Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.81 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI

BÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Hà Nội, 10/2020


MỤC LỤC
ĐỀ TÀI 1: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KÌ QUÁ ĐÔ LÊN
CHỦ NGHĨA XÃ HÔI Ở VIÊT NAM............................................................................5
1.LỜI MỞ ĐẦU............................................................................................................ 5
2.LÝ THUYẾT.............................................................................................................5
2.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.5
2.1.1.Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ:.............................5
2.1.2.Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ:.....6
2.1.2.1.Mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ
nghĩa Mác – Lênin:.........................................................................................6
2.1.2.2.Phải giữ vững độc lập dân tộc:...........................................................6
2.1.2.3.Phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước anh em:.............7
2.1.2.4.Xây phải đi đôi với chống:..................................................................7
2.2.Vận dụng............................................................................................................7
2.2.1.Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.............................................................................7
2.2.2.Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn
lực để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.................................8
2.2.3.Xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống các
trở lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội...........................................9
3.KẾT LUẬN................................................................................................................9
ĐỀ TÀI 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN TĂC,
PHƯƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TÔC TRONG GIAI ĐOẠN HIÊN NAY. 10
1. LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................................10


2. LÝ THUYẾT..........................................................................................................10
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết toàn dân
tộc............................................................................................................................ 10
2.1.1. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc...........................10
2.1.2.

Phương pháp xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc............................14

2.2. Vận dụng.........................................................................................................15
3.KẾT LUẬN..............................................................................................................18

2


ĐỀ TÀI 1: PHÂN TÍCH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỜI KÌ
QUÁ ĐÔ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HÔI Ở VIÊT NAM
1. LỜI MỞ ĐẦU.
Nói đến con đường đi lên CNXH một cách khoa học, hợp quy luật, thì phải đề cập tới
thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH. Theo đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một cuộc
đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài chứ “không thể một sớm một chiều”.
Bởi vì, “chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong
lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và
thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một
nước công nghiệp”. Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi
mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội.
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không ngừng và thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Ở
Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với đặc điểm to nhất là từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản

chủ nghĩa. Đặc điểm này chi phối tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm
từng bước xóa bỏ triệt để các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời từng
bước gây dựng các mầm mống cho chủ nghĩa xã hội phát triển, đó là một tất yếu.
Xã hội ngày càng biến đổi không ngừng, sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay đang đòi
hỏi lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cần phải được nghiên cứu, nhận thức sâu
sắc hơn, nhằm khẳng định những giá trị của nó, đồng thời bổ sung, phát triển cho phù
hợp.
Vì vậy nhóm em chọn đề tài “ Tư tưởng hồ chí minh về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu, thảo luận nhằm làm rõ những đặc điểm, tính chất
cũng như các nguyên tắc để thấy rõ vai trò và nhiệm vụ quan trọng của thời kì này trên
con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
2. LÝ THUYẾT
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
2.1.1. Tính chất, đặc điểm và nhiệm vụ của thời kỳ quá độ:
- Về tính chất, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thời kỳ cải biến xã
hội cũ thành xã hội mới – một xã hội hoàn toàn chưa từng có lịch sử dân tộc ta. Chúng ta
phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ hàng
ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp”. Tuy

3


nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã hội” thì không phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được
chủ nghĩa xã hội. Nếu nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng, thì
thời kỳ quá độ có thể rút ngắn hơn
- Về đặc điểm, Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã
hội, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Bước vào thời kỳ quá độ, Việt
Nam cũng có những đặc điểm giống như đặc điểm của các nước khác khi bước vào thời
này như sự tồn tại đan xen giữa các yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những yếu tố của xã
hội mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống; là giai đoạn đầu, khi các yếu tố của xã hội

