Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Bài giảng môn Bảo hiểm – Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 32 trang )

Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

BÀI 1

TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM THƯƠNG MẠI

Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, sinh viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
 Học đúng lịch trình của mơn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
 Đọc tài liệu: Giáo trình Bảo hiểm, PGS. TS. Nguyễn Văn Định chủ biên, NXB Đại
học KTQD.


Sinh viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua
email.

 Trang Web mơn học.
Nội dung
Bài 1 trình bày các vấn đề có tính ngun lý về bảo hiểm nói chung và bảo hiểm thương
mại nói riêng. Đây là bài dẫn nhập, trình bày các khái niệm và nguyên tắc cơ bản, quan
trọng trong bảo hiểm thương mại để hỗ trợ cho nghiên cứu, tìm hiểu các nghiệp vụ bảo
hiểm thương mại cụ thể ở bài tiếp theo. Trong bài sẽ tập trung vào:


Nguồn gốc của bảo hiểm thương mại;



Khái niệm và bản chất của bảo hiểm thương mại;





Các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động bảo hiểm thương mại;
Các loại bảo hiểm thương mại;

 Giới thiệu về ngành kinh doanh bảo hiểm.
Mục tiêu
Sau khi học xong bài này, sinh viên cần:


Hiểu được khái niệm về rủi ro và các loại rủi ro;



Nắm vững các biện pháp xử lý rủi ro của các cá nhân và tổ chức trong xã hội;




Hiểu được khái niệm và bản chất của bảo hiểm, bảo hiểm thương mại;
Hiểu và biết vận dụng các nguyên tắc cơ bản của bảo hiểm thương mại;



Nắm vững cách phân loại bảo hiểm thương mại theo các tiêu thức khác nhau;



Hiểu rõ các đặc điểm cơ bản trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự, và

bảo hiểm con người;
Hiểu biết về ngành kinh doanh bảo hiểm từ góc độ thị trường bảo hiểm và các thành tố
trong thị trường bảo hiểm như DNBH, sản phẩm bảo hiểm, khách hàng bảo hiểm;
Hiểu được các vấn đề quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm.




INS101_Bai1_v1.0013111228

1


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Tình huống dẫn nhập
Bảo hiểm tình u?
Dưới đây là các thơng tin trích xuất từ một bài báo trên VnExpress.net năm 2009 viết về Dịch
vụ bảo hiểm tình u của Cơng ty Marketting Mặt trời Việt – Sunvico:
Một số cựu sinh viên thế hệ 8X của Đại học Kinh tế Quốc dân đã đưa ra một ý tưởng táo bạo là
cung cấp "Dịch vụ bảo hiểm tình u":
 Khơng giống như các loại hình dịch vụ bảo hiểm rủi ro khác, "bảo hiểm tình u" khơng phải
là dịch vụ bồi thường cho các thành viên tham gia mà chỉ là nơi tiếp nhận tình cảm và nâng
niu giá trị cảm xúc cho các cặp tình nhân.
 Để tham gia dịch vụ bảo hiểm tình u, điều kiện đầu tiên là phải có người yêu. Phí cho dịch
vụ này vào khoảng 600.000 đồng đến 3 triệu đồng, tùy theo mức độ chắc chắn của tình cảm.
Người tham gia phải cung cấp đầy đủ các thông tin cơ bản như tên, tuổi, ảnh (riêng và chung
của hai người), địa chỉ, email, điện thoại... Ba gói dịch vụ tương ứng với giá trị và độ bền
chắc của tình yêu là 600.000 đồng, 1,2 triệu đồng và 3 triệu đồng. Mức phí chỉ đóng một lần
và duy nhất vào thời điểm ký hợp đồng.

 Trong một năm sẽ có một buổi để các đơi nhìn nhận, đánh giá lại tình cảm của mình. Các đơi
u nhau sẽ được:


Chăm sóc vào những ngày đặc biệt trong năm bằng thiệp mừng, hoa hồng. Áo đôi cho
ngày sinh nhật, chocolate và hoa hồng cho ngày Valentine;



Tham gia các bữa tiệc kỷ niệm ngày tình yêu;

Một chuyến du lịch hàng năm (trong nước hoặc nước ngoài) tương ứng với giá trị gói
hợp đồng...
Các dịch vụ chăm sóc này chỉ được dừng lại khi hai người yêu nhau tay trong tay đến nhận quà
tại công ty vào những ngày đặc biệt hoặc đã cưới nhau.
Đã có trên 50 cặp tình nhân đăng ký sử dụng dịch vụ bảo hiểm tình yêu của Sunvico với đủ mọi
lứa tuổi từ học sinh, sinh viên đến những người ra trường đi làm ở độ tuổi 25 – 28.


/>dich–vu–bao–hiem–tinh–yeu–2697386.html 28/3/2009

Liệu Sunvico có thể kinh doanh bảo hiểm tình u như trên hay khơng?
Tại sao?

2

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại


1.1.

Nguồn gốc của bảo hiểm thương mại

1.1.1.

Rủi ro và biện pháp xử lý rủi ro

1.1.1.1.

Khái niệm và phân loại rủi ro

Khái niệm rủi ro
Môi trường hoạt động và tồn tại của chúng ta luôn ẩn
chứa các biến cố, các sự kiện nằm ngồi dự kiến. Có
những sự kiện ngồi dự kiến mang lại những tốt đẹp,
thuận lợi cho cuộc sống con người. Tuy nhiên, có
khơng ít biến cố mà khơng ai mong muốn vì kết cục
đi kèm là các thiệt hại hay thương tổn mà con người
phải gánh chịu. Hiểu theo cách thơng thường, các
biến cố khơng mong đợi đó được gọi là rủi ro. Dù mức độ thiệt hại gánh chịu nặng
hay nhẹ, nhưng nhìn chung rủi ro thường khiến cho chúng ta lâm vào hồn cảnh khó
khăn hơn so với khi khơng có rủi ro.
Khi nghiên cứu về rủi ro, trong từng hồn cảnh, từ các góc độ khác nhau, rủi ro có thể
được diễn đạt cụ thể khác nhau. Chẳng hạn:
 Rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất;
 Rủi ro là một giá trị dự tính về một kết cục;
 Rủi ro là sự kết hợp các nguy cơ; hay
 Rủi ro là sự biến động xảy ra quanh một giá trị đã dự tính.

Có thể thấy có 2 quan điểm. Quan điểm thứ nhất coi rủi ro là sự kiện bất lợi, gắn với
việc có tổn thất. Quan điểm thứ hai hiểu rủi ro rộng hơn một chút, coi rủi ro sự chệch
ra khỏi kết quả dự kiến nào đó. Nếu hiểu rủi ro theo quan điểm thứ hai này thì “rủi ro”
khơng chỉ là mang lại kết cục bất lợi mà “giá trị thực tế chệch ra khỏi giá trị dự kiến
(hay kỳ vọng)” cũng có thể là tích cực. Theo các nhà bảo hiểm, rủi ro là sự cố không
may bất ngờ xảy ra gây thiệt hại về người hoặc tài sản.
Đặc điểm liên hệ rõ ràng nhất giữa các định nghĩa về rủi ro mà chúng ta vừa nhắc tới
là sự không chắc chắn, hay cịn gọi là tính bất định, của một biến cố nào đó.
 Khơng chắc chắn về khả năng xảy ra rủi ro. Khả năng xảy ra một rủi ro nào đó
được đo lường qua xác suất của nó. Khả năng một ngơi nhà nằm cạnh một xưởng
hóa chất bị cháy sẽ là một xác suất nào đó nằm từ 0 đến 1, tức là nằm trong dải từ
“không cháy” đến “cháy”.
 Không chắc chắn về thời điểm xảy ra rủi ro. Chẳng hạn, không thể chắc chắn được
chiếc ô tô để trong một khu sân vào ban đêm khơng có người trơng coi có bị mất
hay khơng và vào lúc nào.
 Không chắc chắn về mức độ của rủi ro. Mức độ rủi ro là sự kết hợp của tần suất
và tính khốc liệt của rủi ro. Sự kết hợp này được có thể biểu diễn như các đường
cong trong Hình 1.1. Mỗi một điểm trên đường kết hợp giữa tần suất và tính khốc
liệt của rủi ro thể hiện một kết cục có thể xảy ra của một biến cố. Rủi ro có thể xảy
ra với tần suất không đáng kể và mức độ thiệt hại không đáng kể (như ở những
điểm đầu của các đường kết hợp). Có những rủi ro xảy ra với tần suất thấp nhưng
INS101_Bai1_v1.0013111228

3


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

mức độ nghiêm trọng của tổn thất thì rất lớn và ngược lại, có những rủi ro có tần
suất cao nhưng mức độ nghiêm trọng lại khơng lớn.


Hình 1.1: Sự kết hợp giữa tần suất và tính khốc liệt của rủi ro

Phân biệt rủi ro, nguy cơ, hiểm họa để làm rõ khái niệm rủi ro:
 Rủi ro là từ chung để chỉ một biến cố gây ra tổn thất. Ví dụ, một ngơi nhà nằm
cạnh một xưởng hóa chất bị cháy và gây tổn thất cho chủ ngôi nhà.
 Hiểm họa (peril) là nguyên nhân chính gây tổn thất. Ở đây, “cháy” được coi là
hiểm họa.
 Nguy cơ (hazard) là (tập hợp) nhân tố ảnh hưởng đến tổn thất hậu quả. Bản thân
nguy cơ không phải là nguyên nhân gây tổn thất nhưng có thể làm tăng hoặc giảm
khả năng tổn thất khi hiểm họa xảy ra. Việc “nằm cạnh xưởng hóa chất” là một
nguy cơ gây ra rủi ro cháy xưởng hóa chất. Nguy cơ thường có nguy cơ vật chất và
nguy cơ đạo đức. Chẳng hạn, nguy cơ đối với một tổn thất do cháy nhà có thể liên
quan đến kết cấu ngôi nhà (nguy cơ vật chất), nhưng cũng có thể là nguy cơ liên
quan đến ý thức trách nhiệm của chủ nhà trong việc lắp hệ thống phun nước tự
động phòng chống cháy (nguy cơ đạo đức).
Phân loại rủi ro
 Căn cứ vào vào khả năng kiếm lời trong kết cục của rủi ro: rủi ro thuần và rủi ro
đầu cơ1
o Rủi ro thuần túy chỉ liên quan đến hoặc có tổn thất hoặc khơng bị tổn thất. Ví
dụ một người nào đó có thể bị tàn tật, và vì thế người đó có thể phải bỏ ra các
khoản chi phí y tế phát sinh và chịu các tổn thất về thu nhập do không thể làm
việc được nữa. Ngược lại, nếu khơng bị tàn tật thì sẽ khơng bị tổn thất do rủi ro
đó gây ra.
o Rủi ro đầu cơ liên quan đến 3 kết cục có thể xảy ra: tổn thất, có lãi hoặc khơng
thay đổi. Ví dụ: rủi ro từ việc mua cổ phiếu là rủi ro đầu cơ. Ở đây, rủi ro đầu
cơ vì người mua cổ phiếu có thể lời, lỗ hoặc không bị mất tiền nhưng cũng
chẳng kiếm được khoản lời nào từ việc mua cổ phiếu đó.

