Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

(Luận văn thạc sĩ) người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------***-------

TRẦN THỊ HƢỜNG

NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-------***-------

TRẦN THỊ HƢỜNG

NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN CỦA
ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Dân sự

Mã số

: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2014


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
LỜI MỞ ĐẦU........................................................................................................ 1
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY
QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vị trí, vai trò của ngƣời đại diện theo ủy
quyền trong TTDS .................................................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS .......... 6
1.1.2. Đặc điểm của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS .... 9
1.1.3 Vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS ....... 12
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theo ủy quyền của đƣơng sự trong TTDS ............................................................ 14
1.3. Sơ lƣợc các quy định của pháp luật về ngƣời đại diện theo ủy quyền
của đƣơng sự trong TTDS từ năm 1945 đến nay ................................................ 17
1.3.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1989 .................. 17
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004 ....................................................... 20
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ................................................................. 21
1.4. Pháp luật một số nƣớc trên thế giới về ngƣời đại diện theo ủy quyền
của đƣơng sự trong TTDS ..................................................................................... 23
1.4.1. Quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
BLTTDS của Cộng hòa Pháp ................................................................................... 23

1.4.2. Quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
BLTTDS của Liên Bang Nga ................................................................................... 24
1.4.3. Quy định về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
BLTTDS của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa .......................................................... 26
Kết luận chƣơng 1 .............................................................................................. 27


Chƣơng 2
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO ỦY QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1. Về điều kiệu trở thành ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự ..... 28
2.1.1. Điều kiện về nội dung ................................................................................ 28
2.1.2. Điều kiện về hình thức ............................................................................... 34
2.2. Về phạm vi tham gia tố tụng của ngƣời đại diện theo ủy quyền của
đƣơng sự trong TTDS ............................................................................................ 34
2.3. Về quyền và nghĩa vụ tố tụng của ngƣời đại diện theo ủy quyền ........... 40
2.4. Về căn cứ thay đổi, chấm dứt đại diện theo ủy quyền và hậu quả
pháp lý ..................................................................................................................... 44
2.4.1. Căn cứ thay đổi, chầm dứt đại diện theo ủy quyền ................................... 44
2.4.2. Hậu quả pháp lý của chấm dứt đại diện ..................................................... 47
Kết luận chƣơng 2 .............................................................................................. 49
Chƣơng 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO
ỦY QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỔ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về ngƣời đại diện theo ủy quyền
của đƣơng sự trong TTDS ..................................................................................... 50
3.1.1. Một số vướng mắc, tồn tại trong thực tiễn thực hiện quy định về người
đại diện của đương sự .............................................................................................. 50

3.1.2. Những nguyên nhân của hạn chế trong việc thực hiện các quy định về
người đại diện theo ủy quyền trong TTDS .............................................................. 62
3.2. Một số kiến nghị về ngƣời đại diện theo ủy quyền của đƣơng sự
trong TTDS ............................................................................................................. 64
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong
TTDS ........................................................................................................................ 64


3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong
TTDS ........................................................................................................................ 71
Kết luận chƣơng 3 .............................................................................................. 74
KẾT LUẬN CHUNG ......................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 76


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Hƣờng



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN

BLDS

: Bộ luật dân sự

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTPTANDTC

: Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao

PLTTGQCVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

TA

: Tịa án

TAND

: Tồn án nhân dân

TTDS


: Tố tụng dân sự


LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việc tham gia TTDS góp phần vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự; giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án kịp thời, đúng pháp luật và quyền
bình đẳng của mọi cá nhân, cơ quan tổ chức trong TTDS là những nguyên tắc quan
trọng trong BLTTDS và phù hợp với nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp năm 1992
của nước ta. BLTTDS năm 2004 cũng đã quy định đương sự có quyền tham gia
phiên tòa; tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Vì vậy, chế định về người đại diện theo ủy quyền có ý nghĩa rất quan trọng.
Trong những năm vừa qua, từ hoạt động của mình, người đại diện theo ủy
quyền của đương sự trong TTDS đã và đang dần khẳng định được vị thế, vai trị của
mình trong tố tụng, ngày càng chứng tỏ là một trong những thành phần khó có thể
thiếu trong TTDS. Việc xác định đúng đắn vai trò của người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong TTDS là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng. Các
hoạt động của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS có tác động
không chỉ đến hoạt động của những người tham gia tố tụng mà đến cả hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần thúc đẩy sự dân chủ, tiến bộ của xã hội,
hoàn thiện và bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Chế định người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS được quy
định và ngày một hoàn thiện trong BLTTDS năm 2004. Luật Sửa đổi, bổ sung một
số điều của BLTTDS 2004 ra đời và có hiệu lực ngày 01/01/2012 cũng góp phần
hồn thiện về quyền và nghĩa vụ của người đại diện trong TTDS. Tuy nhiên, đó mới
chỉ là những quy định được pháp luật ghi nhận một cách chung nhất, khái quát nhất
về địa vị pháp lý cùng những vấn đề có liên quan đến người đại diện nói chung và
người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS mà lại thiếu những văn bản
giải thích, hướng dẫn thi hành dẫn tới việc thực hiện những quy định này cịn nhiều

thiếu sót, bất cập. Thực tiễn trong q trình tố tụng tại TA cho thấy cịn tồn tại
nhiều trường hợp hình thức, nội dung văn bản ủy quyền tham gia tố tụng không rõ