cũ còn cụm lại thành một thế lực thì có khi nó còn chiến thắng những yếu tố của xã hội
mới vừa xuất hiện.
- Nhiệm vụ của thời kỳ quá độ là đấu tranh cải tạo, xoá bỏ tàn tích của chế độ xã hội cũ,
xây dựng các yếu tố mới phù hợp với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống. Trong đó, về chính trị phải xây dựng được chế độ dân chủ vì đây
là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Muốn xây dựng được chế độ này, theo Hồ Chí Minh
phải chống tất cả các biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, trước hết ở trong Đảng, trong bộ
máy chính quyền từ cấp cơ sở đến Trung ương. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng
sản xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở công nghiệp hoá xã hội
chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu thành phần
kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng
quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở
hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất. Về văn
hoá, phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc;
đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hoá dân tộc và hấp thụ những
cái mới của văn hoá tiến bộ trên thế giới để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính
chất dân tộc, khoa học và đại chúng. Về các quan hệ xã hội, phải thay đổi triệt để những
quan hệ cũ đã trở thành thói quen trong lối sống, nếp sống của con người; xây dựng được
một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi
ích cá nhân đúng đắn và đảm bảo cho nó được thoả mãn để mỗi người có điều kiện cải
thiện đời sống riêng của mình.
2.1.2. Một số nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ:
2.1.2.1. Mọi tư tưởng, hành động phải được thực hiện trên nền tảng chủ nghĩa Mác
– Lênin:
Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin là khoa học về cách mạng của quần
chúng bị áp bức và bóc lột; là khoa học về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở tất cả các
nước… nên theo Người, cuộc cách mạng mà giai cấp công nhân thực hiện chỉ có thể đạt

4



được thành tựu trên cơ sở trung thành sắt đá với những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác –
Lênin.
2.1.2.2. Phải giữ vững độc lập dân tộc:
Tự do cho đồng bào, độc lập cho Tổ quốc là mục đích của Hồ Chí Minh ra đi tìm đường
cứu nước. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Người đã khẳng định: “Toàn thể
dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng tính mạng và của cải để giữ
vững quyền tự do, độc lập ấy”. Độc lập dân tộc là mục tiêu trước hết của mỗi dân tộc; còn
đặt trong mối quan hệ với chủ nghĩa xã hội thì độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập
dân tộc trường tồn.
2.1.2.3. Phải đoàn kết, học tập kinh nghiệm của các nước anh em:
Xác định “Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của lực lượng hoà bình, dân chủ, xã hội
chủ nghĩa trên thế giới”, Hồ Chí Minh quan niệm: “Sự đoàn kết giữa lực lượng các nước
xã hội chủ nghĩa và sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và công nhân tất cả các
nước có ý nghĩa quan trọng bậc nhất”.
2.1.2.4. Xây phải đi đôi với chống:
Theo Hồ Chí Minh, muốn đạt được và giữ được thành quả của cách mạng thì cùng với
việc xây dựng các lĩnh vực của đời sống xã hội phải chống lại mọi hình thức của các thế
lực cản trở, phá hoại sự phát triển của cách mạng. Người căn dặn: “Đối với kẻ địch phải
luôn tỉnh táo, giữ vững lập trường, quyết không vì hoàn cảnh hoà bình mà mất cảnh giác.
Phải luôn sẵn sàng đập tan mọi âm mưu độc ác của kẻ địch, bảo vệ những thành quả của
cách mang, bảo vệ lao động hoà bình của nhân dân”. Phải chống lại “căn bệnh”: “Nghe
những lời bình luận không đúng cũng làm thinh, không biện bác… Ai nói sao, ai làm gì
cũng mặc kệ”.
2.2. Vận dụng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một di sản
vô giá của dân tộc, đó là cơ sở, nền tảng hình thành đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam suốt mấy thập kỷ qua.

