Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

(Luận văn thạc sĩ) phân loại thương nhân theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (865.19 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ VÂN ANH

PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Bùi Nguyên Khánh


HÀ NỘI - 2014

2


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Vân Anh

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN

6

1.1.

Khái quát chung về phân loại thương nhân

6

1.1.1.

Khái niệm thương nhân

6

1.1.2.

Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về phân loại thương nhân

11

1.1.3.

Cách thức phân loại thương nhân chủ yếu của luật thương mại

15

1.2.


Thương nhân thể nhân

18

1.2.1.

Khái niệm thương nhân thể nhân

1.2.2.

Điều kiện trở thành thương nhân thể nhân, các điểm lợi và 19
bất lợi của thương nhân thể nhân

1.3.

Thương nhân pháp nhân

23

1.3.1.

Khái niệm thương nhân pháp nhân

23

1.3.2.

Hoạt động của các công ty

26


1.3.3.

Lý lịch của cơng ty

27

1.3.4.

Các loại hình cơng ty

29

1.4.

Lược sử của pháp luật về thương nhân ở Việt Nam

31

Chương 2:

33

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÂN

18

LOẠI THƢƠNG NHÂN

2.1.


Khái niệm thương nhân và pháp nhân theo pháp luật hiện 33
hành ở Việt Nam

4


2.1.1.

Khái niệm thương nhân theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam 33

2.1.2.

Khái niệm pháp nhân theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam

40

2.2.

Qui chế thương nhân theo pháp luật Việt Nam hiện hành

41

2.3.

Các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về các loại 45
thương nhân
Chương 3:

ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP


65

LUẬT VỀ PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN

3.1.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về phân loại thương nhân

3.2.

Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện pháp luật về phân 69
loại thương nhân ở nước ta hiện nay

65

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối đổi mới đất nước được Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng

từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) cho đến nay đã tạo ra
những chuyển biến mạnh mẽ có tác động tích cực đến mọi mặt đời sống kinh
tế - xã hội. Trong sự thành công này, pháp luật đã đóng một vai trị rất quan
trọng trong việc tạo dựng nền tảng pháp lý cho sự chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Nhiều văn bản pháp luật đã
dần được ban hành theo tư duy kinh tế thị trường, chẳng hạn như: Luật Thương
mại 1997 và tiếp theo đó là Luật Thương mại 2005 cùng với Luật Doanh
nghiệp 1999 và tiếp theo là Luật Doanh nghiệp 2005. Các đạo luật này đã
thừa nhận và thúc đẩy cho sự ra đời và lớn mạnh của một tầng lớp thương
nhân ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên các văn bản pháp luật này đã chứa
đựng những bất cập mà nay đang được nghiên cứu sửa đổi. Bản thân chúng
đã mâu thuẫn, chồng chéo không tạo thành một hệ thống thống nhất. Vì vậy
phần nào đó gây khó khăn cho thương nhân. Trong các bất cập đó cần phải kể
đến là quan niệm và phân loại thương nhân.
Đối với khoa học pháp lý, phân loại là một kỹ thuật quan trọng để
thiết kế các qui định pháp luật điều chỉnh đối với từng phân loại. Việc phân
loại thiếu chính xác đáng về mặt khoa học hoặc thực tiễn sẽ gây ra những bất
cập làm cho pháp luật khó đi vào đời sống xã hội. Ở một chừng mực nào đó
luật thương mại được coi là luật của các thương nhân. Do đó phân loại thương
nhân là một vấn đề pháp lý quan trọng giúp cho việc thiết qui chế pháp lý
đúng đắn và phù hợp cho từng loại thương nhân.
Vì vậy việc nghiên cứu để hoàn thiện các quy định của pháp luật về
thương nhân là một đề tài rất cần thiết - nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi
nước ta đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và tham
gia tích cực vào q trình tự do hóa thương mại quốc tế.

