trị nội dung, nghệ thuật
cũng như phong cách nhà văn. Tuy nhiên, đặt trong tổng thể, những vấn đề về truyện viết
về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh chưa được quan tâm một cách đích đáng.

2.2. Những công trình đánh giá sáng tác Nguyễn Nhật Ánh viết về loài vật
Kể từ sáng tác đầu tay là truyện dài Trước vòng chung kết (1985) đến nay,
Nguyễn Nhật Ánh đã có 30 năm viết cho thiếu nhi. Trong suốt ba thập kỉ ấy, đề tài và


5


bút pháp của tác giả khá đa dạng, gần gũi với tình cảm, suy nghĩ và cuộc sống của trẻ
thơ ở mọi lứa tuổi, mọi vùng miền. Thế giới loài vật - một mảng hiện thực quan trọng
trong nhiều truyện dài của Nguyễn Nhật Ánh trong nhiều năm trở lại đây là một minh
chứng xác tín cho tài năng, tình yêu và cái duyên ngày càng sâu đậm của tác giả với
trẻ em hôm nay. Bàn về mảng sáng tác này của Nguyễn Nhật Ánh có thể điểm đến
nhiều bài viết trong cuốn Nguyễn Nhật Ánh – Hiệp sĩ của tuổi thơ của nhiều tác giả, cụ
thể như sau:
Trong bài viết “Thế giới loài vật trong truyện Nguyễn Nhật Ánh”, nhóm tác giả
Bùi Thanh Tuyền, Đỗ Thị Kiều Liên, Đỗ Thị Ánh My, Ngô Hoàng Thanh Thư,
Nguyễn Văn Toàn lí giải tình yêu của độc giả với những sáng tác về thế giới loài vật
của Nguyễn Nhật Ánh như sau: “Thông qua những trang văn dí dỏm với những chi
tiết, tình huống bất ngờ, thú vị, lối nhân hóa tài tình qua lăng kính trẻ thơ, bằng một
thế giới loài vật dám tự hào rằng “những gì thuộc về con người đều không xa lạ với
chúng tôi” (Tôi là Bêtô), người viết đã làm sống dậy một miền tuổi thơ đáng yêu, đáng
nhớ trong cuộc đời mỗi người. Đây là lí do không chỉ thiếu nhi mà người lớn cũng yêu
thích truyện về thế giới loài vật của ông.” Các tác giả cho rằng truyện về thế giới loài
vật trong sáng tác của nhà văn đã tạo nên một “vườn bách thú diệu kì” và mỗi trang
sách luôn chứa đựng “những thông điệp cấp thiết, nhân văn từ thế giới loài vật”
[6,tr.187].
Cũng bàn đến đề tài này, tác giả Lã Thị Bắc Lý trong bài viết “Bêtô… không chỉ
là truyện về cún” đã cho rằng“…Bê tô, Laica,…đây đâu chỉ là những chuyện về cún!”,
“Đó là sự cảm nhận về cuộc sống và những ước mơ của Bê tô hay cũng chính là khát
vọng khám phá cuộc sống của trẻ thơ…những triết lí về cuộc đời của Bê tô cũng chính
là những khám phá của trẻ thơ về thế sự.” Điều đó lại được thể hiện qua “kiểu kể
chuyện dí dỏm, với ngôn ngữ giản dị, đời thường…như đang nói chuyện với các em,
điều mà không phải ai cũng dễ dàng đạt được” [6,tr.285].
Cùng chung quan điểm, tác giả Nguyễn Thị Hường trong “Tôi là Bê tô – cuốn
sách của trẻ em và câu chuyện cho người lớn” nhận định: “ Tôi là Bêtô- cuốn sách đã
thực sự vượt thoát ra khỏi khuôn khổ câu chuyện của một chú cún, của những cô bé,
cậu bé mới lớn để vươn tới những khía cạnh khác nhau của cuộc sống mỗi chúng ta”.