Ngày nay, dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã đạt được
những thành tự quan trọng. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều những thử thách, khó khăn,
chính vì vậy để vượt qua những thử thách đó chúng ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh công
cuộc đổi mới tiến lên giành thắng lợi cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ

5


nghĩa, đồng thời cần quán triệt sâu sắc, kiên trì vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để giải
quyết tốt một số vấn đề sau:
2.2.1. Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Đi theo con đường chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất đúng của Hồ Chí Minh và
của Đảng, nhân dân ta. Sự lựa chọn đúng đắn đó được chứng minh bằng thực tiễn thắng
lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam mấy thập kỷ qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tại Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta chỉ rõ: Sự lựa chọn đó của Bác Hồ và của
Đảng ta là hoàn toàn phù hợp xu thế của thời đại, hợp quy luật phát triển của lịch sử nhân
loại, phản ánh sâu sắc nguyện vọng cao đẹp của nhân dân ta. Kiên trì con đường xã hội
chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: “Đảng
và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa
trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”
Hiện nay, trong bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, chủ nghĩa xã hội gặp phải những
khó khăn thách thức song nước ta vẫn kiên định đi theo con đường tiến lên chủ nghĩa xã
hội nhằm dành độc lập toàn phần cho dân tộc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Để làm
được điều đó đòi hỏi Đảng và nhân dân ta phải thường xuyên xây dựng bản lĩnh chính trị
vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , khảng định vai trò lãnh đạo cách mạng
của Đảng cộng sản Việt Nam; kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh , mưu
toan làm chệch hướng con đường xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

2.2.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ các nguồn lực để
thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
Ngày nay, để thực hiện đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước càng đòi hỏi
phát huy đầy đủ tài năng, trí tuệ và sức lao động sáng tạo của toàn dân. Để phát huy tốt
sức mạnh toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng đất nước, yêu cầu quan trọng hàng đầu là
phải xác lập quyền làm chủ của nhân dân trên thực tế, làm cho chế độ dân chủ được phát
huy cao độ trong mọi lĩnh vực của đời sống con người; phải đặc biệt chú trọng mở rộng
dân chủ ở cơ sở, làm cho dân chủ thực sự trở thành động lực của sự phát triển xã hội.
Luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc, phát huy khối đại đoàn kết dân tộc phấn
đấu vì mục tiêu “giữ vững độc lập, thống nhất, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh...”
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở theo phương châm “đa
phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế”. Đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng

6


nhằm hết sức tranh thủ những thành tựu của khoa học - công nghệ thế giới, tranh thủ sự
ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, thực hiện giữ vững môi trường hoà bình
ổn định và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2.2.3. Xây dựng Đảng, Nhà nước vững mạnh, kiên quyết đấu tranh chống các trở
lực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì
vậy, để thực hiện tốt nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hoá
- hiện đại hoá, Đảng luôn chú trọng nhiệm vụ then chốt là xây dựng chỉnh đốn Đảng
nhằm không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.
Hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đòi hỏi phải thường xuyên xây dựng Đảng
vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường bản chất giai cấp công nhân,
nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng. Chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh,
xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

Tiếp tục đổi mới phương pháp, phong cách lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối quan hệ
mật thiết giữa Đảng và dân....
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, thực sự là nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Phát huy vai trò toàn dân trong đấu tranh chống những hiện
tượng tham nhũng, quan liêu, lãng phí, lợi dụng chức quyền mưu cầu lợi ích cá nhân;
kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy chính quyền những người bị thoái hoá biến chất đồng thời
ngăn ngừa âm mư “ Diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa Đế quốc và các thế lực thù địch
đang mưu toan bôi nhọ, phủ nhận thành quả và con đường chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đồng thời giáo dục mọi tầng lớp nhân dân tham gia lao động sản xuất, sáng tạo, gắn liền
với thực hành tiết kiệm, xóa bỏ nghèo nàn, xây dựng đất nước phát triển , tiến bộ.
3. KẾT LUẬN
Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam đã thể hiện những nội
dung đặc sắc, trên cơ sở kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị của chủ nghĩa Mác Lênin vào đặc điểm, tình hình xã hội Việt Nam. Thực tiễn luôn vận động biến đổi và đang
đặt ra nhiều vấn đề mới, những nội dung tư tưởng về thời kỳ quá độ của Người vẫn giữ
nguyên giá trị, cần tiếp tục bổ sung, phát triển trong điều kiện mới.