6


Xuất phát từ nhận thức trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài: "Phân loại

thương nhân theo pháp luật Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình
với mong muốn nghiên cứu có hệ thống về phân loại thương nhân, qua đó tìm
hiểu sâu về bản chất pháp lý của từng loại thương nhân ở nước ta hiện nay.
Từ việc nghiên cứu đó, tơi xin đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về phân loại thương nhân ở nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chế định thương nhân là nội dung quan trọng của pháp luật thương
mại, được nhiều nhà khoa học thuộc các lĩnh vực khác nhau quan tâm nghiên
cứu. Ở những phạm vi và mức độ khác nhau đã có những cơng trình đề cập
đến quy chế pháp lý về thương nhân, về doanh nghiệp, cụ thể như:
- "Giáo trình luật thương mại - phần chung và thương nhân" của
PGS.TS Ngô Huy Cương được xuất bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2013. Trong giáo trình này, tác giả đã phân tích tương đối hệ thống
những vấn đề lý luận về thương nhân, các loại thương nhân theo quan niệm
chung của các nền tài phán và theo quan niệm của pháp luật Việt Nam.
- "Chuyên khảo luật kinh tế" của PGS.TS Phạm duy Nghĩa được xuất
bản tại Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004. Cuốn chuyên khảo đã phân
tích, đánh giá về các loại hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
- "Giáo trình luật kinh tế Việt Nam" do PGS.TS Nguyễn Như Phát làm
chủ biên được xuất bản tại Nxb Tư pháp, Hà Nội, năm 2013. Trong giáo trình
(cụ thể: Chương 2), viết tổng quan về luật thương mại, đã trình những vấn đề
lý luận về luật thương mại mà trong đó tác giả đã trình bày khái quát về
thương nhân và hành vi thương mại.
- "Giáo trình luật thương mại" do TS. Bùi Ngọc Cường làm chủ biên
được xuất bản tại Nxb Giáo dục, Hà Nội, năm 2008. Giáo trình đã phân tích,
bình luận lý thuyết về thương nhân, dấu hiệu xác định thương nhân, các loại
thương nhân theo pháp luật Việt Nam.

7



- "Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về doanh
nghiệp ở Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học của Đồng Ngọc Ba, Trường Đại
học Luật Hà Nội, năm 2005. Luận án này đã phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn
của việc hồn thiện pháp luật về doanh nghiệp. Trong đó tác giả đã trình bày
cơ sở phân loại doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp, hướng hồn thiện
pháp luật về doanh nghiệp.
- "Các công ty trong hệ thống pháp luật Hoa Kỳ" của PGS.TS Lê
Hồng Hạnh đăng trên Tạp chí Luật học của Đại học Luật Hà Nội, số 2, năm
1994. Tác giả Lê Hồng Hạnh đã giới thiệu khái quát các loại hình cơng ty
trong hệ thống pháp luật của Hoa Kỳ, qua đó có thể tham khảo để hồn thiện
luật công ty ở Việt Nam.
- "Thương gia theo thương luật Hoa Kỳ" của TS. Trần Đình Hảo đăng
trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật của Viện Nhà nước và Pháp luật, số 2,
năm 2002. Tác giả giới thiệu khái qt về các loại hình cơng ty đối nhân và
đối vốn theo pháp luật của Hoa Kỳ nhằm cung cấp thơng tin so sánh để học
hỏi kinh nghiệm nước ngồi nhằm hồn thiện pháp luật cơng ty ở Việt Nam.
- "Sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: phân tích, bình luận và kiến
nghị" của PGS.TS Ngô Huy Cương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp,
số 10 (266), Kỳ 2 - Tháng 05/2014. Bài viết này đã đưa ra phân tích và bình
luận một số đặc thù lớn của Luật Doanh nghiệp 2005 và của Dự thảo sửa
đổi đạo luật này mà trong đó có nêu ra quan điểm liên quan tới phân loại
thương nhân.
- "Dự án sửa đổi Luật Doanh nghiệp 2005: Bình luận những vấn đề
pháp lý chủ yếu", của PGS.TS Ngơ Huy Cương đăng trên Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, số 13 (269), Kỳ 1 - Tháng 07/2014. Bài viết này đã lý luận sâu sắc
về ý nghĩa pháp lý của sự phân loại thương nhân thành thương nhân thể nhân
và thương nhân pháp nhân. Tuy nhiên không trình bày tồn bộ nội dung của
sự phân loại này.