6

Tác giả lí giải một trong những yếu tố làm nên thành công của tác phẩm có thể kể đến
“điểm nhìn trần thuật của truyện được đặt ở ngôi thứ nhất với những quan sát, suy
nghĩ và hành động của chú cún”, từ đó “tác giả dễ dàng có những liên tưởng bất ngờ,
những khoảng lặng để thể hiện niềm vui, sự thích thú trước những khoảnh khắc đáng
yêu của cuộc sống” [6,tr.241].
Ngoài tác phẩm Tôi là Bêtô, Chúc một ngày tốt lành cũng nhận được nhiều ý
kiến đánh giá xác đáng về nội dung và nghệ thuật của những người nghiên cứu phê
bình văn học. Tác giả Lã Thị Bắc Lý – Phùng Thị Hân trong “Không gian giả tưởng
trong “Chúc một ngày tốt lành” của Nguyễn Nhật Ánh” nhận xét: “Trong thế giới
“Chúc một ngày tốt lành”, Nguyễn Nhật Ánh đã xây dựng một ngôn ngữ chung cho tất
cả các nhân vật để chúng có thể trò chuyện với nhau như con người” [6,tr.273]. Với
một không gian “được thêu dệt bằng trí tưởng tượng đậm chất siêu thực” nhà văn đã
tạo ra “ một thế giới đầy ảo thuật”, “tạo ra một không gian vui chơi cho trẻ nhỏ, đồng
thời đưa người lớn được trở về với tuổi thơ của chính mình” [6,tr.276]. Hơn nữa, trong
không gian giả tưởng ấy, tình yêu còn là “lẽ sống” của thế giới loài vật, qua đó thấy
nhà văn “đã rất thành công khi miêu tả tâm trạng, cảm xúc của lứa tuổi mới lớn, bắt
đầu biết chú ý, biết rung động với những đối tượng khác giới” [6,tr.277]. Từ những
khía cạnh cụ thể, tác giả bài viết khái quát lên giá trị phản ánh của không gian giả
tưởng trong tác phẩm Chúc một ngày tốt lành, đó là phản ánh hiện thực xã hội và gửi
gắm những thông điệp về cuộc sống, về tình yêu, về tình bạn và tình người.
Tác giả Võ Thị Tuyết Nhung trong “Nghệ thuật xây dựng nhân vật loài vật
trong “Chúc một ngày tốt lành” của Nguyễn Nhật Ánh” thì tiếp cận tác phẩm ở nghệ
thuật xây dựng nhân vật loài vật trên những nét tiêu biểu như “chủ động tạo ra những
tên gọi rất thú vị, gây được ấn tượng mạnh ngay từ đầu”, “chú trọng đến miêu tả tính
cách của từng đối tượng”, hay “đặt nhân vật vào những cảnh ngộ có kịch tính để nhân
vật bộc lộ rõ nét tính cách của mình”, “khắc họa đậm nét tính cách nhân vật thông qua

hình thức đối thoại”, “miêu tả tâm lí”. Từ đó tác giả khẳng định: “các nhân vật loài vật
ở tác phẩm “Chúc một ngày tốt lành” đã mở ra cho độc giả nhiều phát hiện quen
thuộc nhưng không nhàm chán về thế giới trẻ em với những tính cách đặc trưng”. Và
“Truyện “Chúc một ngày tốt lành” nói riêng cũng như các truyện đồng thoại nói


7

chung thực sự đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, ấn tượng về sự
ngây thơ, trong sáng của tuổi thơ và sự phong phú muôn màu của thế giới loài vật ”
[6,tr.308].
Ở một phương diện khác, tác giả Nguyễn Thanh Tâm trong “Chúc một ngày tốt
lành – diễn ngôn của nhà văn mãi mãi tuổi 15”, lại đề cập đến diễn ngôn của tác phẩm
từ “chất thôn quê cứ lan tỏa khắp không gian truyện” đến những yếu tố hài hước,
những ẩn ngữ và sự hiện diện của diễn ngôn giới tính. Từ những đặc điểm của diễn
ngôn trong Chúc một ngày tốt lành tác giả đã khẳng định: “Đây là tác phẩm có khả
năng đi sâu vào đời sống của tâm hồn trẻ em và của những ai đã từng là trẻ em”
[6,tr.345].
Như vậy, đã có nhiều bài viết nhìn nhận, đánh giá tác phẩm viết về loài vật của
Nguyễn Nhật Ánh ở nhiều phương diện khác nhau. Ở phương diện nội dung, các bài
nghiên cứu trên chỉ ra rằng truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh đã phản ánh sự
phong phú muôn màu của thế giới loài vật, đồng thời qua câu chuyện về loài vật, nhà
văn mở ra cho độc giả nhiều phát hiện về thế giới trẻ em, về tuổi mới lớn, về đời sống
xã hội và gửi vào đó những thông điệp về cuộc sống, tình bạn, tình yêu, tình người. Ở
phương diện nghệ thuật, các tác giả đã đề cập đến sự thành công ở kiểu kể chuyện dí
dỏm, ngôn ngữ giản dị, đời thường trong Tôi là Bêtô và nghệ thuật xây dựng nhân vật,
ngôn ngữ nghệ thuật, không gian nghệ thuật ở Chúc một ngày tốt lành. Tuy nhiên,
những vấn đề được đề cập đến trong các bài viết còn tản mạn và thiếu tính hệ thống.
Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này với mong muốn sẽ làm rõ đặc điểm truyện về
loài vật của Nguyễn Nhật Ánh nhìn từ góc độ lí luận văn học. Thành tựu nghiên cứu

của những người đi trước sẽ là những định hướng, những bài học quý báu giúp chúng
tôi trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
3.Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những đặc điểm về đối tượng tiếp nhận,
nội dung, mục đích (được thể hiện thông qua hệ thống quan điểm sáng tác) và các
phương thức nghệ thuật trong truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh.


8

3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Góp phần khẳng định tài năng, phong cách và vị trí của Nguyễn Nhật Ánh trong
nền văn học hiện đại, từ đó đóng góp vào lý luận phê bình văn học đương đại. Ngoài
ra, đề tài còn nhằm phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập các chuyên ngành Văn
học Việt Nam, Lý luận văn học, ….
4.Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nghiên cứu các vấn đề lý luận của đề tài;

- Phân tích các đặc điểm truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh thông qua
hệ
thống quan điểm sáng tác của nhà văn về đối tượng độc giả, nội dung tác phẩm, mục
đích sáng tác…
-

Phân tích các phương thức xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu trong


truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh;
Khẳng định giá trị của các tác phẩm và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Nhật
Ánh.