1


4

Một số tài liệu dịch sang tiếng Việt sử dụng thuật ngữ rủi ro suy đoán thay cho thuật ngữ rủi ro đầu cơ.
INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

 Căn cứ vào việc đo lường hậu quả của rủi ro: rủi ro tài chính và rủi ro phi tài chính
o Rủi ro tài chính là rủi ro mà có thể xác định hậu quả bằng tiền hoặc quy được
thành tiền.
o Rủi ro phi tài chính là những rủi ro mà kết cục/hậu quả khơng đo lường theo
thước đo tài chính mà theo các tiêu chí liên quan đến tâm sinh lý con người.
Chẳng hạn, việc vào ăn một nhà hàng mới khai trương được coi là tình huống
có yếu tố rủi ro. Và rủi ro ở đây là cảm giác bực bội khó chịu về phong cách
phục vụ của một nhà hàng mới chưa chuyên nghiệp mà nhẽ ra có được nếu
trước đó đi vào một nhà hàng ngon quen thuộc.
 Căn cứ vào cả nguyên nhân và hậu quả của rủi ro: rủi ro cơ bản và rủi ro riêng biệt
o Rủi ro cơ bản là những rủi ro phát sinh từ
những ngun nhân nằm ngồi tầm kiểm
sốt của con người và gây ảnh hưởng đến số
đơng người. Nhìn chung, nguyên nhân dẫn
đến các rủi ro cơ bản thường do thiên nhiên.
Ví dụ như, động đất, hạn hán, bão lụt,…Một
số loại rủi ro cơ bản do các biến động trong
mơi trường kinh tế – chính trị – xã hội. Ví dụ như thất nghiệp,…
o Rủi ro riêng biệt có nguyên nhân và hậu quả mang tính cá nhân của một người
hay một tổ chức. Trong một cộng đồng hẹp, rủi ro riêng biệt có thể xảy ra đối
với người này mà không xảy ra với người kia. Các rủi ro như tai nạn giao

thông hay tai nạn lao động là những ví dụ điển hình về rủi ro riêng biệt.
1.1.1.2.

Các biện pháp xử lý rủi ro

Rủi ro có thể xảy ra với bất kỳ ai, bất kỳ đâu và bất kỳ lúc nào. Cuộc sống con người
luôn đối mặt với các biến cố bất ngờ gây tổn thất khôn lường và nhiều mặt. Các tổn
thất có thể là những mất mát, thiệt hại về tài chính như nhà cửa bị phá hủy; tài sản bị
mất; phải bỏ ra một khoản tiền ngồi dự tính để trang trải cho các chi phí y tế do ốm
đau, tai nạn; hoặc đơn giản là một khoản tiền buộc phải bỏ ra để đền bù tổn thất của
người khác do lỗi của mình gây nên. Các tổn thất có lúc khơng thể đong đếm được
bằng tiền nhưng gây ra rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Đó là các tổn thất về tinh
thần, tổn thất về mặt xã hội như sự chia lìa tình cảm gia đình, đơi lứa; những mất mát
về niềm tin;… Bởi vậy, tìm ra các biện pháp để đối phó với rủi ro, hay bao trùm hơn
là để xử lý các rủi ro luôn được đặt ra trong bất kỳ xã hội nào. Đối với các doanh
nghiệp, trong một nền kinh tế thị trường và có tính tồn cầu, nhận thức và xác định
các biện pháp quản lý rủi ro thích hợp là yếu tố then chốt để quản lý vốn một cách có
hiệu quả và đạt được thành cơng.
Từ góc độ quản trị rủi ro, có thể phân loại các biện pháp xử lý rủi ro theo một số tiêu
thức khác nhau. Dựa vào mục đích, các biện pháp xử lý rủi ro có thể xếp thành nhóm
biện pháp kiểm sốt rủi ro và nhóm biện pháp tài trợ rủi ro. Nếu nhóm thứ nhất tập
trung vào kết quả xử lý rủi ro là ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro tổn
thất (như tránh né rủi ro, đề phịng hạn chế rủi ro) thì nhóm thứ hai chủ yếu thực hiện
để giải quyết, khắc phục hậu quả của rủi ro, nhất là các hậu quả tính được thành tiền

INS101_Bai1_v1.0013111228

5



Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

(ví dụ như như chấp nhận rủi ro và bảo hiểm). Tuy nhiên, cách phân loại này cũng có
tính tương đối. Vì thực tế, trong biện pháp bảo hiểm, các biện pháp đề phịng hạn chế
rủi ro tổn thất ln được thực hiện lồng ghép để biện pháp bảo hiểm có hiệu quả hơn.
Một cách phân loại khác là dựa vào phương thức thực hiện biện pháp xử lý rủi ro, theo
đó có các biện pháp khơng thực hiện chuyển giao rủi ro, ví dụ như tiết kiệm, né tránh
rủi ro, đề phịng hạn chế tổn thất; và có các biện pháp thực hiện qua cơ chế chuyển
giao rủi ro như bảo hiểm, ….
Tránh né rủi ro
Là biện pháp nhằm loại trừ các cơ hội có thể dẫn đến
tổn thất, khơng tham gia vào các hoạt động có thể gây
ra tổn thất. Chẳng hạn, để tránh dịch bệnh đậu mùa, rất
nhiều người lựa chọn bỏ quê hương bản quán để đến
vùng khác, tránh dịch bệnh có thể lây sang mình.
Tuy nhiên, rủi ro xảy ra nhiều khi khơng do hoạt động
của chính bản thân con người mà do tác động ngẫu
nhiên bên ngồi, và trong cuộc sống khơng phải bao
giờ cũng né tránh được rủi ro. Hơn thế nữa, nhiều hoạt
động trong đời sống có rủi ro nhưng cũng gắn liền với
các lợi ích. Do đó, né tránh rủi ro bằng cách khơng
tham gia vào hoạt động đó khơng phải là lựa chọn
mong muốn.
Đề phòng hạn chế tổn thất
Đề phòng hạn chế tổn thất là sự kết hợp hai hoạt động gồm là phòng ngừa rủi ro và
giảm thiểu tổn thất.
 Phòng ngừa rủi ro là biện pháp đưa ra các hành động nhằm làm giảm tần suất
xảy ra rủi ro gây tổn thất hoặc trong chừng mực có thể, nhằm triệt tiêu khả năng
xảy ra rủi ro. Ví dụ như trang bị và diễn tập phòng cháy chữa cháy, tập dượt cứu
hộ, dựng các biển báo nguy hiểm, tổ chức các khố học về an tồn lao động, tun

truyền an tồn giao thông,...
 Giảm thiểu tổn thất là biện pháp kiểm soát tổn thất bằng cách làm giảm/hạn chế
giá trị thiệt hại nếu rủi ro xảy ra, nói cách khác là nhằm giảm mức độ thiệt hại có
thể phải gánh chịu (tính khốc liệt). Chẳng hạn, các biện pháp cứu các tài sản cịn
có giá trị khi có hoả hoạn xảy ra; đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu
và điều trị; lắp thêm các túi khí trong ơ tơ;...
Nếu xem xét đến khía cạnh thời gian thì một biện pháp kiểm sốt tổn thất có thể là
hoạt động được thực hiện trước khi có tổn thất xảy ra; có thể là hoạt động đồng thời
khi có tổn thất; hoặc là hoạt động được thực hiện sau khi tổn thất đã xảy ra. Các hoạt
động phòng ngừa rủi ro và một vài hoạt động giảm thiểu tổn thất (chẳng hạn như việc
lắp các túi khí trong xe ơ tơ) là hoạt động trước khi có tổn thất. Hoạt động tự động
phun nước của hệ thống sprinkler khi có dấu hiệu hỏa hoạn trong một tòa nhà là hoạt
động kiểm soát tổn thất thực hiện cùng lúc với thời điểm xảy ra rủi ro. Hệ thống này
khơng thể kích hoạt trước hay sau khi cháy. Các hoạt động có mục đích chính là giảm
thiểu tổn thất thường là các hoạt động thực hiện cùng hoặc sau khi có tổn thất xảy ra.
6

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Có thể thấy, các biện pháp kiểm sốt rủi ro mang tính chủ động và có tác động rất tốt
trong việc ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro tổn thất. Nhưng thực tế, rủi ro vẫn luôn
xảy ra dù đã thực hiện các biện pháp né tránh hay phòng ngừa. Và khi rủi ro đã xảy ra,
con người vẫn không thể lường hết được hậu quả do rủi ro gây ra. Một vấn đề nữa
được đặt ra ở đây là cần phải chi bao nhiêu cho việc thực hiện các biện pháp đề phòng
hạn chế tổn thất. Đối với một số rủi ro, khoản chi này là không nhiều so với lợi ích
đáng kể từ việc giảm thiểu được khả năng tổn thất. Nhưng đơi khi, chi phí cho việc
thực hiện các hoạt động này khơng nằm trong khả năng tài chính của một người hay

một doanh nghiệp. Lúc này việc bỏ ra một khoản tiền để đề phòng hạn chế tổn thất có
thể xảy ra lại khơng phải là một quyết định đúng đắn.
Chấp nhận rủi ro
Chấp nhận rủi ro còn được gọi là giữ lại rủi ro.
 Chấp nhận rủi ro thụ động là cách quản lý rủi ro gắn liền với thái độ khơng có
sự chuẩn bị trước hoặc chuẩn bị không đầy đủ cho việc khắc phục hậu quả rủi ro.
Nhìn chung, thái độ này có thể là do chủ thể gặp rủi ro có nhận thức rất hạn chế về
rủi ro và quản trị rủi ro; hoặc có thể do khả năng tài chính khơng đủ để thực hiện
các biện pháp khác tốt hơn. Chấp nhận rủi ro thụ động thường thể hiện qua việc
tham gia cách có ý thức vào một hoạt động nhưng khơng nhận thức được hoạt
động đó có thể gặp rủi ro; hoặc tin tưởng một cách thiếu hiểu biết là hoạt động đó
khơng có rủi ro; hoặc đơi khi có nhận thức được rủi ro từ hoạt động nhưng lại đánh
giá quá thấp mức độ tổn thất có thể đối mặt.
Ví dụ: Công ty dược phẩm A sản xuất ra một
loại thuốc và cũng nhận thấy rằng họ có thể đối
mặt với rủi ro phải bồi thường cho những bệnh
nhân dùng loại thuốc này do tác dụng phụ quá
mức so với cảnh báo. Tuy nhiên, họ lại đánh giá
là số trường hợp khiếu kiện trách nhiệm sẽ
khơng nhiều và dự tính mức tổn thất phải bồi
thường cho những bệnh nhân khiếu kiện là khơng đáng kể. Do đó, khi mua bảo
hiểm trách nhiệm sản phẩm họ chỉ mua với mức phí tương ứng với mức tổn thất
trách nhiệm mà họ dự tính phải đền bù. Khi xảy ra khiếu kiện về trách nhiệm sản
phẩm, mức phán quyết bồi thường của tòa án lớn hơn nhiều so với mức mà công ty
dược phẩm này đánh giá. Công ty bảo hiểm chỉ đảm nhận bồi thường tương ứng
với phần tổn thất trách nhiệm mà cơng ty dược này đã ước tính và mua bảo hiểm.
Cịn phần vượt q chính là phần rủi ro mà họ giữ lại một cách thụ động vì khơng
chuẩn bị ngân quỹ để bổi thường cho các tổn thất trách nhiệm vượt quá này.
Khi chấp nhận rủi ro thụ động, cách tài trợ tổn thất thường thấy là dựa vào cứu trợ,
giúp đỡ tài chính hoặc đi vay mượn. Đối với các doanh nghiệp, đơi khi họ lấy từ

chính doanh thu hiện tại để bù đắp cho tổn thất giữ lại thụ động và sẽ làm giảm lợi
nhuận trong năm có tổn thất.
Chấp nhận rủi ro một cách thụ động rõ ràng không phải là biện pháp tốt ngay từ
bản chất “thụ động” của nó. Một khi tổn thất đã xảy ra thì người gánh chịu tổn thất
cần có ngay một khoản tiền để bù đắp và khắc phục khó khăn tài chính, và thậm