1


ràng dẫn đến việc xác định sai người dại diện; xác định phạm vi đại diện theo ủy
quyền không rõ ràng làm hạn chế quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo ủy
quyền... cũng như khiến cho người đại diện theo ủy quyền lúng túng, gặp khó khăn
trong quá trình tham gia tố tụng.
Xuất phát từ vai trị của người đại diện theo ủy quyền, thực tiễn pháp luật và
thực tiễn tố tụng, việc tìm hiểu, nghiên cứu về người đại diện theo ủy quyền của
đương sự trong TTDS đã trở thành một nhu cầu cấp bách… Mặt khác, các quy định
của pháp luật cũng như các cơng trình nghiên cứu về người đại diện theo ủy quyền
trong TTDS còn hạn chế, và cần thiết phải nghiên cứu một cách đầy đủ và hoàn
chỉnh về chế định người đại diện theo ủy quyền. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài
“Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS Việt Nam" làm Luận
văn tốt nghiệp .
1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực TTDS đã có nhiều tác giả, nhiều cơng trình nghiên cứu về
người đại diện của đương sự nói chung. Về luận án, luận văn, khóa luận, bài viết có
những cơng trình sau đây: Luận án tiến sĩ luật học "Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong tố tụng dân sự" của nghiên cứu sinh Nguyễn Cơng Bình năm 2006;
Luận văn thạc sĩ luật học "Người đại diện của đương sự trong TTDS" của tác giả
Nguyễn Thị Ngọc Hà năm 2012; Khóa luận tốt nghiệp "Chế định người đại diện
của đương sự trong pháp luật TTDS Việt Nam" của tác giả Phùng Thị Thương năm
2012; Khóa luận tốt nghiệp "Người đại diện của đương sự trong TTDS" của tác giả
Hồ Nguyên Bình năm 2010; bài viết “Một số suy nghĩ về đại diện của đương sự
trong TTDS” của tác giả Tưởng Duy Lượng đăng trên Tạp chí Khoa học pháp luật
số 01 (38) 2007... Những cơng trình trên đây đều nghiên cứu một cách tổng thể về

người đại diện, cũng như được khai thác dưới góc độ bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự; bảo đảm sự tham gia tố tụng của người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự... và là cơ sở để có những cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu hơn về người đại diện theo ủy quyền của đương sự.
Tuy nhiên, hiện nay các công trình nghiên cứu về người đại diện theo ủy

2


quyền cịn hạn chế, đã có các bài viết như sau: "Ủy quyền tham gia tố tụng" của tác
giả Nguyễn Văn Tùng đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 02/2000; “Bàn về quyền
người đại diện theo ủy quyền của đương sự được quy định tại Điều 243 Bộ luật tố
tụng dân sự” của tác giả TS. Nguyễn Văn Dũng đăng trên Tạp chí Nghề luật số
04/2006; "Một người có thể ủy quyền cho nhiều người tham gia tố tụng" của Thạc
sỹ Nguyễn Hải An đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 17/2006; "Một số vấn đề
về người đại diện theo ủy quyền và người đại diện do tòa án chỉ định trong tố tụng
dân sự" của tác giả Nguyễn Thị Hạnh đăng trên Tạp chí Nghề luật số 06/2010...
Những cơng trình nghiên cứu này cũng chỉ đề cập một cách chung chung, khái quát,
hoặc tập trung nghiên cứu về một số khía cạnh cụ thể của đại diện theo ủy quyền
mà chưa đi sâu vào nghiên cứu chế định người đại diện theo ủy quyền của đương sự
trong TTDS một cách tổng thể, toàn diện nhất.
1.3. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung các quy định
của pháp luật hiện hành về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
TTDS… Qua thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện theo
ủy quyền của đương sự trong TTDS, thấy được những bất cập, hạn chế trong những
quy định của pháp luật về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
và thực tiễn thực hiện, tìm ra nguyên nhân của nó để đề xuất các kiến nghị nhằm
nâng cao vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự TTDS.
1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Dựa trên cơ sở mục đích nghiên cứu của đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên
cứu được xác định như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong TTDS như khái niệm, đặc điểm, vai trò… của người đại diện
theo ủy quyền trong TTDS; phân loại người đại diện theo ủy quyền trong TTDS...
- Nghiên cứu các quy định hiện hành của pháp luật TTDS Việt Nam về
người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS như quy định của BLTTDS
năm 2004; các quy định của Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS về

3


những vấn đề liên quan đến người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
như quy định về điều kiện trở thành người đại diện theo ủy quyền; các căn cứ làm
phát sinh và phạm vi đại diện theo ủy quyền, những trường hợp không được làm
người đại diện theo ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của người đại diện, hậu quả pháp
lý của việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong TTDS…
- Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện các quy định của pháp luật hiện hành
về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS tại các Tồ án trong
những năm qua.
2. Tính mới trong nội dung nghiên cứu của đề tài, phƣơng pháp nghiên
cứu và kết cấu của luận văn
2.1. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn về đề tài “Người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
Việt Nam” cho ta có cái nhìn đây đủ hơn về khái niệm, đặc điểm, vai trò của người
đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS, qua đó đưa ra được các cách
phân loại và cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về người đại diện theo
ủy quyền của đương sự.
Đặc biệt, Luận văn đã phân tích rõ các quy định của pháp luật hiện hành về
người đại diện theo ủy quyền của đương sự, cũng như thực tiễn thực hiện các quy

định của pháp luật về người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng từ năm 2005 trở
lại đây, từ đó rút ra những hạn chế thiếu sót của pháp luật về vấn đề này và đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện pháp luật về người đại diện theo ủy
quyền của đương sự trong TTDS Việt Nam.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp chủ
yếu được sử dụng trong việc nghiên cứu đề tài bao gồm phương pháp phân tích,
tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu… Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu
khác cũng được sử dụng như phương pháp thống kê, thu thập, xử lý thông tin từ các
nguồn tài liệu khác nhau.