4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp một số phương pháp
chính sau:
-

Phương pháp phân tích - tổng hợp lý luận được áp dụng khi trình bày quan

điểm nghệ thuật của Nguyễn Nhật Ánh về truyện loài vật và phương thức xây dựng
nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu trong truyện về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh.
-

Phương pháp tiếp cận hệ thống được áp dụng khi trình bày quan điểm nghệ

thuật của Nguyễn Nhật Ánh về truyện loài vật.
- Phương pháp so sánh khi trình bày ngôn ngữ người kể chuyện và chân
dung
nhân vật được miêu tả rõ nét.
5. Phạm vi nghiên cứu


Để triển khai đề tài, luận văn tiếp cận các phương diện về quan điểm sáng tác
(quan điểm về đối tượng độc giả, về nội dung tác phẩm và về mục đích sáng tác) và
các phương thức xây dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu trong bốn tác phẩm viết về


9


loài vật của Nguyễn Nhật Ánh được sáng tác từ những năm 2000 trở lại đây, bao gồm:
Tôi là Bêtô (2007), Có hai con mèo ngồi bên cửa sổ (2012), Chúc một ngày tốt lành
(2014), Con chó nhỏ mang giỏ hoa hồng (2016).
6.Đóng góp của luận văn
Thực hiện luận văn này, chúng tôi hi vọng sẽ:
-

Chỉ ra được những đặc điểm của truyện viết về loài vật trong sáng tác của

Nguyễn Nhật Ánh;
- Thông qua đó góp phần khẳng định sự phong phú trong sáng tác của nhà
văn;
-Thông qua đề tài góp thêm những cứ liệu khách quan, khoa học cho công việc
học tập, nghiên cứu của học sinh, sinh viên, giáo viên về văn chương Nguyễn Nhật
Ánh nói riêng và văn xuôi đương đại Việt Nam nói chung.
7.Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát truyện về loài vật
Chương 2: Quan điểm của Nguyễn Nhật Ánh về truyện về loài vật
Chương 3: Phương thức xây dựng nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu trong truyện
về loài vật của Nguyễn Nhật Ánh.


10

Chương 1
KHÁI QUÁT TRUYỆN VỀ LOÀI VẬT VÀ SÁNG TÁC CỦA NHÀ VĂN
NGUYỄN NHẬT ÁNH
1.1. Vài nét về truyện về loài vật ở Việt Nam

1.1.1. Những thành tựu nổi bật
Truyện về loài vật có nguồn gốc xa xưa từ những câu chuyện truyền miệng, được
gọi truyện ngụ ngôn, hoặc truyện cổ tích loài vật. Ở Việt Nam, loại truyện này đã có
quá trình phát triển lâu dài và đã có thành tựu trên nhiều phương diện, góp phần làm
phong phú hơn nền văn học dân tộc. Trong thế kỷ XX, XXI này, truyện loài vật phát
triển mạnh mẽ với sự đóng góp của nhiều thế hệ tác giả.
“Truyện thiếu nhi về bản chất là truyện người lớn, theo nghĩa, thiếu nhi nhận
thức được những vấn đề của người lớn trong đó hoặc người lớn nhận thức được mình
rõ hơn thông qua cái nhìn phản biện của trẻ em” [6,tr.41]. Truyện về loài vật gắn liền
với văn học thiếu nhi, vì đây là đối tượng tiếp nhận chính.
Theo tác giả Lã Thị Bắc Lý, văn học thiếu nhi là một bộ phận của văn học dân
tộc, cũng có quá trình hình thành và phát triển qua các thời kì lịch sử của nó. Theo đó,
truyện viết cho thiếu nhi nói chung hay truyện viết về loài vật trong văn học thiếu nhi
nói riêng cũng mang những đặc điểm và thành tựu theo sự phân kì lịch sử này.
Trước Cách mạng tháng Tám, văn học thiếu nhi nói chung, truyện về loài vật nói
riêng bắt đầu được chú ý nhưng chưa trở thành phong trào. Dù vậy, mảng truyện này
cũng có những thành tựu bước đầu: Dế mèn phiêu lưu ký, Võ sĩ bọ ngựa, Đám cưới
chuột của Tô Hoài; Con mèo mắt ngọc của Nam Cao; Vợ cóc, Con rắn, Cóc tía của
Khái Hưng; Hang thuồng luồng, Con rắn trắng của Ngọc Giao…Trong đó, Dế mèn
phiêu lưu kí (Tô Hoài) là tác phẩm tiêu biểu nhất.
Sau Cách mạng, nền văn học dành riêng cho trẻ em mới được quan tâm phát triển
theo đúng nghĩa. Bên cạnh các tờ báo Thiếu niên, Tuổi trẻ, Xung phong, Măng non…,
thời kỳ này có sự đóng góp dày dặn của nhiều nhà văn tên tuổi như Tô Hoài, Đoàn
Giỏi, Nguyễn Huy Tưởng, Võ Quảng, Phạm Hổ, Nguyễn Đinh Thi, Thy Thy Tống
Ngọc,... Truyện về loài vật theo đó cũng ở trên đà phát triển mạnh.