7


ĐỀ TÀI 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGUYÊN
TĂC, PHƯƠNG PHÁP ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TÔC TRONG GIAI
ĐOẠN HIÊN NAY
1. LỜI MỞ ĐẦU.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất của
nhân loại, đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về
nhiều mặt. Trong đó tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị trường tồn đối
với quá trình phát triển của dân tộc. Đó là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong tư duy
lý luận và trong hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách
mạng của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc là nội dung mang tính chiến lược trong tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh, là tài sản trí tuệ vô giá mà Bác Hồ để lại cho chúng ta, một nội
dung trọng yếu của chủ đề Đại hội Đảng các cấp, là động lực phát triển đất nước.
Đại đoàn kết dân tộc là một giá trị tinh thần to lớn, một truyền thống cực kì quý báu của
dân tộc, được hun đúc trong suốt mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đoàn
kết đã trở thành một động lực to lớn, một triết lý nhân sinh và hành động để dân tộc ta
vượt qua bao biến cố, thăng trầm của thiên tai, địch họa, để tồn tại và phát triển bền vững.
Trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam và thực tiễn cách mạng thế giới đã sớm hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Với nhãn quan chính trị sắc bén, với tinh thần nhân văn cao cả, suốt cả cuộc đời, Hồ Chí
Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn kết dân
tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng và các cấp chính quyền, trong
các tầng lớp nhân dân, kể cả đồng bào Việt Nam ở xa Tổ quốc.
Giá trị to lớn của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc cho đến nay ngày càng thể hiện rõ vai trò
và giá trị to lớn của nó trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay. Đó là lí do mà nhóm
em chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại
đoàn kết dân tộc trong giai đoạn hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu, thảo luận.
2. LÝ THUYẾT
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết toàn dân tộc
2.1.1. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ
mọi con dân nước Việt. Song, đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát

8


của quần chúng, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức trên nền tảng khối liên
minh công – nông – trí do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến
lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực

lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử. Trên thực tế và theo Hồ Chí Minh,
đại đoàn kết không chỉ là tình cảm của “người trong một nước phải thương nhau cùng”
nữa, mà đã được xây dựng trên một cơ sở lý luận vững chắc.
- Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đại đoàn kết dân tộc là công nông,
cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ
rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công nông làm nền tảng, “vì họ là người trực tiếp sản xuất
tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết mà cũng bị áp bức bóc lột
nặng nề nhất. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp
khác”. Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công – nông,
cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công – nông mà không
thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng
lớp trí thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp trí thức rất quan trọng đói với
cách mạng. Người nói: “Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công – nông – trí
cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
- Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công – nông
luôn được người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt
trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí thức
càng được tăng cường; ngược lại, liên minh công nông trí càng được tăng cường, mặt
trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không một kẻ nào có thể
phá nổi.
- Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể được
củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với
mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho mặt trận tồn
tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn. Bởi vì, chỉ có chính đảng của giai cấp công
nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mac – Lênin mới đánh giá đúng được vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng
đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong mặt trận, biến tiến trình
cách mạng trở thành ngày hội của quần chúng. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định,
mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có mặt trận, Đảng

không có lực lượng, không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự
lãnh đạo của Đảng, mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng
hoạt động đúng đắn. Do vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một thành viên của mặt
trận dân tộc thống nhất, vừa là lực lượng lãnh đạo mặt trận.

9


- Để lãnh đạo mặt trận, Đảng phải có chính sách mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai
đoạn, từng thời ký cách mạng, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của đại đa số nhân
dân. Người viết: “Chính sách mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác mặt
trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”. Trong quá trình
lãnh đạo mặt trận, Đảng phải đi đúng đường lối quần chúng, không được quan liêu, mệnh
lệnh và gò ép các thành viên trong mặt trận; phải dùng phương pháp vận động, giáo dục,
thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự
giác, tự nguyện, tuyệt đối không được lấy quyền uy của mình để buộc các thành viên
khác trong mặt trận phải tuân theo. Nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt
trận, Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải thành thật lắng nghe ý kiến của người ngoài Đảng.
Cán bộ và đảng viên không được tự cao, tự đại, cho mình là tài giỏi hơn mọi người; trái
lại phải học hỏi điều hay, điều tốt của mọi người…phải tích cực và chủ động…làm việc
phải kiên nhẫn, phải thiết tha với công tác mặt trận. Cán bộ và đảng viên có quyết tâm
làm như thế thì công tác mặt trận nhất định sẽ có tiến bộ nhiều”.
Hai là phải xuất phát từ mục tiêu vì nước vì dân.
- Thành lập mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết nhân dân, song khối
đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về
mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh
đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận.
Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì
dù có kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể có được.
- Mục đích chung của mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể,

phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc
vào khối đại đoàn kết. Như vậy, độc lập, tự do là nguyên tắc bất di, bất dịch, là ngọn cờ
đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo
vào trong mặt trận. Vấn đề còn lại là ở việc phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc
bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên
hết. Bởi lẽ, lợi ích tối cao của dân tộc được bảo đảm thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận,
mỗi người mới được thực hiện.
- Trên cơ sở xác định lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp
nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam là Độc lập –
Tự do – Hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa
trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội…phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng
trong mỗi thời kỳ lịch sử.
Ba là phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày
càng rộng rãi và bền vững.

10


- Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao
gồm nhiều tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau. Do vậy, hoạt động của mặt
trận đều phải được đưa ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến
nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo mặt
trận, nhưng cũng là một thành viên của mặt trận. Do vậy, tất cả chủ trương, chính sách
của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước mặt trận, cùng với các thành viên
khác của mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và
thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã
vạch ra.
- Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp
công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích
chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt…Phải làm cho tất cả các thành

viên trong mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích
chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích riêng chính đáng phù hợp với lợi ích chung
của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù
hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thông qua lợi
ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối
quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Trong quá trình hoạt động, mặt trận cần quan
tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các thành
viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần
củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: “Đồng
tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng khối
đại đoàn kết, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào mặt trận dân tộc thống nhất.
Bốn là phải đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
- Là một tập hợp nhiều giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, bên cạnh những điểm
tương đồng, giữa các thành viên của Mặt trận vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn
bạc, hiệp thương dân chủ để thu hẹp những nhân tố khác biệt, cục bội, nhân lên những
nhân tố tích cực, nhân tố chung, đi đến thống nhất, đoàn kết. Để giải quyết vấn đề này,
một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung để
hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu
trang, đấu tranh để tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn mọi người cần
phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, đòng thời phải có tấm lòng nhân ái, khoan
dung, độ lượng, khắc phục thiên kiến, hẹp hòi, thiển cận, phải nêu cao tinh thần phê bình
và tự phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, nhằm củng cố và mở rộng
khối đoàn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất. Người viết: “Đoàn kết thực sự nghĩa là