4


2.3. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Đặt vấn đề , Nội dung và Kết luận. Nội dung của
Luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn vấn đề lý luận cơ bản về người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về
người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong tố tụng dân sự.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về người đại diện theo ủy quyền
của đương sự trong TTDS Việt Nam và một số kiến nghị.

5


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGƢỜI ĐẠI DIỆN THEO

ỦY QUYỀN CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vị trí, vai trò của ngƣời đại diện theo ủy
quyền trong TTDS
1.1.1. Khái niệm người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
Để tìm hiểu rõ khái niệm người đại diện theo ủy quyền trong TTDS thì trước
hết phải làm rõ được khái niệm về đương sự được đại diện, bản chất của đại diện
trong tố tụng dân sự. Từ đó đi sâu phân tích làm rõ về khái niệm về đại diện theo ủy
quyền. Đây là phần định hướng tiên quyết để có thể nghiên cứu được các nội dung
cơ bản nhất về đại diện theo ủy quyền của đương sự.
“Đương sự” là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận dưới nhiều góc độ. Đã có
nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra nhưng theo Từ điển tiếng Việt thì “đương
sự là người, là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải quyết” [31, tr.346], còn
theo Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì đương sự là người có liên quan trực tiếp đến
một việc. Trong khoa học pháp lý thì đương sự được hiểu “là người có quyền,
nghĩa vụ được giải quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [14, tr.165].
Như vậy, đương sự là người có liên quan trực tiếp trong một vụ việc nào đó đang
được đưa ra xem xét, giải quyết. Nghĩa là các chủ thể được coi là đương sự phải là
những chủ thể có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp với việc xem xét, giải quyết vụ
việc đó. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác không phải là đương sự trong vụ
việc khi khơng có quyền, lợi ích liên quan trực tiếp tới vụ việc cụ thể đang được
giải quyết. Tùy từng vụ việc mà các chủ thể được xác định là đương sự là khác
nhau. Yếu tố quyền, lợi ích là yếu tố chủ yếu để phân biệt đương sự với người đại
diện của họ.
Về khái niệm đương sự trong TTDS, theo Giáo trình Luật TTDS Việt Nam,
đương sự được hiểu “là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình hoặc bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩn h
vực mình phụ trách do có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự” [48,

6



tr.105]. Mặt khác, xét về lý luận thì TTDS là trình tự, thủ tục giải quyết các tranh
chấp, yêu cầu phát sinh trong lĩnh vực tư gồm có: Dân sự, hơn nhân và gia đình,
kinh doanh - thương mại, lao động. Theo cuốn Từ điển luật học của Viện khoa học
pháp lý, Bộ Tư pháp thì "TTDS là trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho
việc xem xét giải quyết vụ án và thi hành án dân sự" [53, tr.785]. Như vậy, đương
sự trong TTDS là chủ thể tham gia vào quá trình TA giải quyết các tranh chấp, u
cầu về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình đang có tranh chấp hoặc cần phải xác định.
Theo quy định tại Điều 139 BLDS năm 2005, “Đại diện là việc một người
(sau đây gọi là người đại diện) nhân danh và vì lợi ích của người khác (sau đây gọi
là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện”
[36, Điều 139]. Trong TTDS, để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình các
đượng sự thường tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Tuy vậy,
trong một số trường hợp, người khác có thể thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng
của họ và từ đó đã hình thành quan hệ đại diện. Những người thực hiện quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể trong các quan hệ pháp luật được gọi là người đại diện.
Khái niệm người đại diện của đương sự được TS Nguyễn Cơng Bình phân tích cụ
thể trong Giáo trình Luật TTDS Việt Nam như sau “là người tham gia tố tụng thay
mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho đương sự trước Tòa án” [48, tr.115]. Như vậy, đại diện được hiểu là một
quan hệ pháp luật, một mối liên hệ pháp lý. Đó là mối liên hệ giữa người đại diện
với người được đại diên. Chủ thể của quan hệ đại diện bao gồm người đại diện và
người được đại diện. Người đại diện trong TTDS có thể tham gia tố tụng dựa trên
những mối quan hệ pháp lý đã tồn tại trước đó như quan hệ đại diện của pháp nhân
và người đứng đầu pháp nhân, giữa chủ hộ với các thành viên của hộ gia đình, tổ
trưởng tổ hợp tác với tổ hợp tác; quan hệ giữa người đại diện, giám hộ với cá nhân
khơng có năng lực hành vi dân sự… Người đại diện này cũng có thể tham gia tố
tụng theo sự chỉ định của TA hoặc bằng chính sự ủy quyền của đương sự hay người
đại diện hợp pháp của họ.