11

Thời kì kháng chiến chống Mĩ, số lượng các sáng tác viết về loài vật cũng tăng

lên đáng kể và có nhiều tác phẩm xuất sắc. Nếu như ở chặng đường đầu của quá trình
sáng tác, chỉ có một vài truyện ít ỏi đăng trên báo thì đến nay, khi đất nước được giải
phóng, đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, số lượng tác phẩm tăng lên hàng nghìn
cuốn, gồm những tác phẩm tinh tuyển ở trong nước và ngoài nước. Thể loại, đề tài trở
nên phong phú, đa dạng. Chất lượng truyện cũng tăng lên đáng kể. Đội ngũ nhà văn
bắt đầu chú trọng đến đề tài, nội dung phản ánh trong truyện. Đặc biệt, nghệ thuật viết
truyện cũng không ngừng được cách tân, có khả năng tái hiện muôn mặt của hiện thực
cuộc sống.
Từ những năm 1975 đến đầu thập kỷ 80, văn học chuyển biến mạnh mẽ, gắn liền
với đời sống xã hội và hơn bao giờ hết văn học có nhiều tìm tòi mạnh dạn từ nội dung
đến hình thức, từ tư tưởng đến thủ pháp nghệ thuật, vai trò chủ thể của người nghệ sĩ
được coi trọng và phát huy. Văn học thiếu nhi cũng không đi khỏi quỹ đạo chung ấy.
Các sáng tác cho các em thời kì này đã có sự mở rộng về đề tài cũng như hướng tiếp
cận đời sống và khả năng khám phá con người, trong đó, đề tài lao động, học tập và
sinh hoạt của con người được tập trung khai thác thông qua hình thức miêu tả thế giới
loài vật. Truyện viết về con người nhưng lại được “thể hiện dưới hình thức đồng thoại
với rất nhiều chất thơ, nhưng không vì thế mà kém đi tính chân thực, giản dị”
[26,tr.87]. Bên cạnh đó, mảng truyện loài vật được thể hiện dưới hình thức truyện
tranh cũng khá phát triển cùng với những tên tuổi như Thy Thy Tống Ngọc với Chú
lợn đất; Văn Hồng, Mai Long với Cá rô ron không vâng lời mẹ…
Trong những năm 1980 - 1990, hàng loạt sáng tác về loài vật trình làng với tên
tuổi của các nhà văn Lâm Thị Mỹ Dạ, Phạm Hổ, Ma Văn Kháng, Trần Mạnh Hảo, Vũ
Tú Nam, Vũ Duy Thông, Nguyễn Nhật Ánh…
Những năm đầu của thế kỉ XXI cho đến nay, truyện loài vật trở thành một phần
không nhỏ, đóng vai trò quan trọng trong văn học thiếu nhi với một số lượng lớn. Đó
là các sáng tác tiếp nối mạch đề tài của các tác giả thời kỳ trước như Vũ Tú Nam,
Nguyễn Nhật Ánh… và là sự trình làng mới mẻ của những tác giả trẻ Nguyễn Đình
Quảng, Nguyễn Thị Bích Nga, Phạm Thành Long…



12

Cùng với sự mở rộng và phong phú của đề tài, nghệ thuật viết truyện loài vật
cũng ngày một hấp dẫn và có những thành công đáng kể. Ở giai đoạn đầu, truyện chỉ
mới dừng lại ở việc mượn những cốt truyện đơn giản, ít tình tiết để ghi lại những sự
kiện, nội dung chính. Nay, với những cốt truyện thú vị, phong phú xuất phát từ thực tế
cuộc sống con người cùng những chi tiết sinh động, “truyện đã tìm được nhiều con
đường khác nhau để đi vào thế giới tâm hồn” [27,tr.43] của người đọc, tạo được nhiều
hứng thú và tình cảm ở họ. Do đặc trưng của truyện nên các khi sáng tạo một tác
phẩm, nhà văn rất chú ý đến việc nhân hóa loài vật, tạo cho truyện chất thơ, chất dí
dỏm, vui tươi. Thế giới loài vật vừa mang những đặc điểm riêng biệt của giống loài
vừa mang những nét tính cách của thế giới loài người.
Có thể nói, từ sau thời kì Đổi mới, văn học nước nhà - trong đó có văn học thiếu nhi
có nhiều khởi sắc. Trong bước tiến của văn học thiếu nhi, truyện loài vật dần dần được
hình thành và không ngừng phát triển. Sâu sắc và thấm đẫm tính nhân văn, những trang
viết về đề tài loài vật luôn phảng phất bóng dáng trẻ thơ với những suy nghĩ trong trẻo và
thánh thiện, với cái nhìn bao dung và nhân hậu trước cuộc đời. Xuất phát từ những ý
tưởng, nội dung, cốt truyện và những hình ảnh quen thuộc, truyện viết về loài vật trong
nền văn học mới có những bước phát triển và đạt nhiều thành tựu. Sự phong phú về đề tài,
thể loại cùng với đội ngũ nhà văn chuyên nghiệp, số lượng tác phẩm có chất lượng, sự đổi
mới ở nội dung và nghệ thuật đã dần dần đưa truyện loài vật đi vào quỹ đạo chung của sự
nghiệp đổi mới diện mạo chung của nền văn học nước nhà.