11


mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa

đoàn kết vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và
phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội
thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”. Thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển mặt trận dân tộc
thống nhất, một mặt, Đảng ta luôn đấu tranh chống khuynh hướng cô độc, hẹp hòi, coi
nhẹ việc tranh thủ tất cả mọi lực lượng có thể tranh thủ được vào mặt trận; mặt khác, luôn
đề phòng và đấu tranh chống mọi biểu hiện của khuynh hướng đoàn kết một chiều, vô
nguyên tắc, đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức trong nội bộ mặt trận.
2.1.2. Phương pháp xây dựng đại đoàn kết toàn dân tộc
Một là, làm tốt công tác vận động quần chúng (Dân vận)
- Hồ Chí Minh với đoàn kết, đại đoàn kết như một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của
Đảng. Để thực hiện mục tiêu đó thì phải làm tốt công tác vận động quần chúng. Vận động
quần chúng để thu hút quần chính là để đoàn kết mọi người, tạo ra Động lực phát triển
kinh tế - xã hội và văn hoá.
- Theo Người, để phát huy đầy đủ vai trò, trí tuệ, khả năng to lớn của quần chúng nhân
dân trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng và
Nhà nước cũng như mọi cán bộ, đâng viên phải biết làm tốt công tác giáo dục, tuyên
truyền, hướng dẫn, giúp đỡ và vận động quần chúng nhân dân thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; phải giúp nhân dân hiểu đầy
đủ, sâu sắc về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của người công dân đối với Đảng, với
Tổ quốc và với dân tộc, từ đó họ tích cực, chủ động, tự giác phấn đấu và cống hiến cho
sự nghiệp cách mạng. Người dặn: "cần phải chịu khó tìm đủ cách giải thích cho họ hiểu
rằng những việc đó là vì ích lợi của họ mà phải làm". Theo Hồ Chí Minh mọi phương
pháp tiếp cận và vận động quần chúng đều phải phù hợp với tâm tư, nguy vọng của quần
chúng; đồng thời phải xuất phát từ thực tế trình độ dân trí và văn hoá, theo cả nghĩa rộng
và nghĩa hẹp, bao gồm cả phong tục, tập quán với từng địa phương, từng đối tượng của
nhân dân.
Hai là, thành lập đoàn thể, tổ chức quân chúng phù hợp với từng đối tượng để tập hợp
quần chúng.
- Theo Hồ Chí Minh, để tập quần chúng nhân dân một cách có hiệu quả, cần phải tổ chức

đoàn thể, tổ chức quần chúng. Đây là những tổ chức để tập hợp, dục, rèn luyện quần
chúng cho phù hợp từng giai cấp, dân tộc, tôn giáo, lat giới tính, vùng miền... như các tổ
chức: Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội phụ nữ... Các đoàn thể, tổ
chức quần chúng có nhiệm vụ giáo dục, động viên và phát huy tính tích cực của các tầng
lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn.

12


- Các đoàn thể, tổ chức quần chúng ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng nhiệm vụ tuyên
truyền, giáo dục, giác ngộ, vận động, tập hợp các tầng lớp dân tham gia cách mạng, đấu
tranh bảo vệ quyền và lợi ích của minh. Chính mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt
Nam, xây dựng và bảo vệ đất nước, chức, đoàn thể không ngừng lớn mạnh về số lượng,
hoạt động ngày càng hiệu quả, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của cách mạng, là hạt nhân
của khối đa kết toàn dân.
Ba là, các đoàn thể, tổ chức quần chúng được tập hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân
tộc thống nhất
- Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể, tổ chức quần chúng hợp thành Mặt trận dân tộc thống
nhất. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, càng chặt chẽ, thống nhất bao nhiêu thì
khối đại đoàn kết toàn dân tộc càng mạnh mẽ, càng bền vững bấy nhiêu. Các đoàn thể, tổ
chức quần chúng và Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi dây gắn kết Đảng với nhân dân.
Người khẳng định: "Những đoàn thể ấy là tổ chức của dan, phần đấu cho dân, bênh vực
quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”. Như vậy, bản chất của đoàn
thể nhân dân, các tổ chức quần chúng là tổ chức của dân, do đó vai trò của Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân là phải vận động quần chúng bao gồm các giai cấp, các tầng lớp
trong xã hội tham gia vào các tổ chức của mình. Công tác vận động quần chúng phải dựa
trên chiến lược: "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công!". Đối với các đòan thể, tổ chức quần chúng, Hồ Chí Minh cho rằng được tập
hợp và đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất, do vậy đều có sự chỉ đạo trong công
tác thu hút, tập hợp quần chúng tham gia sinh hoạt trong tổ chức của mình. Người chỉ rõ:

"Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn là một trong những lực lượng to lớn của cách mạng
Việt Nam... Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. Phải
đoàn kết các dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc. Phải đoàn kết chặt chẽ giữa
đồng bào lương và đồng bào các tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận ấm
no, xây dựng Tổ quốc".
2.2. Vận dụng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công phải có lực lượng cách mạng.
Muốn có lực lượng phải đoàn kết. Đoàn kết là có một lực lượng vô địch, cách mạng là
công việc chung của dân chúng chứ không phải là công việc của một vài người, vì thế,
phải đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài.
Với tinh thần nhân văn cao cả và nhãn quan chính trị sắc bén, suốt cả cuộc đời, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã không ngừng xây dựng, hoàn thiện một hệ thống quan điểm về đại đoàn
kết toàn dân tộc, tích cực truyền bá tư tưởng đoàn kết trong toàn Đảng, các cấp chính
quyền, trong các tầng lớp nhân dân. Trong các tác phẩm của mình, Bác có tới trên 400 bài