INS101_Bai1_v1.0013111228

7


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

chí để hạn chế được các tổn thất có thể phát sinh thêm. Song, việc đi vay mượn
hay chờ nhận cứu trợ khó có thể đáp ứng được điều này. Hơn thế nữa, các khoản
tiền đi vay mượn hay nhận được từ cứu trợ trong nhiều trường hợp không thể trang
trải, bù đắp được cho tổn thất phải gánh chịu. Bởi vì, vay mượn, theo một cách nào
đó được coi là chuyển giao rủi ro từ một người sang một người khác hoặc sang
một nhóm nhỏ chưa đủ đảm bảo số lớn. Cịn cứu trợ chỉ là nguồn tài chính được
huy động dựa vào sự hảo tâm của người khác nên khoản tiền có được có đủ bù đắp
tổn thất mà một người phải gánh chịu hay không là không chắc chắn.
 Chấp nhận rủi ro chủ động là trường hợp nhận thức được rủi ro có thể xảy ra
nhưng chấp nhận tham gia vào hoạt động, mơi trường có thể gặp rủi ro và có kế
hoạch khắc phục hậu quả khi tổn thất xảy ra. Các biện pháp chấp nhận rủi ro một
cách chủ động có thể kể đến là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình; lập quỹ dự trữ
dự phòng của các tổ chức, các doanh nghiệp; lập công ty bảo hiểm nội bộ; tự bảo
hiểm; lập hội chung để cùng gánh chịu rủi ro. Các biện pháp này được đánh giá
cao hơn nhiều so với chấp nhận rủi ro thụ động. Tuy nhiên, khi sử dụng các biện
pháp này, nguồn vốn bị coi là không được sử dụng một cách tối ưu; các quĩ tự lập
có thể không đảm bảo đủ để bù đắp thiệt hại có thể phải gánh chịu.

Chuyển giao rủi ro khơng qua bảo hiểm
Sự hình thành của các cơng cụ tài chính phái sinh
đã cung cấp cho nền kinh tế thêm các biện pháp để
quản lý rủi ro, về cơ bản thường có: các hợp đồng
giao sau, các hốn đổi lãi suất, và các quyền chọn.
Các cơng cụ tài chính phái sinh là biện pháp chuyển
giao rủi ro phi bảo hiểm, được dùng để đầu tư tự
bảo vệ (hedging) trước các rủi ro liên quan đến các thay đổi bất lợi có thể có về giá
một mặt hàng nào đấy. Thường những doanh nghiệp hay cá nhân có các giao dịch
thương mại có thể lo ngại có những biến động giá liên quan đến mặt hàng mà họ
muốn mua/bán vào một thời điểm nào đó trong tương lai. Những người này cần sử
dụng các công cụ phái sinh để chốt mức giá mà họ mong muốn và tin là tốt nhất cho
việc mua/bán của họ so với mức giá trên thị trường hàng hóa đó trong tương lai. Tuy
nhiên, các biện pháp này chỉ phù hợp ở những thị trường tài chính phát triển.
Ví dụ, về việc chuyển giao rủi ro bằng một hợp đồng giao sau (là các thỏa thuận buộc
người chủ hợp đồng này phải mua hay bán tài sản ở mức giá cụ thể vào một thời điểm
cụ thể trong tương lai): Vào đầu năm, một người nông dân bán lúa theo một hợp đồng
giao sau với mức giá chốt là 5,2 triệu đồng/tấn vì sợ rằng thời gian tới giá lúa có thể
giảm. Hợp đồng này thỏa thuận sẽ giao bán lúa vào khoảng tháng 9 cho một công ty
nông sản. Nếu vào tháng 9, giá lúa thực tế trên thị trường là 4,8 triệu đồng/tấn thì
hợp đồng mua bán nông sản này vẫn thực hiện với mức giá là 5,2 triệu đồng/tấn. Như
vậy, với hợp đồng giao sau, người nông dân này đã chuyển rủi ro qua cho công ty
nông sản.
Bảo hiểm
Bảo hiểm là biện pháp chuyển giao rủi ro dựa vào lý thuyết tương hỗ và lý thuyết
phân tán rủi ro. Về mặt kỹ thuật, bảo hiểm được hiểu là một hoạt động (hay một cơ
8

INS101_Bai1_v1.0013111228



Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

chế) qua đó nhiều người có mong muốn nhu cầu được bảo vệ trước cùng một rủi ro,
một nguy cơ nào đó đã đóng góp lập nên một quỹ chung để từ quỹ chung này bù đắp
tổn thất do rủi ro gây ra cho một hoặc một số ít thành viên trong cộng đồng những
người đã đóng góp. Theo cơ chế này, tổn thất của một hoặc một số thành viên đã được
dàn mỏng cho số đông tất cả các thành viên trong cộng đồng. Như vậy, dựa trên cơ sở
số lớn, rủi ro đã được chuyển giao và phân tán, việc gánh chịu thiệt hại đối với một
hoặc một vài cá nhân trở nên dễ dàng hơn, việc khắc phục hậu quả tổn thất do rủi ro
gây ra bởi vậy cũng nhanh chóng và tốt hơn.
Đặc điểm (kỹ thuật) phân tán rủi ro cho số đông người cùng gánh chịu làm cho bảo
hiểm thể hiện được tính ưu việt nổi trội hơn so với các biện pháp quản lý rủi ro khác
đã bàn luận ở trên. Thêm vào đó, thực tiễn cho thấy các tổ chức bảo hiểm luôn thực
hiện lồng ghép cả biện pháp đề phòng hạn chế rủi ro trong quá trình cung cấp dịch vụ
bảo hiểm cho các cá nhân và tổ chức khác trong nền kinh tế. Lúc này, đề phòng hạn
chế rủi ro tổn thất vừa mang tính khuyến khích vừa mang tính bắt buộc đối với những
người tham gia bảo hiểm, giúp cho các tổ chức bảo hiểm quản lý rủi ro mà họ đã nhận
bảo hiểm một cách có hiệu quả hơn. (Xem thêm vai trò đề phòng hạn chế rủi ro của
bảo hiểm ở Chương 1). Lợi ích “hai trong một” này của bảo hiểm càng làm rõ thêm vị
trí và tầm quan trọng của bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội. Cho đến nay, bảo
hiểm vẫn luôn được coi là lựa chọn tối ưu trong tập hợp các biện pháp quản lý rủi ro
đối với các cá nhân, các tổ chức trong nền kinh tế.
Lĩnh vực bảo hiểm trong nền kinh tế bao gồm hai lĩnh vực (mảng) nhỏ, đó là bảo hiểm
xã hội (BHXH) và bảo hiểm thương mại (BHTM). Phân biệt một cách đơn giản,
BHXH là bảo hiểm do nhà nước cung cấp, nhằm bảo vệ cho người lao động và gia
đình họ trước các biến cố gây mất/giảm thu nhập theo lao động. Các biến cố này là
thất nghiệp, ốm đau, thai sản, tuổi già, tử vong, tàn tật, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp,… Trong khi đó, BHTM là các hoạt động bảo hiểm do các doanh nghiệp thực
hiện, theo cơ chế thị trường, cung cấp sự bảo đảm bồi thường hay chi trả một khoản

tiền nhằm khắc phục, ổn định tài chính cho các cá nhân và tổ chức có nhu cầu được
bảo vệ trong xã hội.
1.1.2.

Bản chất và vai trò của bảo hiểm thương mại

1.1.2.1.

Khái niệm và bản chất của bảo hiểm thương mại

Có thể tiếp cận khái niệm BHTM từ nhiều góc độ
khác nhau dựa trên khái niệm về bảo hiểm. Tuy
vậy, để nhìn nhận BHTM đúng như một hoạt động
kinh doanh gắn với việc lựa chọn quản lý rủi ro của
các cá nhân và tổ chức trong xã hội, chúng ta có thể
hiểu bảo hiểm thương mại là hoạt động theo
nguyên tắc số đơng bù số ít qua đó người bảo hiểm
cam kết bồi thường/chi trả bảo hiểm cho bên được
bảo hiểm khi có sự kiện được bảo hiểm xảy ra với điều kiện bên được bảo hiểm cam
kết trả một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.

INS101_Bai1_v1.0013111228

9


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Theo cách hiểu này, BHTM là một cam kết giữa hai bên trên cơ sở hợp đồng (hợp
đồng bảo hiểm) giữa bên bảo hiểm và bên được bảo hiểm. Bên bảo hiểm (hay cịn gọi

là người bảo hiểm) có thể là một DNBH hoặc một hội tương hỗ bảo hiểm – là người
cung cấp sự bảo đảm sẽ chi trả/ bồi thường nếu sự kiện (hay rủi ro) được bảo hiểm
xảy ra gây tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Bên được bảo hiểm là bên nhận được
sự bảo đảm từ người bảo hiểm và đổi lại phải đóng phí bảo hiểm. Đây là một khái
niệm chung để chỉ đối tác của người bảo hiểm trong cam kết bảo hiểm. Thực chất, sẽ
có ba chủ thể hiện diện khi nói đến bên được bảo hiểm, đó là người tham gia bảo
hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
 Người tham gia bảo hiểm là tổ chức hoặc cá nhân tham gia ký kết hợp đồng bảo
hiểm với người bảo hiểm, chịu trách nhiệm khai báo rủi ro và đóng phí bảo hiểm.
 Người được bảo hiểm là tổ chức hoặc cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự, hoặc
tính mạng, tình trạng sức khỏe được bảo đảm trong hợp đồng bảo hiểm.
 Người thụ hưởng (quyền lợi bảo hiểm) là tổ chức hoặc cá nhân được chỉ định
trong hợp đồng bảo hiểm sẽ được nhận tiền bồi thường/chi trả từ người bảo hiểm
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Cam kết bảo hiểm được thực hiện dựa trên ngun
tắc số đơng bù số ít, nghĩa là việc bồi thường/chi trả
của người bảo hiểm phải dựa vào một quỹ tài chính
được hình thành từ các khoản phí bảo hiểm đã được
nộp (quỹ bảo hiểm) bởi rất nhiều người tham gia
bảo hiểm.
Bản chất kinh tế của BHTM là quá trình phân phối
lại thu nhập giữa những người tham gia bảo hiểm nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người được bảo hiểm.
Phân phối thu nhập trong BHTM thường là phân phối khơng mang tính bồi hồn. Dù
có tham gia đóng góp nhưng nếu khơng thoả mãn các điều kiện để được bồi thường
hay chi trả thì sẽ hoạt động phân phối khơng diễn ra (khơng có sự bồi hồn đối với các
khoản đã đóng góp). Tuy vậy, vẫn có ngoại lệ với các bảo hiểm nhân thọ mang tính
tiết kiệm.
1.1.2.2.