1.1.2. Đặc điểm truyện về loài vật
Trong nền văn học dân tộc, truyện viết về loài vật đã có những đóng góp to lớn
vào việc duy trì và phát triển những thể loại đã có hoặc bị bỏ quên trong thời gian khá
dài. Từ thực tiễn sáng tác và thành tựu của thể loại, chúng ta có thể thấy được những
đặc điểm nổi bật của truyện loài vật với tư cách là một “sản phẩm” hiện đại trên hai
phương diện: nội dung và nghệ thuật.
1.1.2.1. Về nội dung

Nội dung phản ánh trong truyện loài vật khá đa dạng và phong phú. Bằng những
hình thức thể hiện độc đáo, nội dung của những sáng tác viết về loài vật không bó hẹp


13

ở việc miêu tả những đặc điểm tự nhiên của thế giới loài vật. Đa số truyện hướng tới
thể hiện những nội dung, cảm hứng khác nhau: đời sống sinh hoạt, đời sống lao động
chiến đấu, những điều kì diệu của thế giới tự nhiên, những tình cảm, cảm xúc thú vị
nhiều cung bậc của con người.
Trước hết, mỗi sáng tác về loài vật đem đến cho người đọc một câu chuyện thú vị
về thế giới loài vật. Đó là thế giới của những cô Nhà Trò yếu đuối, những gã Nhện
ranh ma, những Dế Choắt còm cõi mà sâu sắc, những họ hàng nhà Kiến nóng nảy mà
tình nghĩa, những Dế Mèn - Dế Trũi trượng nghĩa rong chơi giữa trời đất bao la, anh
em bốn cõi một nhà… trong Dế Mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài. Đó là tình bạn của
Kiến Lửa và Kiến Nâu với hành trình phiêu bạt giữa thế giới của côn trùng như Mối,
Nhện, Chuồn chuồn… trong Ngàn dặm xa của Nguyễn Đình Chính. Rõ ràng, truyện
loài vật phán ánh thế giới của loài người, nhưng được nhìn của con mắt xanh non, phù
hợp với đối tượng độc giả là thiếu nhi. Thông qua đó, đời sống loài vật được tái hiện,
để từ đây, độc giả được đưa đến những miền tưởng tượng phong phú mà ở đó, tâm hồn
con người được mở rộng và có thêm những hiểu biết về cuộc sống, về thế giới tự nhiên
quanh mình.
Bên cạnh đó, truyện loài vật còn có nội dung khoa học, đưa người đọc đến những
miền đất mới lạ, từ đó, người đọc có thể khám phá thế giới tự nhiên đa dạng, phong
phú qua câu chuyện về các “nhân vật” loài vật. Truyện của Viết Linh, Thanh Hào,
Nguyễn Thị Bích Nga… đem đến những kiến thức khoa học một cách nhẹ nhàng,
khiến độc giả cảm thấy đây không chỉ là những bài giới thiệu đơn giản về thế giới
khoa học mà đó còn là những câu chuyện thú vị xoay quanh thế giới tự nhiên. Song
song với đó, truyện của Nguyễn Thị Ấm, Nguyễn Đình Quảng, Tô Hoài, Nguyễn Nhật
Ánh… lại đưa người đọc đến với những bài học đạo đức giản dị của cuộc sống. Có thể

nói, mỗi câu chuyện loài vật ẩn chứa những giá trị giáo dục sâu sắc.
Ngoài ra, giống như các hình thức văn học khác, truyện về loài vật cũng phản
ánh hiện thực. Những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước và tâm huyết của
các tác giả viết cho thiếu nhi đã góp phần không nhỏ cho sự xuất hiện của một loạt
những thành tựu trong sáng tác của Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Đoàn Giỏi, Ma Văn
Kháng, Võ Quảng, Phạm Hổ, Hà Ân,...Thời kì này, đặc điểm nổi bật của truyện loài