13


nói và bài viết về đoàn kết. Tư tưởng về đoàn kết của Người được thể hiện nổi bật là:
“Đoàn kết làm ra sức mạnh”; “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”; “Đoàn kết là
thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”; “… một điểm rất
quan trọng, cũng là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt:
Đó là đoàn kết”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại
thành công”.
- Về nguyên tắc đoàn kết dân tộc:
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số
nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của
cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Vì

vậy, khối đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng dựa trên nguyên tắc lấy lập trường giai cấp
công nhân để giải quyết hài hòa các mối quan hệ giai cấp - dân tộc. Nguyên tắc đại đoàn
kết toàn dân tộc:
Thứ nhất, tin vào dân, dựa vào dân vì lợi ích của dân để đoàn kết toàn dân, phát động
các phong trào thi đua yêu nước trong lao động, học tập, sản xuất và chiến đấu, bởi vì:
“Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.
Thứ hai, đoàn kết lâu dài, rộng rãi, chặt chẽ, tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo. Nhân dân
cần được vận động, giác ngộ, tự nguyện đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự
lãnh đạo của Đảng để “Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài.
Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng
nước nhà”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nói: “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng
phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Thứ ba, đoàn kết trên cơ sở hiệp thương, dân chủ, chân thành, thẳng thắn, thân ái; đoàn
kết gắn với đấu tranh, tự phê bình và phê bình. Vì “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích
phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình
trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”.
Thứ tư, đoàn kết trên cơ sở kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của
dân tộc. Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người, trân trọng “phần thiện”, dù
nhỏ nhất ở mỗi con người để tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: “Trong
mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng
dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ. Ta phải nhận rằng đã là con Lạc
cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm
đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có
đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”.

14



- Phương pháp để phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc:
Để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, trước hết, cần tuyên truyền, vận động
nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải đáp ứng đúng nguyện vọng, quyền lợi của nhân
dân và yêu cầu của thực tiễn cách mạng. Tuyên truyền, vận động phải phù hợp với từng
đối tượng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.
Tiếp theo, phải chăm lo xây dựng và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh. Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị phát huy sức mạnh đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đảng phải đề ra được đường lối đúng đắn. Trong Đảng phải đoàn
kết, thống nhất từ tư tưởng đến hành động; có kỷ luật, tự giác, nghiêm minh; thực hiện tốt
các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Mỗi đảng viên phải thật sự là người đày tớ thật
trung thành của nhân dân.
Đảng phải làm cho Nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân. Không ngừng cải cách bộ
máy hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật, Nhà nước quản lý bằng pháp luật. “Chế
độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ
trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự
Tổ quốc, phục vụ nhân dân”.
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là cầu nối gắn kết Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể phải có cương lĩnh, đường lối thiết thực, rõ ràng; hình
thức tổ chức phong phú, đa dạng, phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, các ngành, các
giới, các dân tộc, tôn giáo… để toàn dân tộc có thể tham gia xây dựng và thực hiện tốt
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng về đại đoàn kết dân
tộc, về công tác dân tộc, về tôn giáo, về người Việt Nam ở nước ngoài, từng bước được
thể chế hóa thành luật, pháp lệnh, chính sách và ngày càng thể hiện rõ tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết dân tộc. Nhiều cấp ủy đảng đã quan tâm hơn đến sự nghiệp đại
đoàn kết, đến công tác dân vận và công tác mặt trận, củng cố tổ chức và tăng cường cán
bộ, phương tiện và điều kiện cho công tác mặt trận. Chính quyền ở nhiều cấp, nhiều địa
phương đã thật sự có chuyển biến trong nhận thức và hành động về quan hệ với nhân dân.
Nhiều dự án về phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của Nhà nước được ban hành nhằm
chăm lo đời sống cho nhân dân đã thực hiện có kết quả. Quyền làm chủ của nhân dân