8


Ngồi các cơng trình kể trên cịn có những luận văn, luận án nghiên
cứu riêng về từng loại hình cơng ty.
Những cơng trình kể trên đã có những thành tựu quan trọng nhất liên
quan tới việc xây dựng pháp luật về thương mại ở Việt Nam. Tác giả luận văn
kế thừa những luận điểm khoa học của các cơng trình đó trong q trình viết
luận văn. Tuy nhiên, đề tài mà tác giả nghiên cứu chuyên sâu về phân loại
thương nhân. Vì vậy, mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
luận văn khơng hồn tồn trùng lặp với các cơng trình đã cơng bố nêu trên.
3. Mục tiêu, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài luận văn là làm rõ những vấn đề lý
luận về phân loại thương nhân để từ đó xem xét những bất cập chủ yếu của
luật thực định và kiến nghị hoàn thiện pháp luật liên quan.
3.2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề pháp lý, không đi sâu nghiên
cứu các vấn đề kinh tế, xã hội liên quan tới thương nhân nói chung và phân
loại thương nhân nói riêng.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn
Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề liên quan trực tiếp tới phân
loại thương nhân và các qui định của pháp luật Việt Nam hiện hành về phân
loại thương nhân để kiến nghị sửa hoàn thiện pháp luật hiện hành. Luận văn
khơng phân tích sâu về lịch sử pháp luật liên quan và khơng nghiên cứu từng
hình thức thương nhân cụ thể trừ khi đề cập tới các vấn đề đó với tính cách là
một phương pháp để hướng tới mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu cách thức phân loại chủ yếu về
thương nhân chia thương nhân thành: thương nhân thể nhân và thương nhân
pháp nhân. Luận văn không nghiên cứu các cách thức phân loại khác về


9


thương nhân, mà chỉ giới thiệu để góp phần làm bật lên cách thức phân loại
chủ yếu về thương nhân.
Trong khi nghiên cứu phân loại chủ yếu về thương nhân, luận văn
không đi sâu nghiên cứu qui chế chung về thương nhân, mà chỉ nghiên cứu
các đặc điểm riêng biệt liên quan tới việc phân biệt giữa các loại thương nhân.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài luận văn
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của khoa học
xã hội, như: phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương
pháp lịch sử… và các phương pháp nghiên cứu có tính đặc thù của khoa học
pháp lý như: phương pháp phân tích quy phạm pháp luật, phương pháp so
sánh pháp luật, phương pháp xã hội học pháp luật… Mỗi phương pháp cụ thể
được tác giả vận dụng phù hợp với từng nội dung cụ thể trong luận văn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phân loại thương nhân.
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về phân loại thương nhân.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về phân loại
thương nhân.

10


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN


1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÂN LOẠI THƢƠNG NHÂN

1.1.1. Khái niệm thƣơng nhân
Luật thương mại (với tính cách là một ngành luật) còn được gọi là luật
của thương nhân (merchant law). Ngành luật này thường được định nghĩa là
một ngành luật tư điều tiết quan hệ giữa các thương nhân hoặc hành vi thương
mại. Vì vậy thương nhân là chủ thể thơng thường của luật thương mại có qui
chế riêng [10, tr. 10]. Thương nhân (với tính cách là một đại chế định của luật
thương mại) chiếm một phần dung lượng lớn trong bất kỳ bộ luật thương mại
nào. Khởi đầu cho các nghiên cứu hay qui định về thương nhân là việc xác
định thương nhân là gì.
Bộ luật Thương mại đầu tiên được pháp điển hóa theo kiểu hiện đại
trên thế giới là Bộ luật Thương mại Pháp năm 1807 có đưa ra định nghĩa
thương nhân tại Điều 1 như sau: "Thương nhân là những người thực hiện các
hành vi thương mại và lấy chúng làm nghề nghiệp thường xuyên của mình".
Đây là một định nghĩa kinh điển về thương nhân - những người có nghề
nghiệp thường xuyên là thực hiện các hành vi thương mại. Nghề nghiệp
thường xuyên được hiểu là hoạt động đem lại cho một người những phương
tiện sinh sống. Việc thực hiện nhiều hành vi thương mại chưa đủ để coi là
thương nhân, nếu họ khơng thực hiện những hành vi đó cho bản thân mình
hoặc gia đình của mình. Chẳng hạn một người thực hiện những hành vi
thương mại cho lợi ích của một người khác như làm giám đốc thuê cho một
công ty thì khơng thể được xem là thương nhân mà là người làm cơng cho
cơng ty đó. Mặc dù điều luật vừa dẫn không quy định rõ, song thương nhân
phải thực hiện những hành vi đó nhân danh mình và vì lợi ích của mình (có
nghĩa là sống bằng nghề thực hiện các hành vi thương mại). Qua đây có một