14

vật là viết về con vật để nói về con người, về cuộc sống mới. Nội dung truyện vì thế
mang đậm hơi thở của thời đại.
Trước hết, truyện loài vật ca ngợi về con người và cuộc sống mới, tiêu biểu trong
các sáng tác của Tô Hoài, Võ Quảng, Văn Biển…Trong tác phẩm Đàn chim gáy, qua
hiện tượng đàn chim chưa đến tháng mười đã rủ nhau đi ăn đàn, Tô Hoài đã hàm ý
phản ánh công cuộc làm ăn mới đã tạo nên những đổi thay kì diệu cho nông thôn và
đồng ruộng ở miền Bắc những năm 60 của thế kỉ trước. Truyện ngắn Cô Bê 20 của
Văn Biển cũng thể hiện một cách sinh động, ý vị đề tài cuộc sống mới, con người mới.
Ở tác phẩm này, tác giả mượn lời Cô Bê có số hiệu 20 kể về cuộc đời mình để viết về
người Anh hùng lao động Hồ Giáo – một tấm gương điển hình trong lao động sản xuất
xã hội chủ nghĩa. Như vậy, qua những câu chuyện về loài vật, các tác giả đã hướng
tình cảm yêu mến của người đọc đến cuộc sống mới, khơi dậy niềm tự hào về con
người mới, đất nước mới với những đổi thay nhanh chóng của quê hương.
Bên cạnh chủ đề về những thành tựu của cuộc sống mới, chủ đề về cải cách giáo
dục, nâng cao dân trí cho mọi tầng lớp nhân dân lại được thể hiện qua câu chuyện sinh
động của Thy Thy Tống Ngọc. Lớp học của anh Bồ câu trắng với người đứng lớp là
anh bồ câu và học sinh là những loài vật quen thuộc như trâu, bò, lợn, gà…đã phản
ánh không khí của những lớp học thuở bình dân học vụ.
Tiếp nối thành tựu của truyện viết về loài vật ở những giai đoạn trước đó, văn
học sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay, nhiều tên tuổi

tiêu biểu đã mang đến cho truyện những nội dung mới, có khả năng phản ánh mọi
phương diện trong cuộc sống. Đó là mối quan hệ bố chồng - nàng dâu và sự hi sinh
cao cả của người làm cha mẹ trong Con chuột mù của Bùi Hiển. Đó là vấn đề thái độ,
cách ứng xử và cách rèn luyện bản lĩnh trong cuộc sống và trong các mối quan hệ xã
hội phức tạp của một con mèo cụ thể, đồng thời cũng là câu chuyện của mỗi cá nhân ở
tác phẩm Làm mèo của Trần Đức Tiến… Như vậy, câu chuyện về loài vật nhưng lại có
khả năng chuyển tải những vấn đề triết lí của cuộc sống, khiến tác phẩm trở nên đa
thanh, đa nghĩa, không thể là tác phẩm chỉ đọc một lần.
Nhìn chung, truyện loài vật là một thể loại đã có một quá trình phát triển lâu dài
và đạt thành tựu trên nhiều phương diện. Cho đến nay, mảng đề tài này vẫn có sức hấp
dẫn không chỉ với nhiều thế hệ nhà văn mà còn với bạn đọc mọi lứa tuổi, mọi thời đại.


15

Vì thế, truyện loài vật trở thành một bộ phận không thể thiếu trong mọi nền văn học.
Không chỉ bó hẹp trong loại hình văn học, truyện về loài vật còn là bộ phận quan trọng
không thể thiếu trong các trường tiểu học và mầm non, là “cái nền” cho những cảm
hứng sáng tạo của nhiều bộ môn nghệ thuật như: thơ ca, hội họa, sân khấu và điện
ảnh… Ảnh hưởng trên phạm vi khá rộng, theo những mức độ khác nhau, truyện về
loài vật xứng đáng được ghi nhận vì có những đóng góp cho nền văn hóa, văn học
nước nhà.
1.1.2.2. Về nghệ thuật
Truyện về loài vật là loại truyện tưởng tượng, phản ánh cuộc sống không theo
quy luật tả thực mà dựa trên việc miêu tả những hình tượng loài vật để sáng tạo nên
nội dung câu chuyện. Đặc biệt, truyện loài vật có khả năng xoá nhòa ranh giới giữa hư
và thực. Vì thế, nó giúp các em nhỏ dễ dàng hoá thân vào thế giới loài vật vốn rất gần
gũi quanh cuộc sống, để cảm nhận thế giới loài vật như cuộc sống của chính mình. Để
có được điều đó, nghệ thuật truyện viết về loài vật mang những đặc điểm riêng biệt.
Thứ nhất, về hình thức sáng tác, truyện về loài vật được sáng tác bằng cách viết

lại dựa trên những cốt truyện dân gian hoặc viết mới không chịu sự chi phối của một
tác phẩm dân gian cụ thể nào. Theo lối mượn cốt truyện, có thể kể đến Con Cóc là cậu
ông Giời (Nguyễn Huy Tưởng); Bài học tốt (Võ Quảng)… Nhiều sáng tác khác của
Võ Quảng, Khái Hưng cũng được hình thành từ những sự tích dân dã nhưng vẫn giàu
chất triết lí hồn nhiên, có khả năng giáo dục cho các em cả về trí tuệ, về thẩm mĩ và
phép đối nhân xử thế trong cuộc sống. Tất cả đã tạo nên dấu ấn riêng trong nghệ thuật
viết truyện của nhà văn. Đặc sắc hơn vẫn là những truyện cổ tích hiện đại - vốn được
nhà văn sáng tác trên cơ sở hoặc dựa vào cốt truyện dân gian, hoặc dựa vào thi pháp
thể loại. Chẳng hạn, ở truyện Vợ Cóc, Khái Hưng chủ động thay đổi trật tự các lớp
truyện, không kể theo cách dân gian: sự việc nào xảy ra trước – kể trước, sự việc nào
xảy ra sau – kể sau. Ông cũng chú ý đến tâm lí nhân vật, và lược bỏ đi những nội dung
được cho là không cần thiết. Tài năng của Khái Hưng thể hiện qua lối kể chuyện cổ
tích mới mẻ, kế thừa có phát triển thi pháp thể loại truyện cổ tích dân gian. Theo hình
thức viết mới, nhà văn phải tự mình sáng tạo nên cốt truyện và không chịu sự chi phối
của một tác phẩm dân gian cụ thể nào. Trường hợp này có thể nhận thấy rõ qua hàng