7


Có nhiều lý do khác nhau để đương sự là cá nhân, người đại diện theo pháp
luật của pháp nhân, của hộ gia đình, tổ trưởng tổ hợp tác… khơng thể trực tiếp xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Pháp luật cho phép những chủ thể này có thể ủy
quyền cho người khác thay mặt mình tham gia giao dịch. Theo khoản 1 Điều 142
BLDS “Đại diện theo ủy quyền là đại diện được xác lập theo sự ủy quyền giữa
người đại diện và người được đại diện. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản”
[36, Điều 142]. Vì vậy, xét về mặt bản chất pháp lý, trong TTDS, quan hệ ủy quyền
được xác lập giữa người đại diện theo ủy quyền với đương sự và quan hệ giữa
người đại diện theo ủy quyền với các cơ quan tố tụng trong phạm vi mà đương sự
ủy quyền. Theo khoản 2 Điều 74 BLTTDS thì “Người đại diện theo uỷ quyền trong
TTDS thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS theo nội dung văn bản uỷ quyền” [35].
Việc nghiên cứu cũng cho thấy tuy cùng là đại diện thay mặt đương sự theo
sự ủy quyền nhưng người đại diện này cũng có thể tồn tại dưới nhiều hình thức khác
nhau:
Nếu nhìn nhận dưới góc độ phạm vi ủy quyền giữa người đại diện theo ủy
quyền và đương sự TTDS thì người đại diện theo ủy quyền bao gồm người đại diện
theo ủy quyền toàn bộ và đại diện theo ủy quyền một phần, theo đó, đương sự có
thể ủy quyền cho người đại diện thực hiện toàn bộ hoặc chỉ một hay một vài công
việc cụ thể trong suốt quá trình tham gia tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của
đương sự. Khi thực hiện ủy quyền tồn quyền, đồng nghĩa với việc người đại diện
theo ủy quyền có các quyền và mang nghĩa vụ của đương sự khi tham gia tố tụng.
Ngoài ra, nếu dựa vào chủ thể được đại diện có thể thì người đại diện theo ủy
quyền có thể là người đại diện cho cá nhân và người đại diện cho cơ quan, tổ chức.
Theo đó, người đại diện cho cá nhân là người được cá nhân uỷ quyền tham gia vào
tố tụng dân, thay mặt cho cá nhân - một con người riêng biệt, cụ thể - thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mà

mình đại diện. Người đại diện cho cơ quan, tổ chức là người được cơ quan, tổ chức
uỷ quyền tham gia vào TTDS, thay mặt cho cơ quan, tổ chức thực hiện các quyền
và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức mà

8


mình đại diện.
Nếu xét theo vị trí của người được đại diện thì người đại diện theo ủy quyền
có thể bao gồm người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn, người đại diện theo
ủy quyền cho bị đơn và người đại diện theo ủy quyền cho người có quyền lợi, nghĩa
vụ có liên quan trong vụ án dân sự.
Từ những luận giải trên và trên cơ sở kế thừa và phát triển các cơng trình
nghiên cứu trước đây có thể đưa ra khái niệm đại diện theo ủy quyền trong TTDS
như sau: Đại diện theo ủy quyền trong TTDS là đại diện được xác lập theo sự ủy
quyền giữa bên đại diện và bên được đại diện thông qua văn bản ủy quyền, theo đó
bên đại diện nhân danh và vì quyền lợi của bên được đại diện thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi ủy quyền để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bên
được đại diện.
1.1.2. Đặc điểm của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong
TTDS
Người đại diện theo ủy quyền của đương sự là người người tham gia tố tụng
thay mặt đương sự nên mang đầy đủ đặc điểm chung về người tham gia tố tung,
người đại diện của đương sự như chủ thể, mục đích đại diện…, cũng như mang
quyền và nghĩa vụ của người được đại diện là đương sự trong vụ án dân sự. Tuy
nhiên, do cơ sở pháp lý tham gia đại diện trong tố tụng là khác nhau nên người đại
diện theo ủy quyền trong TTDS cũng có những đặc điểm riêng biệt nhất định. Căn
cứ vào những phân tích cũng như khái niệm ở mục trên có thể đưa ra những đặc
điểm về người đại diện theo ủy quyền của đương sự như sau:
- Thứ nhất, về mặt chủ thể thì thơng thường người đại diện theo ủy quyền

của đương sự phải là cá nhân có năng lực hành vi dân sự
Bởi các cá nhân mới tự mình chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng
theo sự ủy quyền của đương sự trong tố tụng được. Cá nhân phải là người có năng
lực hành vi TTDS. Năng lực hành vi TTDS là khả năng của cá nhân bằng hành vi
của mình xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ TTDS. Năng lực hành vi TTDS có
mối quan hệ mật thiết với năng lực hành vi dân sự. Một chủ thể được xác định là có