Vai trị của bảo hiểm thương mại

Sự ra đời và phát triển của BHTM ngày càng cho thấy rõ vai trị kinh tế xã hội
vơ cùng to lớn mà hoạt động này mang lại cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức và cho toàn
xã hội.
 Góp phần ổn định tài chính cho người tham gia bảo hiểm, từ đó ổn dịnh đời sống
và hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc bồi thường chi trả đúng lúc, đúng mức cho
bên được bảo hiểm khi không may gặp rủi ro đã giúp cho họ khắc phục được hậu
quả rủi ro một cách nhanh chóng và hiệu quả. Bồi thường/chi trả bảo hiểm giúp
cho bên được bảo hiểm có thể bảo tồn vốn và tiếp tục hoạt động sản xuất kinh
doanh; giúp người được bảo hiểm hồi phục sức khoẻ và khả năng lao động; …
 Góp phần đề phòng, hạn chế tổn thất, giúp cho cuộc sống con người an toàn hơn,
xã hội trật tự hơn, giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân, mỗi tổ chức. Vai trò này thể
10

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

hiện rõ qua việc các DNBH thực hiện đề phòng hạn chế tổn thất (ví dụ như hỗ trợ
tài chính cho mở đường lánh nạn, phối hợp mở các đợt hội thao PCCC, tham gia
công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ thuỷ thủ, thuyền viên...) đồng thời có
các khuyến khích đối với người tham gia bảo hiểm để họ chủ động tích cực thực
hiện đề phịng hạn chế tổn thất (ví dụ như việc sử dụng các khuyến khích tài chính
qua phí bảo hiểm, qua các quà tặng các khác hàng không gặp rủi ro trong những
năm tham gia bảo hiểm).
 Góp phần ổn định chi tiêu của ngân sách Nhà nước qua cơ chế tăng tích luỹ và tiết
kiệm chi cho ngân sách Nhà nước.
o


Tăng tích luỹ. Hàng năm các công ty bảo hiểm đều phải thực hiện nghĩa vụ
đóng thuế với Nhà nước.

o

Tiết kiệm chi. Khi có rủi ro bất thường xảy ra gây thiệt hại lớn, trên diện rộng
cho con người và tài sản thì đã có quĩ bảo hiểm sẵn sàng chi trả. Điều này giúp
cho ngân sách Nhà nước đỡ bị động với những khoản chi lớn bất thường để
khắc phục thiệt hại nhưng lại gây ảnh hưởng đến kế hoạch chi hàng năm. Ví dụ
như Nhà nước sẽ khơng phải chi (hoặc chi ít) các khoản hỗ trợ nông nghiệp sau
nhưng cơn bão, lũ lụt lớn gây thiệt hại diện rộng và sâu sắc cho người dân nông
thôn nếu như bảo hiểm nông nghiệp được triển khai có hiệu quả.

 Góp phần phát triển thị trường tài chính, phát
triển sản xuất ở các lĩnh vực khác của nền kinh
tế. Hoạt động bảo hiểm đã huy động được một
lượng tiền vốn rất lớn vẫn nằm rải rác, phân tán
trong dân cư. Số tiền này trong thời gian tạm
thời “nhàn rỗi” sẽ được đem đầu tư. Có thể nói,
quĩ bảo hiểm đã cung cấp một nguồn vốn đáng
kể cho hoạt động đầu tư trong nền kinh tế.
 Góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp, cả thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp
trá hình. Đặc trưng kinh doanh của ngành bảo hiểm gắn với việc phân phối các sản
phẩm bảo hiểm qua các kênh trung gian như đại lý, môi giới. Với việc tuyển dụng
các đại lý bảo hiểm, đặc biệt là các đại lý cá nhân, để đưa sản phẩm bảo hiểm đến
tay khách hàng, bảo hiểm đã tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động trong
nền kinh tế.
Tóm lại, với một giá khiêm tốn (phí bảo hiểm), bảo hiểm có thể giúp đỡ các cá nhân,
các gia đình, các tổ chức khắc phục hậu quả trước những rủi ro khôn lường. Hoạt

động kinh doanh của các DNBH, bởi vậy còn mang đến là chỗ dựa tinh thần cho mọi
người, mọi tổ chức; giúp họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt trong hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đã có nhiều chính khách cũng như những nhà kinh doanh thành đạt
thừa nhận vai trị quan trọng của BHTM khơng thể thiếu được trong đời sống con người.
Wiston Churchill (cựu Thủ tướng Anh): "Nếu có thể, tơi sẽ viết từ "BẢO HIỂM"
trong mỗi nhà và trên trán mỗi người. Càng ngày tôi càng tin chắc rằng, với một giá
khiêm tốn bảo hiểm có thể giải phóng các gia đình ra khỏi thảm hoạ khơng lường
trước được”.

INS101_Bai1_v1.0013111228

11


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Henry Ford (người sáng lập ra hãng xe hơi nổi tiếng): “New York khơng phải là nơi
sinh ra lồi người nhưng lại là nơi sinh ra các nhà bảo hiểm. Khơng có bảo hiểm, sẽ
khơng có các tồ nhà chọc trời bởi khơng có một cơng nhân nào sẽ chấp nhận làm với
độ cao như vậy vì có nguy cơ bị rơi xuống chết để lại gia đình khốn khổ. Khơng có
bảo hiểm, sẽ khơng có nhà đầu tư nào dám đầu tư hàng triệu USD để xây dựng các toà
nhà lớn, bởi 1 tàn thuốc lá cũng có thể biến tồ nhà ấy thành tro dễ dàng. Khơng có
bảo hiểm, khơng ai dám lái xe hơi qua các phố. Một lái xe giỏi vẫn ý thức được rằng,
anh ta có thể đâm vào người đi bộ vào bất kỳ lúc nào”.
1.2.

Các nguyên tắc chung bảo hiểm thương mại

Với tính chất của một hoạt động kinh doanh, BHTM một mặt là đáp ứng cho các nhu
cầu an toàn của con người nhưng đồng thời phải đạt được mục tiêu lợi nhuận. Bởi

vậy, việc tiến hành hoạt động BHTM phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản. Ngoài
các nguyên tắc này, trong mỗi một loại hình BHTM sẽ có thêm các ngun tắc khác
phù hợp với đặc điểm của từng loại: Nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc thế quyền hợp
pháp, nguyên tắc khốn,...
1.2.1.

Ngun tắc Số đơng bù số ít

Theo Ngun tắc số đơng bù số ít, hậu quả của rủi
ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được
bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều
người có khả năng cùng gặp rủi ro như vậy. Thơng
qua việc huy động đủ số phí cần thiết để giải quyết
chi trả, bồi thường cho các tổn thất có thể xảy ra
trong cộng đồng những người tham gia bảo hiểm,
DNBH đang thực hiện việc bù trừ rủi ro theo qui
luật số lớn. Theo ngun tắc số đơng bù số ít, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì
quĩ bảo hiểm tích tụ được càng lớn, việc chi trả càng trở nên dễ dàng hơn, rủi ro được
san sẻ cho nhiều người hơn. Đây là nguyên tắc căn bản hình thành nên bất kỳ một
nghiệp vụ BHTM nào.
Thông thường, một nghiệp vụ bảo hiểm chỉ có thể được triển khai khi trên thị trường
bảo hiểm có nhiều nhu cầu về cùng một loại bảo đảm. Mặc dù vậy, vẫn có một số
trường hợp ngoại lệ. Đó là khi có sự hấp dẫn lớn về lợi nhuận trong việc cung cấp một
bảo hiểm nào đó trên thị trường, dù cho khơng có đủ số đơng người tham gia bảo hiểm
đó. Lúc này, DNBH vừa phải đánh giá được rằng xác suất xảy ra rủi ro được bảo hiểm
là không cao, vừa phải cân nhắc đến năng lực tài chính của chính doanh nghiệp và
đảm bảo thực hiện được nguyên tắc phân tán rủi ro một cách triệt để. Bảo hiểm vệ tinh
ở thị trường bảo hiểm Việt Nam là một ví dụ điển hình của ngoại lệ này. Gói bảo hiểm
vệ tinh trên thị trường bảo hiểm Việt Nam cung cấp sự bảo vệ cho người được bảo
hiểm khi có (1) các tổn thất vật chất của vệ tinh trong quá trình phóng và vận hành

trên quỹ đạo; (2) các tổn thất của bên thứ ba do hoạt động của vệ tinh gây ra; và (3)
các tổn thất về doanh thu do vệ tinh bị thiệt hại. Cho đến thời điểm hiện nay, Việt
Nam chỉ mới có 2 vệ tinh địa tĩnh là VINASAT 1 (phóng thành cơng năm 2008) và
VINASAT 2 (phóng thành cơng năm 2012). Do đó bảo hiểm vệ tinh ở Việt Nam hiển
12

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

nhiên là chỉ có được 2 hợp đồng bảo hiểm mỗi năm, khơng thể đảm bảo đủ số lớn để
hình thành một nghiệp vụ bảo hiểm trên thị trường. Tuy nhiên, với sức hấp dẫn của
khoản doanh thu phí khơng hề nhỏ từ bảo hiểm này, với tính tốn xác suất rủi ro được
bảo hiểm và việc thực hiện phân tán rủi ro qua cả đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm, bảo
hiểm vệ tinh được liên doanh bảo hiểm gốc là Công ty bảo hiểm cổ phần Bưu điện
(PTI) và Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo hiểm Bảo việt) thực hiện cung cấp trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam.
1.2.2.

Nguyên tắc lựa chọn rủi ro

Hoạt động BHTM cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có
nhu cầu. Tuy nhiên khơng phải trong mọi trường hợp, DNBH đều chấp nhận các yêu
cầu bảo đảm. Hiếm có DNBH nào đồng ý thoả thuận bồi thường cho các trường hợp
tổn thất gây ra do sự cố ý của người được bảo hiểm. Cũng vậy, DNBH thật khó chấp
nhận bảo đảm cho những thiệt hại vật chất của một chiếc xe ơtơ ở trong tình trạng
khơng an tồn về kỹ thuật hay không được phép lưu hành.
Đây là một nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt
động kinh doanh của các DNBH. Theo nguyên tắc này,

các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc chắn
sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm: hao mịn vật chất tự
nhiên, hao hụt thương mại tự nhiên, xe vi phạm
nghiêm trọng luật giao thơng,... Nói cách khác, những
rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất
ngờ, không lường trước được. Với rủi ro bị chết là rủi
ro chắc chắn xảy ra thì yếu tố ngẫu nhiên được xem
xét để bảo hiểm là thời điểm chết. Thêm vào đó,
nguyên nhân gây ra rủi ro có thể được bảo hiểm phải là
nguyên nhân khách quan, không cố ý. Tính đồng nhất của rủi ro là một yếu tố khác
giúp DNBH có thể xem xét rủi ro có thể được bảo hiểm hay khơng. Trên cơ sở tính
đồng nhất của rủi ro DNBH có thể tính tốn được phí bảo hiểm một cách chính xác và
khoa học dựa vào các phương pháp toán học.
Để bảo đảm nguyên tắc này, trong đơn bảo hiểm ln có các rủi ro loại trừ tuỳ thuộc
vào từng nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau. Đối với các rủi ro được nhận bảo hiểm lại có
thể xem xét để phân loại, sắp xếp theo từng mức độ khác nhau (nếu cần thiết) và áp
dụng các mức phí thích hợp. Đối với các rủi ro có xác suất xảy ra lớn hơn thì mức phí
phải nộp cao hơn. Chẳng hạn trong bảo hiểm nhân thọ (BHNT), những người khơng ở
cùng độ tuổi sẽ có xác suất tử vong khác nhau do đó phải đóng mức phí khác nhau.
Chính vì vậy, một u cầu đặt ra đối với người tham gia bảo hiểm là phải trung thực
tuyệt đối khi khai báo rủi ro để DNBH có thể xác định chính xác rằng rủi ro đó có thể
chấp nhận bảo hiểm hay khơng, nếu có thì với mức phí như thế nào.
Ngun tắc rủi ro có thể bảo hiểm nhằm tránh cho DNBH phải bồi thường cho những
tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá sản.
Đồng thời ngun tắc này cũng giúp các DNBH có thể tính được các mức phí chính
xác, lập nên được một quĩ bảo hiểm đầy đủ để bảo đảm cho công tác bồi thường.
Không chỉ bảo đảm quyền lợi cho các DNBH mà ngay chính những người tham gia
bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng.
INS101_Bai1_v1.0013111228


13


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

1.2.3.