11



nhận xét quan trọng là khái niệm "thương nhân" gắn với hay không thể tách
rời khái niệm hành vi "thương mại". Vì vậy việc tìm hiểu khái niệm thương
nhân khơng thể không nghiên cứu khái niệm hành vi thương mại.
Khởi thủy, luật thương mại được coi là luật của "nhà buôn", nghĩa là
chỉ điều chỉnh các quan hệ mua bán, trao đổi hàng hóa giữa các thương nhân
với nhau. Về sau cùng với sự phát triển của kinh tế, xã hội, đối tượng điều
chỉnh của luật thương mại ngày càng được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, nhiều
khâu của quá trình tái sản xuất, bao gồm từ sản xuất đến tiêu thụ hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy khái niệm
thương nhân (trong sự phân biệt với khái niệm người thường) gắn liền với
hành vi thương mại (với tính cách là nghề nghiệp của thương nhân). Trong sự
phân biệt với hành vi dân sự, học thuyết về hành vi thương mại có những cách
phân loại khác nhau về hành vi thương mại phụ thuộc vào các điều kiện kinh
tế, xã hội, truyền thống lập pháp của mỗi nước. Song về cơ bản, hành vi
thương mại có thể được chia thành ba loại như sau:
- Các hành vi thương mại do bản chất gồm hai loại: Loại thứ nhất,
gồm các hành vi được coi là hành vi thương mại ngay cả trong trường hợp
chúng thực hiện một cách riêng rẽ như: việc mua động sản để bán lại, các hoạt
động môi giới, các hoạt động ngân hàng hay hối đoái…; Loại thứ hai, chỉ
được coi là hành vi thương mại trong trường hợp do thương nhân thực hiện.
- Các hành vi thương mại do hình thức được coi là hành vi thương mại
ngay cả khi chúng được những người không phải là thương nhân thực hiện.
- Các hành vi thương mại do phụ thuộc là những hành vi phụ thuộc
vào hoạt động thương mại hoặc các thương gia như các trái vụ giữa các
thương nhân với nhau [8, tr. 40].
Ngày nay, cho dù thương mại được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa
hẹp thì mục đích của hành vi thương mại vẫn là tìm kiếm lợi nhuận. Luật
Thương mại năm 2005 của Việt Nam không hướng tới cách phân loại hành vi

12



thương mại, mà hướng tới mục đích của hành vi (khoản 1, Điều 3). Trong
khoa học kinh tế người ta phân biệt nhà kỹ nghệ (công nghiệp) với nhà buôn.
Nhà cơng nghiệp là người sản xuất, chế tạo, khai khống… Nhà buôn là
người chuyên về phân phối, lưu thông hàng hóa. Khoa học pháp lý quan niệm
dù là nhà sản xuất hay nhà bn thì hành vi của họ đều có mục đích sinh lợi
và các hành vi đó đều là nghề nghiệp chính của họ và phải tuân theo luật
thương mại [31, tr. 11]. Hiện nay vẫn cịn có những quan điểm khác nhau về
việc xem những người hành nghề tự do như: Luật sư, Bác sĩ, Kiến trúc sư,
Nhà soạn nhạc…có phải là nghề thương mại hay khơng. Theo tác giả Lê Tài
Triển, thì cổ truyền, những người làm nghề ấy khơng kiếm lãi về cơng việc
của mình, nhưng có nhận tiền thù lao của khách hàng (lấy cơng). Khách hàng
vì tin tưởng mà nhờ giúp việc. Những nghề ấy cũng có khi là nghề thương
mại khi hoạt động ra ngồi phạm vi có quy mơ rộng rãi phải dùng đến những
phương thức thương mại, như: Mở cửa hàng, cửa hiệu, quảng cáo… Tương tự
như vậy nghề nông, nếu người nơng dân bán các sản phẩm do mình làm ra thì
đó khơng phải là hành vi thương mại. Nhưng nếu họ hoạt động quy mô lớn,
sử dụng máy móc, cơng nghệ để trồng trọt, chăn ni, chế biến để bán sản
phẩm thì đó là hoạt động thương mại [31, tr. 11-12].
Khái niệm "thương nhân" được định nghĩa trong Bộ luật Thương mại
Nhất thể của Hoa Kỳ (UCC-1990) cùng với khái niệm "mua bán", "chi nhánh
tài chính" với những nội dung mà về cơ bản là không được hiểu như khái
niệm thương nhân trong luật thương mại của các nước theo hệ thống pháp luật
Chấu Âu lục địa. PGS.TS. Trần Đình Hảo đã đưa ra những nhận định như sau:
"Thương gia được dùng để chỉ một nhóm nhất định của các chủ thể kinh doanh
mà những người này là những người tiến hành hoạt động kinh doanh hàng hóa
các loại thông qua các công việc thường xuyên, lâu dài của họ. Những cơng
việc đó địi hỏi phải có những nhận thức và kỹ năng thực hiện riêng biệt" [15].
Hàng hóa ở đây được hiểu là động sản và do vậy Bộ luật Thương mại Nhất