9


năng lực hành vi TTDS nếu chủ thể đó có năng lực hành vi dân sự. Những người
khơng có năng lực hành vi TTDS thì khơng thể thực hiện được các quyền, nghĩa vụ
tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tồ án được. Về lý
luận người có năng lực hành vi TTDS đầy đủ phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên. Vì
vậy, chỉ những người này mới có thể trở thành người đại diện cho đương sự trong tố
tụng dân sự. Đây là điểm khác biệt với người đại diện trong quan hệ dân sự, theo đó
trong quan hệ dân sự thì người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có
thể là người đại diện theo uỷ quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch
dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện [36, Điều 143].
Thông thường đương sự lựa chọn ủy quyền cho cá nhân hoặc người đại diện
của pháp nhân, người đứng đầu tổ chức; hoặc một người nào đó cụ thể trong tổ
chức, pháp nhân đứng ra trực tiếp thực hiện công việc ủy quyền nhưng không ủy
quyền cho cho tổ chức, pháp nhân tham gia tố tụng. Bởi lẽ, trách nhiệm của cá nhân
người đại diện là trách nhiệm vô hạn khi thực hiện cơng việc được ủy quyền tại TA,
cịn trách nhiệm của pháp nhân, tổ chức là trách nhiệm hữu hạn. Tuy nhiên, pháp
luật của một số nước lại cho phép đương sự có thể ủy quyền cho pháp nhân, tổ
chức. Về đặc điểm này, khác với quy định về người đại diện theo pháp luật, theo đó,
vẫn có trường hợp ngoại lệ như cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người khác. Đó là, theo Điều 162 BLTTDS thì Cơ quan Dân số, Gia
đình, và Trẻ em; Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền

hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án hơn nhân và gia đình trong trường hợp do
Luật hơn nhân và gia đình quy định; Cơng đồn cấp trên của Cơng đồn cơ sở có
quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể người lao động do Luật lao động quy định; Cơ quan, tổ chức trong
phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để u cầu
Tồ án bảo vệ lợi ích cơng cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mà mình phụ
trách [35]. Đối với các pháp nhân, việc thực hiện các hành vi tố tụng thông qua
người đứng đầu pháp nhân, do đó pháp nhân khơng thể là người đại diện theo ủy
quyền cho đương sự được, vì sẽ rất phức tạp và rắc rối trong trường hợp “đại diện

10


của đại diện theo ủy quyền này”.
- Thứ hai, quan hệ đại diện giữa người đại diện theo ủy quyền và đương sự
trong TTDS được xác lập theo phạm vi ủy quyền
Khác với người đại diện theo pháp luật và người đại diện do TA chỉ định,
người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự hoặc
người đại diện theo pháp luật của họ ủy quyền thay mặt đường sự trong tố tụng dân
sự. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người đại diện tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật. Người
đại diện theo pháp luật của đương sự đương nhiên được tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khi thấy cần thiết. Phạm vi tham gia tố tụng
của đại diện theo pháp luật của đương sự không bị hạn chế trong các loại việc. Còn
quan hệ giữa người đại diện do TA chỉ định và đương sự thì dựa theo sự chỉ định
của TA. Người đại diện do TA chỉ định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của
TA chỉ định họ đại diện cho đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện
do TA chỉ định không bị hạn chế trong các loại việc. Về phạm vi ủy quyền trong
quan hệ ủy quyền giữa người đại diện theo ủy quyền và đương sự, đương sự có thể
ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng trong các loại việc, nhưng đối với

việc trong quan hệ hơn nhân (ly hơn) thì pháp luật quy định đương sự không được
ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng. Đương sự có thể ủy quyền cho người đại
diện thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, do tính
chất, u cầu của việc giải quyết vụ việc dân sự sau khi ủy quyền cho người đại
diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để bổ sung cho hoạt động của người
đại diện.
Quan hệ đại diện theo ủy quyền của đương sự được xác lập giữa người đại
diện theo ủy quyền với đương sự và quan hệ giữa người đại diện với các cơ quan tố
tụng, cụ thể là TA trong phạm vi mà đương sự ủy quyền. Đặc điểm này khác biệt
so với quan hệ đại diện ủy quyền trong dân sự, thương mại: là quan hệ được xác lập
giữa người đại diện và người được đại diện theo ủy quyền; giữa người đại diện theo
ủy quyền và bên thứ ba trong giao dịch dân sự, thương mại nhắm xác lập, thực hiện

11


giao dịch dân sự, hợp đồng.
- Thứ ba, về mục đích tham gia tố tụng thì người đại diện theo ủy quyền thay
mặt đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ theo phạm vi ủy
quyền
Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, chủ hộ
gia đình khơng trực tiếp tham gia tố tụng được, thì việc ủy quyền tạo điều kiện cho
những chủ thể này có thể thể hiện ý chí, nguyện vọng trước TA, và người đại diện
theo ủy quyền sẽ thay mặt họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong quá trình tố tụng. Mặt khác, việc
tham gia tố tụng của họ cịn có tác dụng nhất định trong việc làm rõ sự thật của vụ
việc dân sự. Quan hệ ủy quyền trong TTDS khác với quan hệ ủy quyền trong dân sự
về mục đích đạt được: Người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng thay mặt
đương sự nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích
của đương sự; cịn người đại diện theo ủy quyền trong dân sự thực hiện công việc