Nguyên tắc Phân tán rủi ro

Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm, nhà bảo hiểm
lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rất lớn nếu rủi ro xảy ra.
Mặc dù quĩ bảo hiểm là một quĩ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều
người theo nguyên tắc số đông và như vậy, với tư cách là người huy động và quản lý
quĩ, các DNBH có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế,
không phải lúc nào DNBH cũng ln đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể
thấy rất rõ với những trường hợp quĩ bảo hiểm huy động được còn chưa nhiều (DNBH
mới thành lập hoặc DNBH có qui mơ nhỏ) trong khi đó giá trị bảo hiểm lại rất lớn
hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn.
Đồng bảo hiểm

Tái bảo hiểm

Hình 1.2. Đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm

Một kinh nghiệm trong hoạt động của các nhà BHTM là không nhận những rủi ro quá
lớn, vượt quá khả năng tài chính của cơng ty. Tuy nhiên, để tránh được điều tối kị là
phải từ chối bảo hiểm đồng thời vẫn bảo đảm được hoạt động kinh doanh, các DNBH
áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi ro được sử dụng:
đồng bảo hiểm và tái bảo hiểm. Nếu trong đồng bảo hiểm, nhiều nhà bảo hiểm cùng
nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn thì tái bảo hiểm lại là phương thức trong đó, một nhà

bảo hiểm nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn, sau đó nhượng bớt một phần rủi ro cho
một hoặc nhiều nhà bảo hiểm khác. Hình 1.2 mô tả trực quan hai biện pháp phân tán
rủi ro này.
1.2.4.

Nguyên tắc trung thực tuyệt đối

Nguyên tắc này được thể hiện ngay từ khi DNBH nghiên cứu để soạn thảo một HĐBH
đến khi phát hành, khai thác bảo hiểm và thực hiện giao dịch kinh doanh với khách
hàng (người tham gia bảo hiểm).
 Nguyên tắc này đặt ra một yêu cầu với người tham gia bảo hiểm là phải tuyệt đối
trung thực khi khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm để giúp DNBH xác định mức
phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó, các hành vi gian lận nhằm
trục lợi bảo hiểm khi thơng báo, khai báo các thiệt hại để địi bồi thường (khai báo
lớn hơn thiệt hại thực tế; sửa chữa ngày tháng của HĐBH...) sẽ được xử lý theo
pháp luật.
 Nguyên tắc trung thực tuyệt đối đòi hỏi DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các
điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng bảo đảm cho quyền lợi của hai bên.
Sản phẩm cung cấp của nhà bảo hiểm là sản phẩm dịch vụ nên khi mua, người tham
14

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

gia bảo hiểm khơng thể cầm nắm nó trong tay như các sản phẩm vật chất khác để
đánh giá chất lượng và giá cả... mà chỉ có thể có được một hợp đồng hứa sẽ bảo
đảm. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có bảo đảm hay khơng, giá cả (phí bảo hiểm)
có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ, cơng

bằng hay khơng... đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía DNBH.
1.2.5.

Nguyên tắc Quyền lợi có thể được bảo hiểm

Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm phải có lợi ích tài chính bị tổn thất
nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia bảo hiểm phải
có một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận. Mối
quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền
tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm.
Cần chú ý rằng khi quyền sở hữu và quyền sử dụng đối với tài sản được bảo hiểm
thuộc hai chủ thể khác nhau thì vấn dề sẽ phức tạp hơn. Trong trường hợp này, cả chủ
sở hữu và chủ sử dụng đều có quyền lợi được bảo hiểm. Chẳng hạn, chủ xưởng sửa
chữa ơtơ có quyền hợp pháp khi tham gia bảo hiểm cho chiếc xe ôtô mà anh ta đang
đảm nhận sửa chữa. Đó là quyền chiếm hữu. Đồng thời chủ xe ơtơ cũng có thể tham
gia bảo hiểm cho chiếc xe này. Nguyên tắc về quyền lợi có thể được bảo hiểm nhằm
loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác, hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc
tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
1.2.6.

Nguyên tắc về nguyên nhân gần

Một tài sản đã được bảo hiểm bị tổn thất có thể do rủi ro được bảo hiểm; có thể do rủi
ro khơng được bảo hiểm; hoặc có thể do một chuỗi các sự kiện hay một chuỗi các rủi
ro bao gồm cả rủi ro được bảo hiểm và rủi ro không được bảo hiểm. Trong chuỗi các
rủi ro gây ra tổn thất cho tài sản đã được bảo hiểm đó, rủi ro được bảo hiểm có thể xảy
ra (hoạt động) đồng thời với rủi ro khơng được bảo hiểm. Cũng có thể, rủi ro được bảo
hiểm và rủi ro không được bảo hiểm tạo ra một chuỗi nguyên nhân liên tiếp gây ra tổn
thất. Học thuyết về nguyên nhân gần cho rằng, các tổn thất của tài sản chỉ được bồi
thường nếu đó là tổn thất trực tiếp do rủi ro được bảo hiểm gây ra. Theo định nghĩa

cổ điển từ năm 19072, nguyên nhân gần gây tổn thất là “nguyên nhân có hiệu lực, chủ
động tạo thành chuỗi các sự kiện dẫn đến một hậu quả mà khơng cần có sự can thiệp
của bất kỳ một lực nào được bắt đầu và hoạt động chủ động từ một nguồn mới và độc
lập”3. “Gần” ở đây cần được hiểu là gần nhất về tác động hiệu lực chứ không nhất
thiết gần nhất về mặt thời gian. (Bland, 1993) giải thích, nguyên nhân gần không nhất
thiết là nguyên nhân đầu tiên hay là nguyên nhân cuối cùng mà chỉ cần là nguyên
nhân chi phối (nguyên nhân chủ động).

2
3

(Bennett, 1992)
(Bland, 1993)

INS101_Bai1_v1.0013111228

15


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Nguyên tắc gần được cụ thể hóa thành các trường hợp4:
(1) Nếu rủi ro được bảo hiểm và các rủi ro không được bảo hiểm (tức là các rủi ro
không được nhắc đến) hoạt động đồng thời, thì rủi ro được bảo hiểm là nguyên
nhân gần;
(2) Nếu rủi ro được bảo hiểm hoạt động đồng thời với một rủi ro bị loại trừ và tác
động của cả hai rủi ro đó khơng thể tách bạch được với nhau thì rủi ro loại trừ
được coi là nguyên nhân gần;
(3) Nếu tổn thất phát sinh từ một loạt các rủi ro liên tiếp, rủi ro cuối cùng là nguyên
nhân gần trừ phi nguyên nhân trước đó thiết lập một chuỗi trực tiếp các hậu quả

trong đó nguyên nhân cuối cùng chỉ là ngẫu nhiên bất ngờ và kết cục có thể xảy ra
đương nhiên là do nguyên nhân trước đó. Nếu nguyên nhân trước đó là một rủi ro
bị loại trừ thì bảo hiểm khơng có trách nhiệm. Nếu ngun nhân trước là một rủi
ro được bảo hiểm và khơng có sự gián đoạn trong chuỗi các sự kiện thì người bảo
hiểm sẽ phải có trách nhiệm vì rủi ro được bảo hiểm sẽ là “có tác động hiệu lực
gần nhất”. Lúc này, rủi ro “gần” về mặt thời gian khơng có ý nghĩa quyết định.
Ví dụ, tổn thất trực tiếp do cháy bao gồm cả các thiệt hại về tài sản do nước hoặc do
hóa chất mà đã được sử dụng để dập lửa. Vì trong trường hợp này, mặc dù tổn thất
phát sinh từ tác động của nước hay hóa chất dập lửa nhưng tổn thất đó bắt đầu bởi
cháy, với chuỗi kéo theo là nước và hóa chất. Cháy là nguyên nhân có tác động chi
phối nhất, tác động có hiệu lực nhất (dù không phải là nguyên nhân gần về mặt thời
gian). Như vậy, tổn thất do hóa chất hoặc nước dùng để cứu hỏa cũng sẽ được bảo
hiểm trong đơn bảo hiểm cháy căn cứ vào học thuyết nguyên nhân gần.
Một ví dụ khác, theo vụ xử kiện giữa Marsden và City and County Insurance Co
(1866), đơn bảo hiểm các tấm kính mỏng có loại trừ tổn thất do cháy. Kính vỡ do một
đám đơng lộn xộn ồn ào đang xem một đám cháy ở một khu vực kế bên cạnh. Trong
trường hợp này, công ty bảo hiểm vẫn phải bồi thường tổn thất vì đây khơng phải là
tổn thất loại trừ (vì khơng phải do cháy). Tai nạn hoặc sự kiện tạo thuận lợi dẫn đến
tổn thất (đám cháy) phải được phân biệt với tai nạn hoặc sự kiện gây ra tổn thất (hành
động của đám đông). Cháy là không phải là nguyên nhân gần gây tổn thất.
1.3.