16

loạt sáng tác về loài vật của nhà văn Tô Hoài như Dế Mèn phiêu lưu ký, Trê và Cóc,
Ông Trạng Chuối, Võ sĩ Bọ Ngựa… Xét trong thực tiễn sáng tác văn học, truyện viết
về loài vật chủ yếu được sáng tác theo hình thức viết mới, người viết có điều kiện thể
hiện tài năng sáng tạo, tạo bước ngoặt mới cho truyện đồng thoại về loài vật, đáp ứng
yêu cầu đổi mới của nền văn học mới.
Thứ hai, về nghệ thuật xây dựng hình tượng loài vật: nhân vật trong truyện loài
vật được nhà văn nhân hóa, gán cho những nét tính cách, những hành động và suy
nghĩ của con người. Không chỉ thế, chúng còn được đặt trong mối quan hệ với cuộc
sống của con người. Với hình tượng loài vật, nhà văn gửi gắm vào đó những vấn đề
của cuộc sống hiện đại: những bài học từ cuộc sống, hay đơn giản là những tấm gương
phản ánh cuộc sống hàng ngày của con người. Truyện về loài vật nhưng thể hiện một

cách sinh động, ý vị về đề tài cuộc sống mới, con người mới.
Bên cạnh đó, sự kết hợp nhịp nhàng giữa ngoại hình, hành động, tâm trạng làm
cho truyện ngắn loài vật mất dần tính chất loại hình giản đơn và có khả năng chuyển
hoá thành nhân vật có cá tính. Đó cũng là thành công của truyện loài vật khi tìm cho
mình hướng đi mới thông qua việc giãn nở cốt truyện, biến các yếu tố ngoài cốt truyện
trở thành cảm hứng thể hiện khiến những truyện vốn dĩ quen thuộc bỗng trở nên “lạ
hóa”. Những con vật không chỉ hiện lên với những nét riêng của từng loài mà còn thể
hiện tâm trạng, tính cách, biết suy nghĩ, biết vui buồn giống như loài người. Chính sự
kết hợp nhuần nhuyễn khía cạnh tự nhiên và xã hội mà nhân vật truyện đồng thoại
mang một vẻ riêng, vừa phản ánh thế giới loài vật, vừa trở thành ẩn dụ về cuộc sống
con người.
Thứ ba, trong truyện loài vật, ngôn ngữ kể chuyện rất độc đáo, linh hoạt, chứng
tỏ người viết rất thuộc và rất yêu đối tượng khảo sát của mình. Miêu tả thế giới loài
vật, các nhà văn thường chọn cách kể tự nhiên, với ngôn ngữ của nhân vật chính tự kể
về cuộc đời mình bằng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất. Với tài năng kể chuyện thông
minh, thuyết phục, nhà văn tạo cho câu chuyện loài vật tính logic nhưng vẫn hài hòa tự
nhiên, thậm chí hóm hỉnh, hài hước. Những chuyện của đời thường lại không tẻ nhạt,
có sức chứa những ý tưởng mới mẻ và những triết lý hồn nhiên. Hầu hết những đoạn
kết của mỗi mẩu chuyện là một triết lý nhân sinh, nhưng người đọc không cảm thấy sự


17

áp đặt hay gượng ép của nhà văn. Và chính vậy, hiệu quả thẩm mỹ và giáo dục trong
mỗi truyện loài vật đã thành công.
Có thể nhận thấy, ngôn ngữ truyện loài vật được phong cách hoá, mang dấu ấn cá
nhân của từng tác giả. Nhiều biện pháp nhân hoá, so sánh, ẩn dụ… được huy động tạo
nên một hệ thống ngôn ngữ giàu hình tượng, giàu chất thơ. Mỗi tác phẩm đều mang
đậm dấu ấn phong cách của chính người sáng tạo ra chúng: ngôn ngữ Tô Hoài góc
cạnh, đầy bất ngờ; ngôn ngữ Võ Quảng tươi vui mà thâm trầm, triết lí; văn Trần Hoài