ủy quyền nhằm mang lại lợi ích cho người ủy quyền thơng qua việc xác lập và thực
hiện giao dịch thay mặt bên ủy quyền. Vì sự khác nhau đó, mà việc ủy quyền giữa
đương sự và người đại diện theo ủy quyền khi tham gia tố tụng bắt buộc phải được
tiến hành dưới hình thức văn bản, có cơng chứng chứng nhận. Còn với quan hệ đại
diện theo ủy quyền trong dân sự, thương mại thì chỉ phải cơng chứng, chứng thực
trong những trường hợp nhất định như tài sản bắt buộc phải đăng ký quyền sở hữu,
sử dụng hoặc do tính chất cơng việc hay cá nhân, cơ quan, tổ chức tiếp nhận văn
bản ủy quyền...
1.1.3 Vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS
Khi nghiên cứu chủ thể tham gia vào TTDS, việc hiểu biết về vị trí, vai trị
của họ, chúng ta sẽ nhận định đúng đắn hơn về tầm quan trọng của chủ thể đó. Theo
Từ điển Tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học thì khái niệm vai trị là “Tác dụng, chức
năng trong hoạt động, sự phát triển của cái gì đó” [54, tr.1095]. Như vậy, chúng ta
có thể hiểu, vai trò của người đại diện theo ủy quyền của đương sự là những tác
động, chức năng của người đại diện theo ủy quyền trong hoạt động tố tụng và quá

12


trình tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vai trị
của người đại diện theo ủy quyền được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, người đại diện theo ủy quyền có vai trị thay mặt đương sự tham
gia TTDS. Điều này thể hiện đúng với nguyên tắc bình đẳng pháp luật, tạo điều
kiện cho những đương sự là cá nhân, tổ chức, chủ hộ gia đình khơng trực tiếp tham
gia tố tụng vì nhiều lý do khác nhau như vướng mắc về việc gia đình đột xuất, ốm
đau, khó khăn đi lại, khơng có thời gian do phải đảm nhiệm công việc cơ quan, do
phải lao động theo hợp đồng…. có thể ủy quyền cho người khác hoặc luật sư tham
gia tố tụng. Ngoài ra, trong xã hội hiện đại, việc giải quyết các vấn đề pháp lý phức
tạp cần sự chun mơn hóa cao ngày càng được coi trọng, nên việc đương sự cần
tìm người hiểu biết, có kinh nghiệm thay mặt mình tham gia tố tụng là điều hoàn

toàn tất yếu.
Thứ hai, người đại diện theo ủy quyền có vai trị to lớn trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Trong trường hợp, đương sự không thể
trực tiếp đến TA, tức là không thể tự bảo vệ cho chính mình được, thì có thể ủy
quyền cho người khác thay mặt mình để bảo vệ quyền lợi đó. Bên cạnh đó, thực tế ở
Việt Nam, người đại diện theo ủy quyền của đương sự đa số là luật sư, là những
người có trình độ chuyên ngành luật cao, có kinh nghiệm và hiểu biết pháp luật, nên
khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự càng cao hơn, góp phần
cùng với cơ quan tố tụng làm rõ sự thật vụ án. Đặc biệt, hoạt động tích cực của luật
sư với vai trò là người đại diện theo ủy quyền cho đương sự cũng góp phần khơng
nhỏ vào việc bảo vệ công lý. Hoạt động của luật sư tuy không phải là hoạt động tư
pháp, nhưng lại có mối liên hệ gắn chặt với hoạt động tư pháp, hỗ trợ cho hoạt động
tư pháp. Hoạt động của luật sư có thể xem như một công cụ hữu hiệu để giúp cho
các cá nhân, tổ chức bảo vệ được các quyền và lợi ích chính đáng của mình, góp
phần làm cho việc giải quyết vụ việc dân sự của TA được thuận lợi, bảo vệ được
pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, đối với cơ quan tiến hành tố tụng thì việc đánh giá đúng vai trò của
người đại diện theo ủy quyền của đương sự sẽ tạo ra sự phối hợp cần thiết giữa TA

13


và người đại diện trong việc đi tìm ra sự thật, qua đó đảm bảo những quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự mà mình đại diện. Vì vậy, TA cần hết sức tạo điều kiện
để phát huy khả năng của người đại diện theo ủy quyền, đặc biệt là luật sư khi tham
gia tố tụng.
Đối với đương sự, cần có quyết định đúng đắn khi lựa chọn người đại diện
theo ủy quyền cho mình, để được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tốt
nhất. Qua người đại diện theo ủy quyền, không những họ bảo vệ được quyền, lợi ích
của mình mà cịn nâng cao được nhận thức pháp luật, tôn trọng và tuân thủ pháp

luật. Ngồi ra, chính bản thân người đại diện theo ủy quyền cũng cần được xác định
đúng vai trò của mình trong TTDS. Nếu xác định đúng vị trí, vai trị của mình, họ sẽ
chủ động hơn trong việc thay mặt đương sự thực hiện những quyền, nghĩa vụ nhất
định. Họ sẽ biết mình phải làm gì và làm như thế nào để thực hiện tốt đúng chức
trách của họ - những người đại diện, thay mặt cho đương sự trước TA.
Với những vai trò nêu trên, quy định của pháp luật Việt Nam về đại diện
theo ủy quyền có ý nghĩa trong việc thực hiện công tác trợ giúp xã hội, là một trong
những thành quả trí tuệ pháp lý và hoàn toàn phù hợp với thực tiễn cũng như tương
đồng với pháp luật tố tụng của các nước trên thế giới.
1.2. Cơ sở khoa học của việc xây dựng các quy định về ngƣời đại diện
theo ủy quyền của đƣơng sự trong TTDS
- Thứ nhất, việc xây dựng các quy định về người đại diện theo ủy quyền
được tiến hành trên cơ sở nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự
Theo đó, quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định tham gia tố
tụng dân sự, tự quyết định quyền và lợi ích của họ trong TTDS theo quy định của
pháp luật và trách nhiệm của TA giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Nguyên tắc quyền tự định đoạt đặt ra yêu cầu bảo đảm quyền tham gia tố
tụng của đương sự. Pháp luật cho phép đương sự có quyền tham gia tố tụng bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, và khi họ khơng thể tự thực hiện quyền đó thì
có quyền nhờ luật sư hoặc ủy quyền cho một người khác đủ điều kiện tham gia tố