trong tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, xã hội được thể chế hóa, đã từng bước
được phát huy. Sự đổi mới hệ thống chính trị, việc tăng cường dân chủ hóa đời sống xã
hội, nhất là việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần quan trọng
vào việc động viên nhân dân và cán bộ hăng hái tham gia các sinh hoạt chính trị của đất
nước, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng
cố an ninh, quốc phòng. Đó là những nhân tố rất quan trọng, là động lực chủ yếu bảo đảm
sự ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy sự phát triển của đất nước.

15


Trong giai đoạn hiện nay, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
có tác dụng trực tiếp và quyết định đến kết quả xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội phải thực hiện tốt nhiệm vụ giám sát và
phản biện xã hội, để các chủ trương, chính sách sát cuộc sống, đáp ứng lợi ích của nhân
dân. Kiên trì thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, nhân nghĩa,
khoan dung, cùng nhau hợp sức xây dựng cho được một xã hội đồng thuận cao trên tinh
thần cởi mở, độ lượng, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định, phát triển toàn diện và bền vững
của đất nước.
3.KẾT LUẬN
Vận dụng nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp, nguyên tắc đại đoàn kết dân
tộc là nội dung tư tưởng, chính trị và giải pháp quan trọng trong công tác xây dựng Đảng
nhằm phát huy sức mạnh nội lực, tạo động lực cho công cuộc đổi mới đất nước của Đảng,
của dân tộc.
Nửa thế kỷ đã qua từ khi Bác đi xa, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn đồng hành cùng
Đảng, dân tộc và cách mạng Việt Nam, soi sáng, dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân đạt nhiều
thành tựu to lớn. Với tất cả lòng kính yêu và biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần
đẩy mạnh hơn nữa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người
nhằm tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là trách nhiệm của toàn

Đảng, toàn dân, toàn quân và của mỗi tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp, của
mỗi người dân chúng ta.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về chất so với thời kỳ đấu
tranh bảo vệ Tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm chí cũng đā khác rất nhiều so với 20
năm trước. Đại hội IX và X của Đảng ta đã xác định đại đoàn kết toàn dân tộc là một
động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước. Do vậy, các cán bộ phải quán triệt hơn nữa
quan điểm và bài học kinh nghiệm của Đảng và Bác Hồ về việc kết hợp quan điểm giai
cấp và phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ thực tiễn lịch sử chứng minh
rằng giữa giai cấp công nhân và đại đoàn kết dân tộc có quan hệ biện chứng, không hề
đối lập nhau: nếu là công nhân (và chỉ có công nhân thực sự) thì mới thực hiện được đại
đoàn kết toàn dân tộc. Đứng trên lập trường khác không thể đại đoàn kết toàn dân tộc
thực sự được. Ngược lại, thực hiện đại đoàn kết dân tộc chính là thực hiện quan điểm của
giai cấp công nhân, phù hợp với lợi ích của giai cấp công nhân. Theo quan điểm này, làm
thế nào tận dụng được hết tất cả tài năng không phân biệt giai cấp, nguồn gốc xuất thân,
là người Việt Nam trong nước hay người Việt Nam ở nước ngoài, chính là thể hiện quan
điểm giai cấp công nhân của Đảng ta. Lựa chọn cán bộ phải căn cứ chủ yếu vào nhận
thức và hành động thực tiễn của mỗi người chứng tỏ rằng đang phấn đấu cho độc lập dân

16


tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.

17


DANH MỤC THAM KHẢO
1. Lê Phú Bão (2014), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

2. Chuyên đề năm 2020 “Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đảng
và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh”, NXB Lý luận chính trị (2020)
3. PGS.TS. Nguyễn Thị Phương Hoa/Tạp chí Tuyên giáo (2020), Củng cố, phát triển
khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh

18



×