Phân loại bảo hiểm thương mại

Hoạt động BHTM cung cấp các sản phẩm bảo hiểm
khá đa dạng đáp ứng cho nhu cầu của các cá nhân
và các tổ chức trong nền kinh tế. Trên thị trường
bảo hiểm thế giới cũng như ở Việt Nam, các sản
phẩm này thường được phân loại dựa vào các tiêu
thức khác nhau. Việc phân loại như vậy vừa có lợi

cho DNBH, vừa góp phần phát triển thị trường. Thứ
nhất, phân loại BHTM sẽ thuận lợi hơn cho công tác nghiên cứu và phát triển các sản
phẩm bảo hiểm khác nhau. Thứ hai, việc tập hợp các sản phẩm BHTM thành từng

4

16

(Bennett, 1992)
INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

nhóm có đặc trưng riêng giúp cho các DNBH quản lý tốt nghiệp vụ, tổ chức hoạt động
kinh doanh có hiệu quả.
Trên thị trường cũng như trong cơ cấu tổ chức quản lý của DNBH, hoạt động BHTM
có thể được phân nhóm thành bảo hiểm hàng hải, bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm trách
nhiệm, bảo hiểm xe cơ giới,…Cách phân loại này căn cứ vào sự tương đồng của các
rủi ro gắn với một hoạt động nào đó. Chẳng hạn như bảo hiểm hàng hải là tập hợp các
bảo hiểm liên quan đến hoạt động hàng hải và cung cấp sự bảo vệ trước các rủi ro liên
quan đến hoạt động này. BHTM sẽ được phân chia thành nhiều nhóm khá nhỏ. Ngồi
ra, trong mỗi nhóm BHTM trên lại có các sản phẩm bảo hiểm có các đặc trưng khác
nhau mà nếu phân loại thì có thể xếp vào các nhóm BHTM khác nhau. Chẳng hạn,
trong bảo hiểm xe cơ giới có bảo hiểm liên quan đến tài sản (thiệt hại vật chất chiếc
xe), có bảo hiểm liên quan đến trách nhiệm của chủ xe, có bảo hiểm liên quan đến
thiệt hại về con người. Do đó, một cách cơ bản và điển hình nhất, BHTM có thể phân
loại theo đối tượng được bảo hiểm, theo kỹ thuật quản lý, theo quy định pháp lý về
tính bắt buộc của sản phẩm.
1.3.1.


Phân loại theo đối tượng được bảo hiểm

Tiêu thức này cho phép phân chia BHTM thành ba loại chủ yếu: bảo hiểm tài sản, bảo
hiểm trách nhiệm dân sự, và bảo hiểm con người.
1.3.1.1.

Bảo hiểm tài sản

Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm này là tài sản (cố định hay lưu động) của
người được bảo hiểm. Giá trị của tài sản được bảo hiểm gọi là giá trị bảo hiểm. Ví dụ,
bảo hiểm cho thiệt hại vật chất xe cơ giới, bảo hiểm hàng hoá của các chủ hàng trong
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của chủ nhà trong bảo hiểm trộm
cắp,… là các bảo hiểm tài sản. Việc giải quyết quyền lợi bảo hiểm cho khách hàng
trong bảo hiểm tài sản phải chú ý đến các vấn đề sau:
 Áp dụng nguyên tắc bồi thường khi thanh toán
bồi thường bảo hiểm. Số tiền bồi thường mà bên
được bảo hiểm nhận được trong mọi trường hợp
không vượt quá thiệt hại thực tế trong một sự cố
bảo hiểm. Số tiền bồi thường là số tiền mà
DNBH trả cho bên được bảo hiểm khi có tổn
thất thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm.
Ví dụ, một chủ xe máy tham gia bảo hiểm cho
tồn bộ chiếc xe của mình trị giá 20 triệu đồng.
Trong một vụ tai nạn, xe bị hư hỏng giá trị thiệt hại là 8 triệu đồng, STBT mà chủ
xe nhận được trong bất kỳ trường hợp nào cũng chỉ là 8 triệu đồng.
 Áp dụng “nguyên tắc thế quyền hợp pháp” khi xuất hiện người thứ ba có lỗi và do
đó có trách nhiệm đối với thiệt hại của người được bảo hiểm. Theo nguyên tắc
này, sau khi trả tiền bồi thường, DNBH sẽ được thay quyền của người được bảo
hiểm để thực hiện việc truy địi trách nhiệm của người thứ ba có lỗi. Nguyên tắc

thế quyền hợp pháp nhằm đảm bảo quyền lợi của người được bảo hiểm, chống lại
hành vi rũ bỏ trách nhiệm của người thứ ba có lỗi, đồng thời đảm bảo cả nguyên

INS101_Bai1_v1.0013111228

17


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

tắc bồi thường. Tuy nhiên, có một số ngoại lệ khi áp dụng nguyên tắc thế quyền
hợp pháp. Đó là khi người thứ ba gây lỗi là trẻ em, hoặc là con cái, vợ chồng, cha
mẹ... của người được bảo hiểm.
Lấy lại ví dụ trên, trong vụ tai nạn này, lỗi một phần là của một xe ô tô đi ngược
chiều (70%). Lúc này, với thiệt hại 8 triệu đồng của chủ xe máy, trách nhiệm của
ông chủ xe ô tô sẽ là: 70% x 8 triệu đồng = 5,6 triệu đồng. Sau khi bồi thường
8 triệu đồng theo HĐBH vật chất xe cho chủ xe máy, DNBH được thay quyền của
chủ xe máy này truy đòi trách nhiệm 5,6 triệu từ chủ xe ô tô. Nguyên tắc thế quyền
được áp dụng. Và người được bảo hiểm trong ví dụ này (chủ xe máy) cũng không
thể nhận STBT vượt quá thiệt hại 8 triệu đồng, như vậy nguyên tắc bồi thường
được đảm bảo.
 Bồi thường theo mức miễn thường. DNBH chỉ chịu trách nhiệm đối với những
tổn thất mà giá trị thiệt hại thực tế vượt quá một mức đã thoả thuận gọi là mức
miễn thường (M). Miễn thường có thể quy định theo một số tiền nhất định, hoặc
theo một tỷ lệ so với số tiền bảo hiểm. Số tiền bảo hiểm (STBH) là số tiền thỏa
thuận trong hợp đồng bảo hiểm quy định giới hạn trách nhiệm của người bảo hiểm.
o Việc áp dụng bảo hiểm theo mức miễn thường thể là tự nguyện hoặc bắt buộc.
Nếu giữa DNBH và người tham gia bảo hiểm thoả thuận sẽ không bồi thường
đối với những tổn thất nhỏ hơn mức miễn thường trên cơ sở tự nguyện thì phí
bảo hiểm sẽ được giảm bớt phụ thuộc vào mức miễn thường cụ thể. Trong

trường hợp miễn thường bắt buộc, phí bảo hiểm vẫn giữ nguyên. Bảo hiểm
theo mức miễn thường không chỉ tránh cho DNBH phải bồi thường những tổn
thất quá nhỏ so với giá trị bảo hiểm mà cịn có ý nghĩa trong việc nâng cao ý
thức và trách nhiệm đề phòng hạn chế rủi ro của người được bảo hiểm.
o Khi bồi thường, STBT sẽ được xác định dựa vào thỏa thuận miễn thường đó là
khơng khấu trừ hay có khấu trừ. Chế độ bảo hiểm miễn thường không khấu trừ
bảo đảm chi trả cho những thiệt hại thực tế vượt quá mức miễn thường nhưng
STBT sẽ không bị khấu trừ theo mức miễn thường.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế
Trong chế độ bảo hiểm miễn thường có khấu trừ, thiệt hại thực tế phải lớn hơn
mức miễn thường quy định mới được bồi thường nhưng STBT sẽ bị khấu trừ
theo mức miễn thường này.
STBT = Giá trị thiệt hại thực tế – Mức miễn thường
 Bồi thường theo tỷ lệ. Có hai loại tỷ lệ được áp dụng là tỷ lệ “Số tiền bảo
hiểm/Giá trị bảo hiểm” và tỷ lệ “Số phí đã nộp/Số phí lẽ ra phải nộp”.
Trong bảo hiểm tài sản, STBH được xác định theo GTBH và có 3 trường hợp:
o Bảo hiểm dưới giá trị khi STBH < GTBH
o Bảo hiểm ngang giá trị khi STBH = GTBH
o Bảo hiểm trên giá trị khi STBH > GTBH
Thông thường nhất là trường hợp bảo hiểm ngang giá trị, khi đó người tham gia
bảo hiểm đã mua bảo hiểm đầy đủ cho tài sản được bảo hiểm. Các trường hợp bảo
hiểm trên giá trị có thể có nhưng khơng nhiều. Nhìn chung các DNBH sẽ cẩn trọng
18

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

trong các trường hợp có yêu cầu bảo hiểm trên giá trị vì có thể sẽ có động cơ trục

lợi. Với các trường hợp bảo hiểm dưới giá trị, các DNBH thường khơng mong
muốn vì vẫn phải bỏ ra một khoản chi phí bình thường để quản lý rủi ro như trong
bảo hiểm ngang giá trị, trong khi đó, phí bảo hiểm nhận được trong bảo hiểm dưới
giá trị sẽ thấp hơn. Để hạn chế các trường hợp này, DNBH sẽ tự động áp dụng tỷ
lệ STBH/GTBH để chiết khấu bớt STBT khi giải quyết quyền lợi bảo hiểm.
STBT

=

Giá trị thiệt hại thực tế

×

STBH
GTBH

Tương tự vậy, tỷ lệ “Số phí bảo hiểm đã nộp/ Số phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp” sẽ
được người bảo hiểm tự động áp dụng để chiết khấu STBT bảo hiểm trong trường
hợp có sự khai báo khơng chính xác rủi ro.
STBT

=

Giá trị thiệt hại thực tế

×

Phí bảo hiểm đã nộp
Phí bảo hiểm lẽ ra phải nộp


 Bồi thường theo rủi ro đầu tiên. Theo chế độ bồi thường này, DNBH sẽ trả STBT
theo một giới hạn đã thoả thuận. Các tổn thất của người được bảo hiểm nằm trong
giới hạn này được gọi là tổn thất thuộc rủi ro đầu tiên hoặc tổn thất đầu tiên. Cịn
tổn thất vượt q giới hạn thoả thuận này có thể sẽ được bảo hiểm bằng một đơn
bảo hiểm vượt quá. Chế độ bồi thường này thường được áp dụng trong bảo hiểm
trộm cắp. Người ta lý luận rằng, ít khi toàn bộ tài sản bị mất trộm, do vậy chủ tài
sản thường chỉ muốn bảo hiểm cho phần tổn thất có thể nhất, và đó được gọi là tổn
thất đầu tiên.
 Bảo hiểm trùng. Trong BHTS, nếu một đối tượng bảo hiểm đồng thời được bảo
đảm bằng nhiều HĐBH cho cùng một rủi ro với những DNBH khác nhau, những
HĐBH này có điều kiện bảo hiểm giống nhau, thời hạn bảo hiểm trùng nhau, và
tổng STBH từ tất cả những hợp đồng này lớn hơn giá trị của đối tượng bảo hiểm
đó thì gọi là bảo hiểm trùng.
Trong trường hợp có bảo hiểm trùng, tuỳ thuộc vào nguyên nhân xảy ra để giải
quyết. Thông thường, bảo hiểm trùng liên quan đến sự gian lận của người tham gia
bảo hiểm nhằm trục lợi bảo hiểm. Do đó, về nguyên tắc, DNBH có thể huỷ bỏ
HĐBH nếu phát hiện thấy bảo hiểm trùng có gian lận. Nếu các DNBH chấp nhận
bồi thường thì lúc này, trách nhiệm của mỗi người bảo hiểm đối với tổn thất giải
quyết theo nguyên tắc đóng góp, tức là mỗi người bảo hiểm sẽ chịu trách nhiệm
bồi thường cho tổn thất được bảo hiểm tỷ lệ trách nhiệm mà họ đảm nhận. Cụ thể:
STBHcủa HĐBH A
1.3.1.2.