14


tụng thay mặt họ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Mặt khác, phạm vi ủy
quyền tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền cũng do đương sự tự
quyết định, có thể người đại diện theo ủy quyền chỉ tham gia vào một phần hoặc
tồn bộ q trình tố tụng tại TA. Chính nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
tạo cơ sở cho việc hình thành các quy định về người đại diện theo ủy quyền và là cơ

sở để TA tạo điều kiện cho người đại diện theo ủy quyền của đương sự tham gia tố
tụng thực hiện tốt vai trò thay mặt đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự.
- Thứ hai, việc xây dựng các quy định về người đại diện theo ủy quyền được
tiến hành trên cơ sở đảm bảo quyền tham gia tranh tụng tại TA để bảo vệ quyền và
lợi ích của đương sự:
Trong TTDS thì các đương sự sẽ tự mình đưa ra các chứng cứ , lý lẽ để b ảo
vê ̣ quyề n lơ ̣i c ủa mình . Tuy nhiên , thực tiễn xét xử cho thấ y không phải bấ t kì
đương sự nào cũng có thể làm đươ ̣c điề u đó . Đương sự vì nhiều lý do chưa chắc đã
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách tốt nhất. Từ đó, những đương
sự này cần đến người đại diện, người sẽ thay mặt họ tham gia tố tụng để bảo vê ̣
quyề n lơ ̣i cho ho ̣ tố t hơn. Khi tham gia tố tụng với tư cách người đại diện của đương
sự, để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì pháp luật cần phải
trao cho người đại diện của đương sự các quyền và nghĩa vụ tố tụng như của đương
sự.
- Thứ ba, việc xây dựng các quy định về người đại diện theo ủy quyền được
tiến hành trên cơ sở đảm bảo mối liên hệ giữa BLDS và BLTTDS trong việc quy
định về người đại diện theo ủy quyền
TTDS và dân sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nếu như dân sự được
hiểu là các vấn đề liên quan đến nhân thân và tài sản, thì TTDS cũng xuất phát từ
mối quan hệ nhân thân và tài sản song chỉ phát sinh khi có tranh chấp xảy ra và có
nhu cầu giải quyết các tranh chấp đó. Các chủ thể tham gia trong mối quan hệ pháp
luật dân sự và TTDS đều giống nhau bởi luôn hướng đến các quyền dân sự, kinh tế
mà chính đối tượng của quan hệ dân sự (tài sản và nhân thân) mang lại. Bởi vậy,

15


khoản 3 Điều 73 BLTTDS quy định “Người đại diện theo uỷ quyền được quy định
trong Bộ luật dân sự là người đại diện theo uỷ quyền trong TTDS; đối với việc ly

hôn, đương sự không được uỷ quyền cho người khác thay mặt mình tham gia tố
tụng” [35]. BLDS năm 2005 quy định về người đại diện theo ủy quyền tại Khoản 1
Điều 143 và Khoản 2, Điều 144 như sau: “Cá nhân, người đại diện theo pháp luật
của pháp nhân có thể ủy quyền cho người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”
[36] và “Phạm vi đại diện theo ủy quyền được xác lập theo sự ủy quyền" [36]. Quy
định này hợp lý bởi quan hệ đại diện ra đời chủ yếu là để bảo vệ những đối tượng
thiệt thịi trong xã hội (khơng thể tự bảo vệ). Cùng là quan hệ đại diện, đại diện
trong TTDS và đại diện trong dân sự đều phải thể hiện được mục đích này.
Hơn nữa, hoạt động TTDS có mục đích là giải quyết các tranh chấp trong
quan hệ dân sự, nên các chủ thể đại diện cho các chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp
trong các quan hệ pháp luật dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động thông thường sẽ tiếp tục là chủ thể đại diện trong quan hệ TTDS, trừ trường
hợp đại diện mang tính chất vụ việc. Ngồi ra, quan hệ đại diện trong TTDS chỉ
xuất hiện khi có căn cứ nhất định. Như vậy, có thể trong q trình tố tụng quan hệ
đại diện mới phát sinh, và khi đó đại diện trong TTDS sẽ khơng đồng nhất với đại
diện trong quan hệ dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động.
- Thứ tư, việc xây dựng các quy định về người đại diện theo ủy quyền xuất
phát từ đòi hỏi của thực tiễn tố tụng tại TA
Thực tế cho thấy, đương sự vì lý do ốm đau, hoặc bận nên cần phải ủy
quyền cho người khác thay mặt và nhân danh mình tham gia TTDS. Hoặc cũng có
những trường hợp, đương sự vì nói năng khơng lưu lốt, thiếu hiểu biết pháp luật
muốn ủy quyền cho luật sư tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Cũng tương tự như vậy, người đại diện của tổ chức, chủ hộ gia đình khơng
trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy quyền cho luật sư hoặc người khác tham gia tố
tụng thì người được ủy quyền cũng là người được đại diện theo ủy quyền. Như vậy,
cơ sở thực tiễn đã chỉ ra nhu cầu về việc cần phải quy định về người đại diện theo
ủy quyền để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đảm bảo quyền tiếp