Dương mượt mà, bay bổng; văn Nguyễn Nhật Ánh đẹp, mộng mơ và giàu cảm xúc …
Mỗi người mỗi vẻ nhưng tất cả đều thể hiện được dụng công nghệ thuật và tài năng
sáng tạo độc đáo của mình. Những truyện loài vật thành công, hấp dẫn và lôi cuốn độc
giả đều được viết bằng bút pháp tươi vui, hóm hỉnh, giàu chất thơ.
Thế giới loài vật trong truyện rất đa dạng, được miêu tả theo một số nguyên tắc
nhân cách hóa, cách điệu hóa, kết hợp hài hòa các mặt tự nhiên và xã hội, lúc mang
những đặc điểm của con người, lúc lại pha cách nhìn của vật. Hai yếu tố ấy hòa quyện
vào nhau, tạo nên sự mới mẻ, lôi cuốn người đọc ở từng trang truyện. Tuy nhiên, khi
gán cho loài vật “những tình cảm của người, tác giả phải đồng thời chú ý đến đặc
điểm riêng về sinh hoạt của bản thân chúng. Hay nói cho đúng hơn, trước hết chúng
phải có những đặc điểm của vật rồi sau đó mới gán cho chúng đặc điểm của người, và
cả hai lại phải hài hòa với nhau” [26,tr.113]. Miêu tả đặc tính của mỗi con vật, nhà
văn thường chú ý đến quan niệm, cách đánh giá chung của nhân dân. Những con vật
vốn mang bản chất hung ác như cáo, sói đã trở thành quen thuộc trong cách nhìn của
nhân dân. Bên cạnh đó, nhà văn cũng có nhiều nghiên cứu, khám phá trong việc xây
dựng nhân vật dựa trên thói quen văn hóa của từng vùng, từng dân tộc. Chẳng
hạn,“con gấu ở phương Tây là tượng trưng cho sự trung thực thẳng thắn, còn ở ta thì
lại là con vật hỗn láo, tham lam. Con rồng ở ta là một con vật linh thiêng, còn ở
phương Tây là tượng trưng cho sự đanh ác, tàn bạo…” [26,tr.115].
Nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố nghệ thuật mà diện tích nghĩa của hình tượng
được mở rộng, người đọc không chỉ tiếp nhận bức tranh đời sống loài vật mà còn cảm
nhận được cuộc sống con người. Thế giới loài vật có khi được dệt nên từ tưởng tượng
qua nghệ thuật nhân cách hóa, nhưng tuyệt nhiên không xa rời bản chất cuộc sống.
Chính cuộc sống là cái nền, là hiện thực phong phú, giúp tưởng tượng của nhà văn cất


18

cánh, thăng hoa. Từ đó, nội dung mà truyện phản ánh càng trở nên phong phú, mở
rộng ở nhiều mặt.

1.2. Truyện loài vật trong sáng tác của Nguyễn Nhật Ánh
1.2.1. Sơ lược về tác giả Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh sinh ngày 07 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, tỉnh
Quảng Nam. Ngoài bút danh là tên thật, tác giả còn được biết đến với các bút danh
Anh Bồ Câu, Anh Cỏ Cú, Phan Chín, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương
Đông,... Tuổi thơ gắn bó với làng quê cùng những thăng trầm đã thổi hồn quê vào các
trang văn và tôi luyện nhà văn thành “con người biết vượt khó, có nghị lực, luôn yêu
đời”, “có niềm tin và cái nhìn trong trẻo với cuộc sống” [19,tr.108]. Bằng tâm hồn
trong trẻo, trí tưởng tượng phong phú và niềm tin bất diệt vào hạnh phúc con người,
Nguyễn Nhật Ánh đã đem đến cho độc giả những tác phẩm tràn đầy ánh sáng tình yêu
và sự tươi trẻ của tâm hồn.
Nổi bật ở Nguyễn Nhật Ánh là tính dí dỏm, hài hước, lạc quan. Tính hài hước bắt
nguồn từ thái độ sống lạc quan, nhẹ nhõm với cuộc đời: “Tôi quan niệm cuộc đời con
người vốn có lắm nỗi éo le, chẳng việc gì mình phải “bi kịch hóa” nó thêm lần nữa.
Nhìn mọi sự bằng con mắt hài hước, tôi cho rằng chúng ta sẽ thấy yêu đời hơn, vượt
qua những nghịch cảnh cũng dễ hơn”. Tính cách và quan niệm sống cho phép nhà văn
đưa được chất ngộ nghĩnh, dí dỏm vào các sáng tác cho trẻ em. Với một tâm hồn tươi
trẻ, dí dỏm, thông minh, hồn hậu cùng với tấm lòng yêu trẻ, tâm huyết với nghề,
Nguyễn Nhật Ánh trở thành nhà văn được nhiều thế hệ độc giả yêu thích, đặc biệt là
thanh thiếu niên.
Nguyễn Nhật Ánh thuộc số người viết có bút lực dồi dào vào bậc nhất ở Việt
Nam những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI. Khởi đầu bằng thơ ca với 5 tập thơ:
Thành phố tháng Tư (in chung với Lê Thị Kim, 1984), Đầu xuân ra sông giặt áo
(1986), Thơ tình Nguyễn Nhật Ánh (1988), Lễ hội của đêm đen (1994) và Tứ tuyệt cho
nàng (1994), trong đó nhiều bài thơ được phổ nhạc: Thành phố, tình yêu và nỗi nhớ;
Đầu xuân ra sông giặt áo; Như là cổ tích… Nhưng tâm huyết và tài năng văn học của
Nguyễn Nhật Ánh là ở những tác phẩm truyện viết cho trẻ em, ở mọi lứa tuổi. Những



×