=

Giá trị thiệt hại thực tế

×

STBHcủa HĐBH A

∑ STBH

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự (TNDS) là loại bảo hiểm thay mặt người được bảo hiểm
để bồi thường cho thiệt hại của bên thứ ba do lỗi của người được bảo hiểm theo phạm
vi bảo hiểm đã thỏa thuận. Ví dụ: bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới, bảo hiểm
TNDS của chủ lao động, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm, bảo hiểm trách nhiệm
công cộng...
INS101_Bai1_v1.0013111228

19


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Bảo hiểm trách nhiệm có một số đặc điểm cơ bản sau:
 Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng. Đối tượng được bảo hiểm trong bảo
hiểm này là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được bảo hiểm đối với
người thứ ba theo luật định, đó là trách nhiệm phải bồi thường các thiệt hại về tài
sản, về con người... gây ra cho người khác do lỗi của người được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm trong bảo hiểm TNDS
có tính trừu tượng bởi ngay khi ký kết hợp đồng
bảo hiểm trách nhiệm, cả người tham gia bảo
hiểm và DNBH đều chưa thể xác định người
được bảo hiểm sẽ có trách nhiệm phải bồi
thường thiệt hại cụ thể cho ai và mức bồi thường
bao nhiêu. Thông thường, trách nhiệm bồi
thường phát sinh khi có đủ ba điều kiện sau:
o Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba;

o Có hành vi gây thiệt hại của cá nhân hay của tổ chức được bảo hiểm;
o Có quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại của cá nhân hoặc tổ chức đó
với thiệt hại của bên thứ ba.
Ở các nước áp dụng hệ thống thông luật (tiếng Anh là common law), ví dụ như ở
Mỹ, mức trách nhiệm phải bồi thường bao nhiêu cho bên bị thiệt hại do lỗi của
một người nào đó là do sự phán xử của tồ án. Tuy nhiên, trong thực tế có cũng
những trường hợp tồ án sẽ khơng căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử, mà căn cứ
vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại. Nếu như trong bảo hiểm tài sản,
đối tượng bảo hiểm là hiện hữu vào thời điểm ký kết hợp đồng bảo hiểm thì trong
bảo hiểm TNDS, đối tượng bảo hiểm là hiện hữu khi trách nhiệm dân sự của người
được bảo hiểm phát sinh.
Vì đối tượng được bảo hiểm là phần trách nhiệm dân sự phát sinh của người được
bảo hiểm đối với người bị thiệt hại nên trong loại bảo hiểm này người được bảo
hiểm – là người có trách nhiệm dân sự cần được bảo đảm – thường chính là người
tham gia bảo hiểm. Còn người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm lại là những người thứ
ba khác. Người thứ ba trong bảo hiểm TNDS là những người có tính mạng, tài sản
bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và được quyền nhận bồi thường từ DNBH với tư
cách là người thụ hưởng. Người thứ ba có quan hệ về mặt trách nhiệm dân sự với
người được bảo hiểm nhưng chỉ có mối quan hệ gián tiếp với DNBH.
 Bảo hiểm trách nhiệm thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc. Bảo hiểm
trách nhiệm, ngoài việc nhằm đảm bảo ổn định tài chính cho người được bảo hiểm,
cịn có mục đích khác là bảo vệ quyền lợi cho phía nạn nhân, bảo vệ lợi ích cơng
cộng và an tồn xã hội. Do vậy, loại hình bảo hiểm này thường được thực hiện
theo hình thức bắt buộc. Nhìn chung, các bảo hiểm trách nhiệm được thực hiện bắt
buộc có liên quan đến ba nhóm hoạt động chủ yếu sau: (a) những hoạt động có
nguy cơ gây tổn thất cho nhiều nạn nhân trong cùng một sự cố (kinh doanh vận
chuyển hành khách, sử dụng gas lỏng); (b) những hoạt động mà chỉ cần có một sơ
xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến thiệt hại trầm trọng về người (hoạt động của bác sĩ,
sử dụng các dược phẩm) và (c) những hoạt động cung cấp dịch vụ trí tuệ có thể
gây thiệt hại lớn về tài chính (mơi giới bảo hiểm, tư vấn pháp luật).

20

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

Ở Việt Nam, Luật Kinh doanh Bảo hiểm ban hành ngày 22/12/2000 đã nêu rõ các
bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc bao gồm:
o Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của
người vận chuyển hàng không đối với hành khách;
o Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật;
o Bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
 Có thể khơng áp dụng hạn mức trách nhiệm. Thiệt hại trách nhiệm dân sự phát
sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó
có thể là rất lớn. Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm,
các công ty bảo hiểm thường đưa ra các hạn mức trách nhiệm, tức là các mức thoả
thuận sẽ bồi thường tối đa của bảo hiểm. Nói cách khác, thiệt hại trách nhiệm dân sự
có thể phát sinh rất lớn nhưng công ty bảo hiểm không bồi thường tồn bộ thiệt hại
trách nhiệm dân sự phát sinh đó mà chỉ khống chế trong phạm vi số tiền bảo hiểm.
Hạn mức trách nhiệm được áp dụng trong hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm TNDS
như bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm TNDS của
chủ sử dụng lao động với người lao động, trách nhiệm chủ hãng vận chuyển đối
với hành khách, hàng hố... Tuy nhiên, vẫn có một số nghiệp vụ bảo hiểm TNDS
khơng áp dụng hạn mức trách nhiệm. Có nghĩa là, thiệt hại trách nhiệm dân sự
phát sinh bao nhiêu, công ty bảo hiểm bồi thường bấy nhiêu, chẳng hạn như bảo
hiểm TNDS chủ tàu.


1.3.1.3.


Áp dụng nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc thế quyền hợp pháp. Bảo hiểm
tài sản và bảo hiểm trách nhiệm dân sự vào thành một nhóm gọi là bảo hiểm thiệt
hại, phân biệt với bảo hiểm con người. Tổn thất được bảo hiểm trong bảo hiểm
thiệt hại có thể là phần thiệt hại về tài sản của chính người được bảo hiểm (trong
bảo hiểm tài sản) hoặc là thiệt hại mà người được bảo hiểm gây ra cho người khác
và phải chịu trách nhiệm về mặt pháp lý (trong bảo hiểm TNDS). Tương tự như
trong bảo hiểm tài sản, bảo hiểm trách nhiệm dân sự cũng áp dụng nguyên tắc bồi
thường. Điều này có nghĩa là bảo hiểm chỉ bồi thường theo các trách nhiệm dân sự
mà người được bảo hiểm đã thừa nhận. Nói cách khác, trách nhiệm bồi thường của
bảo hiểm căn cứ vào các thiệt hại thực tế xảy ra đối với người thứ ba và lỗi của
người được bảo hiểm. Trong bảo hiểm trách nhiệm, nguyên tắc thế quyền hợp
pháp cũng có thể được áp dụng khi xuất hiện nhiều bên cùng có lỗi gây thiệt hại
cho bên thứ ba.

Bảo hiểm con người

Bảo hiểm con người (BHCN) có đối tượng được
bảo hiểm là tuổi thọ, tính mạng, tình trạng sức khoẻ
con người hoặc các sự kiện liên quan tới cuộc sống
và có ảnh hưởng tới cuộc sống con người.
 Nguyên tắc khoán là nguyên tắc cơ bản được
áp dụng giải quyết quyền lợi bảo hiểm trong bảo hiểm con người, theo đó, khi sự
kiện được bảo hiểm xảy ra, DNBH sẽ chi trả một khoản tiền dựa vào STBH đã ghi
trong hợp đồng bảo hiểm chứ không dựa vào thiệt hại thực tế. Việc thanh toán chi
trả tiền bảo hiểm trong BHCN chỉ mang tính trợ giúp về tài chính cho người được
INS101_Bai1_v1.0013111228

21



Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

bảo hiểm và thân nhân (bảo hiểm con người phi nhân thọ) hoặc “hồn lại” khoản
tiền tích luỹ được của người được bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ) khi xảy ra các sự
kiện được bảo hiểm. Điều này đơn giản là vì tính mạng và tình trạng sức khoẻ của
con người là vô giá nên không thể xác định được bằng một khoản tiền nào đấy.
STBH trong các HĐBH con người hoàn tồn khơng phải là sự biểu hiện giá trị của
bản thân người được bảo hiểm mà về cơ bản chỉ có ý nghĩa là một số tiền mà
người tham gia bảo hiểm “khoán” cho DNBH sẽ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy
ra. Số tiền này do các bên tham gia hợp đồng thoả thuận, tuỳ theo khả năng tài
chính của người tham gia bảo hiểm cũng như nhu cầu trong tương lai của bên được
bảo hiểm. Các nhu cầu này thường bao gồm:
o Nhu cầu bù đắp chi phí lúc bị chết;
o Nhu cầu tạo lập quỹ đào tạo, giáo dục con cái;
o Nhu cầu chi dùng hàng ngày, nếu khơng may người trụ cột trong gia đình bị
chết, mà những người sống phụ thuộc lại chủ yếu nhờ cậy vào tiền lương của
anh ta;
o Nhu cầu chi trả những khoản nợ nần còn tồn đọng;
o Nhu cầu chi phí bảo dưỡng tài sản...
Căn cứ vào tổng các nhu cầu nêu trên, người tham gia bảo hiểm lựa chọn STBH để
mua. Số tiền này chính là mức chênh lệch giữa tổng giá trị các nhu cầu trong tương
lai để hồn thiện kế hoạch tài chính so với tổng giá trị tài sản hiện có để đáp ứng
nhu cầu.
Số tiền bảo hiểm
lựa chọn để mua

=

Tổng giá trị các

nhu cầu trong tương lai



Tổng giá trị
tài sản hiện có

Kế hoạch trên được lập với giả định rằng, người tham gia bảo hiểm bị chết, sau cái
chết, tổng giá trị các nhu cầu trong tương lai cần phải được đáp ứng bằng cách lựa
chọn một STBH thích hợp để mua. Nhưng đó mới chỉ là một nửa của kế hoạch tài
chính được lập, cịn nửa kia họ phải tính đến mức phí bảo hiểm phải nộp và
phương thức nộp phí (nộp một lần hay nhiều lần...). Phần này hoàn toàn phải dựa
vào mức thu nhập hiện tại để cân đối và có tính đến mức độ ổn định nơi làm việc,
khả năng tăng lương... Nếu mức thu nhập thấp, khả năng nộp phí bảo hiểm bị hạn
chế, thì STBH sẽ phải được điều chỉnh giảm đi và ngược lại. Điều đó có nghĩa là
STBH mà người tham gia bảo hiểm sẽ được cơng ty bảo hiểm thanh tốn ln tỷ lệ
thuận với số phí bảo hiểm phải nộp. Phần lý giải này sẽ làm rõ thêm số tiền mà
người bảo hiểm chi trả thực chất là một số tiền đã được “khoán” tương ứng với
một mức phí phải nộp và phương thức nộp phí.
Tuy nhiên, trong các bảo hiểm con người có phát sinh chi phí y tế thuộc trách
nhiệm bảo hiểm thì nguyên tắc bồi thường như trong bảo hiểm tài sản sẽ được vận
dụng để các định STBT cho chi phí y tế.
 Trong các HĐBH con người, khơng tồn tại điều khoản giá trị bảo hiểm. Thuật ngữ
“chi trả bảo hiểm” hoặc “thanh toán bảo hiểm” được sử dụng để thay thế cho “bồi
thường bảo hiểm” trong bảo hiểm thiệt hại.
 Khơng có điều khoản về bảo hiểm trùng. Trong BHCN mỗi đối tượng bảo hiểm có
thể đồng thời được bảo hiểm bằng nhiều hợp đồng với một hoặc nhiều DNBH
22

INS101_Bai1_v1.0013111228



Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

khác nhau. Khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, việc trả tiền bảo hiểm của từng hợp
đồng độc lập nhau. Chẳng hạn, ngày 10/5/2007 anh A ký kết HĐBH sinh mạng cá
nhân với DNBH X có STBH: 10 triệu đồng, và ký kết với DNBH Y một HĐBH
trợ cấp nằm viện phẫu thuật có STBH là 5 triệu đồng. Ngày 22/9/2007, trong một
vụ tai nạn, anh A bị thương nặng phải vào viện phẫu thuật nhưng sau đó bị tử
vong. Trong trường hợp này, người thừa kế hợp pháp của anh A sẽ nhận được
khoản tiền cao nhất bằng tổng STBH từ hai hợp đồng:
10 triệu đồng + 5 triệu đồng = 15 triệu đồng.
 Trong BHCN, khơng có sự thế quyền hợp pháp của
người bảo hiểm. Điều đó có nghĩa là người bảo hiểm sau
khi đã thanh toán, chi trả STBH, không được phép thế
quyền người tham gia bảo hiểm hay người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm để khiếu nại người thứ ba truy đòi số
tiền bồi thường tương ứng. Nói cách khác, một người có
thể đồng thời nhận được khoản thanh tốn chi trả của
cơng ty bảo hiểm và những khoản thanh toán bồi thường
của người thứ 3 gây ra tai nạn, thiệt hại.
1.3.2.