16



cận công lý và quyền tự định đoạt của đương sự.
1.3. Sơ lƣợc các quy định của pháp luật về ngƣời đại diện theo ủy quyền
của đƣơng sự trong TTDS từ năm 1945 đến nay
Nhìn tổng quát thì từ năm 1989 đến nay, pháp luật về TTDS mới đưa ra
được khái niệm và các quy định về người đại diện theo ủy quyền, nhưng từ năm
1945 đã hình thành những chế định liên quan đến người đại diện của đương sự, từ
đó làm cơ sở cho việc xây dựng chế định về người đại diện theo ủy uyền sau này.
Dựa vào quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước và pháp luật Việt Nam từ
năm 1945 cho đến nay, có thể chia sự phát triển của các quy định của pháp luật
TTDS Việt Nam về người đại diện theo ủy quyền của đương sự trong TTDS thành
các giai đoạn sau.
1.3.1. Giai đoạn từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1989
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam đân chủ cộng
hồ ra đời, bộ máy Tư pháp được tổ chức lại. Chủ tịch nước Hồ Chí Minh đã đọc
bản tun ngơn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày
13/09/1946, để tổ chức bộ máy cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký vào Sắc lệnh Số 33C ngày 13/09/1945 về
việc thành lập Toà án quân sự, trong đó khẳng định “bị cáo có thể tự bào chữa hay
nhờ người khác bênh vực cho mình” [11]. Đây chính là cơ sở cho việc sau này pháp
luật nước ta ban hành các quy định sau này như đương sự có quyền “tự bảo vệ hoặc
nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình” [35, Điều 58, khoản 1]
và các quy định về người đại diện của đương sự trong q trình tố tụng nói chung
và TTDS nói riêng sau này.
Ngày 23/09/1946, được sự giúp đỡ của qn Anh, thực dân Pháp đã tấn cơng
Sài Gịn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lực nước ta lần thứ hai. Ngày 19/12/1946,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Đảng và Nhà nước ta vẫn
không ngừng quan tâm đến nhân dân, vẫn xây dựng và ban hành được nhiều văn
bản pháp luật, trong đó có các quy định về đảm bảo quyền tự bảo vệ hay nhờ người
khác bảo vệ của đương sự trong TTDS, tiền đề để xây dựng các quy định về “người


17


đại diện của đương sự”. Theo đó, ngày 22/12/1949, Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh
số 44/SL mở rộng quyền bào chữa cho các đương sự. Ngay tại Điều 1 Sắc lệnh này
đã khẳng định “trước các Toà án…nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một
cơng dân khơng phải là luật sư bênh vực mình”. Đây chính là một trong những quy
định đầu tiên về việc đương sự được quyền nhờ người khác thay mặt mình bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp trước Tồ án.
Sau đó, ngày 22/05/1950, Nhà nước ta lại tiếp tục ban hành Sắc lệnh số
85/SL về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Theo quy định tại Điều 2 Sắc
lệnh này thì “luật sư có thể được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đương sự”[12].
Sau những năm chiến đấu gian khổ, đến năm 1954, với thắng lợi tại Hiệp
định Giơnever, miền Bắc được hồn tồn giải phóng, miền Nam vẫn nằm dưới ách
thống trị của chính quyền Nguỵ Sài Gịn. Kể từ khi hồ bình được lập lại ở miền
Bắc, bên cạnh việc phát triển kinh tế - chính trị - xã hội, chuẩn bị sức người, sức của
cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì Đảng và Nhà nước ta
cũng khơng ngừng xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật. Trong thời gian này,
một loạt các văn bản pháp luật quan trọng được ban hành mà nổi bật nhất là việc
Hiến pháp 1959 ra đời thay cho Hiến pháp 1946, trong đó nêu rõ “Hiến pháp năm
1946 đã hồn thành sứ mệnh cách mạng của nó. Nhưng so với tình hình và nhiệm
vụ cách mạng mới hiện nay thì nó khơng thích hợp nữa” [31].
Trong lĩnh vực TTDS, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy
định, hướng dẫn về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, trong đó có các
văn bản liên quan đến quyền nhờ người khác thay mặt mình bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp trước Tồ án như Thơng tư số 2225/HCTP ngày 24/10/1956 quy định về
chấn chỉnh việc thực hiện quyền bào chữa, Thông tư số 22/HCTP ngày 18/02/1957
trả lời một số điểm về bào chữa của Bộ Tư pháp. Đặc biệt, sau khi Hiến pháp năm

1959 và Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1960 được ban hành, Toà án nhân dân
tối cao đã cho xây dựng và ban hành nhiều văn bản hướng dẫn cụ thể trình tự, thủ
tục giải quyết các vụ việc dân sự như Thông tư số 614/DS ngày 24/04/1963 hướng

18


×