Phân loại theo kỹ thuật bảo hiểm

Các đặc trưng kỹ thuật được dùng làm căn cứ để phân loại BHTM thành bảo hiểm
theo kỹ thuật phân chia và bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích. Bảo hiểm theo kỹ thuật
phân chia là các bảo hiểm có thời hạn ngắn (thường là một năm) bảo đảm cho các rủi
ro có tính chất tương đối ổn định và độc lập với tuổi thọ con người. Khi có rủi ro được
bảo hiểm phát sinh trong thời hạn hợp đồng thì quĩ bảo hiểm được sử dụng để chi trả

ln. Bảo hiểm phi nhân thọ bao gồm các bảo hiểm về tài sản, về trách nhiệm dân sự
và các bảo hiểm con người phi nhân thọ khác chính là loại bảo hiểm theo kỹ thuật
phân chia. Kết quả thu – chi của các bảo hiểm này được phân bổ hết hàng năm.
Bảo hiểm theo kỹ thuật tồn tích có đặc trưng là thời hạn dài, quĩ được tích tụ qua
nhiều năm mới được sử dụng để chi trả. Bảo hiểm theo kỹ thuật tổn tích thường bảo
đảm cho các rủi ro có tính chất thay đổi rõ rệt theo thời gian và đối tượng, và thường
gắn liền với tuổi thọ con người. BHNT thuộc loại bảo hiểm có kỹ thuật tồn tích.
1.3.3.

Phân loại theo quy định pháp lý về tính bắt buộc

BHTM có thể phân loại thành bảo hiểm tự nguyện và bảo hiểm bắt buộc. Phần lớn các
sản phẩm BHTM đều là bảo hiểm tự nguyện. Việc tham gia bảo hiểm hay phụ thuộc
vào nhận thức và nhu cầu của người tham gia bảo hiểm. Các DNBH có đáp ứng được
hay không cũng tuỳ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ kỹ thuật nghiệp vụ của
cơng ty đó. Trong khi đó, bảo hiểm bắt buộc bao gồm các sản phẩm bảo hiểm mà luật
pháp có những qui định về điều kiện bảo hiểm, mức phí bảo hiểm, số tiền tối thiểu mà
tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và các DNBH có nghĩa vụ phải thực hiện. Bảo
hiểm bắt buộc thường gắn với các rủi ro có hậu quả tổn thất không chỉ ảnh hưởng đến
một đối tượng hay một chủ thể mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của tồn xã hội. Ví dụ
như bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới, bảo hiểm TNDS của chủ lao động đối với người
lao động,...
INS101_Bai1_v1.0013111228

23


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

1.4.


Ngành kinh doanh bảo hiểm

1.4.1.

Thị trường bảo hiểm

Thị trường là một phạm trù kinh tế được diễn dạt
dưới nhiều góc độ khác nhau. Theo nghĩa thông
thường nhất, thị trường là bất kỳ khung cảnh nào
mà trong đó có diễn ra việc mua và bán các loại
hàng hóa và dịch vụ. Trong một diễn đạt học thuật
hơn, "thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động
trao đổi hàng hoá được diễn ra trong sự thống nhất
hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh gắn
liền với một không gian nhất định". Từ khái niệm cơ bản trên, có thể hiểu đơn giản
“thị trường bảo hiểm là nơi diễn ra hoạt động mua và bán các sản phẩm bảo hiểm”.
Cũng như bất kỳ một thị trường hàng hóa nào, thị trường bảo hiểm có đầy đủ các
thành phần của thị trường. Cụ thể, đối tượng được trao đổi trên thị trường là các sản
phẩm bảo hiểm. Đây là các sản phẩm dịch vụ và có các đặc thù riêng, tạo nên nét
riêng khác của thị trường bảo hiểm so với các thị trường khác. Người mua bảo hiểm là
những cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu bảo vệ cho tài sản, trách nhiệm dân sự
(TNDS) trước pháp luật, hoặc tính mạng hoặc thân thể và thỏa thuận mua các sản
phẩm bảo hiểm mà bên bán cung cấp. Họ là các khách hàng bảo hiểm. Người bán là
các tổ chức cung cấp sản phẩm bảo hiểm trên thị trường, bao gồm các DNBH và các
hội tương hỗ bảo hiểm. Ngoài ra, các đặc điểm của thị trường bảo hiểm đòi hỏi sự
tham gia tích cực của các trung gian bảo hiểm – đó là đại lý bảo hiểm và mơi giới bảo
hiểm. Đây là các kênh phân phối truyền thống của thị trường bảo hiểm, đưa sản phẩm
bảo hiểm đến tay khách hàng bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm cịn có mặt các doanh
nghiệp tái bảo hiểm. Đây là các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm với tư cách là

“hậu thuẫn” cho các DNBH để thực hiện việc cung cấp sản phẩm bảo hiểm trên thị
trường (Xem thêm phần 2.3. Nguyên tắc Phân tán rủi ro).
Thị trường bảo hiểm có một số đặc điểm nổi bật sau:
 Thị trường bảo hiểm là một thị trường dịch vụ. Đặc điểm này của thị trường bảo
hiểm gắn với bản chất của sản phẩm bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ. Đó là các
cam kết bảo đảm mà các DNBH cung cấp cho các khách hàng của mình.
 Thị trường bảo hiểm là thị trường có thơng tin bất đối xứng. Đây là đặc điểm rất rõ
của thị trường bảo hiểm. Trong giao dịch bảo hiểm, chỉ có DNBH là người hiểu rõ
nhất các sản phẩm bảo hiểm mà họ cung cấp, thể hiện hữu hình qua các hợp đồng
bảo hiểm. Do đặc tính chun mơn cao của ngành bảo hiểm nên phía khách hàng
khơng thể biết và hiểu hết mọi điều kiện điều khoản được nêu trong hợp đồng bảo
hiểm. Sự hiểu biết của khách hàng bảo hiểm thông thường về sản phẩm bảo hiểm
họ mua phụ thuộc nhiều vào việc cung cấp và giải thích thơng tin của bên bán, là
các DNBH. Ngược lại, trong giao dịch bảo hiểm các DNBH lại là bên khơng thể
có đủ thơng tin về các đối tượng được bảo hiểm bằng các khách hàng bảo hiểm.
Các thông tin này lại vô cùng quan trọng đối với DNBH trong việc đưa ra quyết
định có nên bảo hiểm hay khơng và bảo hiểm với mức phí nào. Vì đặc điểm này
mà hoạt động kinh doanh bảo hiểm vừa phải tuân thủ theo nguyên tắc tin tưởng
24

INS101_Bai1_v1.0013111228


Bài 1: Tổng quan về bảo hiểm thương mại

tuyệt đối, vừa cần có bàn tay can thiệp của Nhà nước để đảm bảo lợi ích hợp pháp
cho các bên giao dịch bảo hiểm.
 Thị trường bảo hiểm chịu sự kiểm tra, kiểm soát rất chặt chẽ của Nhà nước. Nhà
nước có thể thiệp khá sâu vào hoạt động của các DNBH. Nhà nước khơng những
xét duyệt biểu phí, xác định giới hạn trách nhiệm bảo hiểm phải bồi thường trong

bảo hiểm TNDS mà cịn quyết định hình thức triển khai – bắt buộc hay tự nguyện
đối với một số sản phẩm bảo hiểm nhất định.
 Thị trường bảo hiểm có mối quan hệ gắn bó với thị trường tài chính. Hoạt động
bảo hiểm dựa vào một quỹ tài chính được tích lũy từ đóng góp của những người
tham gia bảo hiểm. Các DNBH quản lý quỹ và tìm các phương thức để tăng
trưởng quỹ, đảm bảo khả năng chi trả bảo hiểm và sinh lời cho doanh nghiệp. Các
dòng tiền vào ra quỹ bảo hiểm như thế nào có ảnh hưởng lớn đến các quyết định
đầu tư của DNBH trên thị trường tài chính.
1.4.2.

Doanh nghiệp bảo hiểm

Theo Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000, “Doanh
nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập,
tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh
doanh bảo hiểm và các qui định khác của pháp luật
có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm và kinh
doanh tái bảo hiểm”.
DNBH có thể được phân loại theo các tiêu thức
khác nhau. Theo lĩnh vực kinh doanh, trên thị trường bảo hiểm có DNBH nhân thọ,
DNBH phi nhân thọ, DNBH tài sản và trách nhiệm, DNBH con người và sức khỏe.
Theo chế độ sở hữu, cũng giống như các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế thị
trường, DNBH có thể là một cơng ty trách nhiệm hữu hạn hoặc là một công ty cổ
phần. Chẳng hạn, AIA là cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cịn Bảo Minh là công ty cổ
phần bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Ngoài ra, trên thị trường bảo hiểm của các nước có nền kinh tế chuyển đổi như Việt
Nam, các DNBH cịn được phân loại theo nhóm doanh nghiệp có yếu tố Nhà nước và
nhóm doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi. Trong các DNBH có yếu tố Nhà nước, vốn
của doanh nghiệp có đóng góp của Nhà nước, thậm chí phần vốn này cịn rất lớn.
Chẳng hạn như ở nước ta, các DNBH mà trước đây vốn là của Nhà nước dù sau nhiều

cải cách thị trường và nền kinh tế, các doanh nghiệp này giờ là các doanh nghiệp cổ
phần nhưng phần vốn góp của Nhà nước là chủ yếu. Chẳng hạn như Bảo Việt, PVI,
PTI, Bảo Minh,… Cịn các doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là các DNBH được cấp
phép hoạt động trên thị trường bảo hiểm nội địa và vốn góp của nước ngồi có thể là
một phần, có thể là 100%, ví dụ như Prudential, AIA,….
Kinh doanh bảo hiểm (KDBH) là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lợi, theo
đó DNBH chấp nhận rủi ro của NĐBH, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo
hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
được bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm (Luật KDBH, 2000).

INS101_Bai1_v1.0013111228

25


×