thể của Hoa Kỳ không điều chỉnh các loại hợp đồng mua bán bất động sản

13


hoặc các hợp đồng dịch vụ. Thương nhân theo Bộ luật Thương mại Nhất thể
Hoa Kỳ có ba loại hình chủ yếu là cá nhân kinh doanh (sole proprietorship),
công ty đối nhân (partnership) và công ty đối vốn (corporation) [15, tr. 18].
Điều 4 của Bộ luật Thương mại Nhật Bản xác định những người thực
hiện các giao dịch thương mại như một nghề nghiệp nhân danh bản thân
mình, những người bán hàng như một nghề nghiệp trong các cửa hàng hoặc ở
những nơi tương tự, hoặc những người làm nghề khai mỏ, thậm chí khơng
tham gia các giao dịch thương mại như một nghề nghiệp và những công ty
được thành lập theo Bộ luật Thương mại đều được coi là thương nhân. Như
vậy, theo quy định này thì hành vi khai mỏ luôn được coi là hành vi thương
mại. Do đó, bất kể ai thực hiện hành vi này đều được xem là thương nhân.
Cũng theo điều luật này thì những người chuyên thực hiện hành vi thương
mại luôn được xem là thương nhân và được chia thành hai nhóm: Thương
nhân thể nhân và thương nhân pháp nhân (các công ty thương mại). Luật
thương mại của các nước trong họ pháp luật La Mã - Đức quan niệm công ty
thương mại là các thương nhân bởi hình thức, có nghĩa là bất kỳ một thực thể
nào được thành lập dưới hình thức cơng ty thương mại đều được xem là
thương nhân hoặc bất kể hành vi nào nhằm thành lập một công ty thương mại đều
xem là hành vi thương mại. Riêng việc xem những người buôn bán nhỏ được coi
là thương nhân theo quy định này có phần hơi khác biệt so với pháp luật
thương mại Việt Nam.
Theo cách thức liệt kê, Khoản 2, Điều 2 của Bộ luật Thương mại
Cộng hịa Czech mơ tả:
Theo Bộ luật này, thương nhân được coi là:
a/ Người (thể nhân hoặc pháp nhân) được ghi tên vào sổ

đăng ký thương mại;
b/ Người thực hiện hoạt động kinh doanh trên cơ sở một
giấy phép cho tiến hành một số hoạt động buôn bán nhất định;

14


c/ Người thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở một
giấy phép được cấp theo các luật hoặc các quy định đặc biệt khác
với các quy định điều chỉnh việc cấp giấy phép buôn bán;
d/ Thể nhân thực hiện hoạt động nông nghiệp (sản xuất
nông nghiệp) mà được đăng ký vào sổ đăng ký thích hợp theo luật
quy định đặc biệt [38].
Bộ luật Thương mại của Tunisia tuyên bố rằng tất cả những người mà
tự bản thân thực hiện một cách chuyên nghiệp các hành vi liên quan tới sản
xuất, lưu thơng và tích trữ hàng hóa đều được coi là thương nhân, trừ những
trường hợp đặc biệt được quy định bởi luật (Điều 2).
Bộ luật Thương mại Iran lại có cách quy định hết sức đơn giản trong
mối quan hệ giữa thương nhân với hành vi thương mại: một người có nghề
nghiệp thơng thường là các giao dịch thương mại được coi là thương nhân
(Điều 1). Tuy nhiên cách thức định nghĩa này này giống với cách thức định
nghĩa kinh điển của Bộ luật Thương mại Pháp.
Các nước khác như Hà Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển…. Cũng có định nghĩa
về thương nhân, nhưng đa số có yêu cầu đăng ký hoạt động thương mại [10, tr. 68].
Nói tóm lại, pháp luật thực định của mỗi quốc gia lại có cách định nghĩa khác
nhau về thương nhân, song về cơ bản có hai cách định nghĩa được sử dụng là
định nghĩa theo bản chất thương mại như Cộng hòa Czech, Thụy Điển… Dù
theo cách thức định nghĩa nào thì pháp luật thương mại của các nước đều thừa
nhận rằng: có các loại thương nhân là thương nhân thể nhân và thương nhân
pháp nhân mà chúng lấy việc thực hiện hành vi thương mại làm nghề nghiệp

của mình. Tuy nhiên, có một số ngoại đã được đề cập đến ở Nhật Bản.
Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam quy định: "Thương nhân bao
gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một
cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh" [28, Điều 6, khoản 1].
Như vậy để trở thành thương nhân, thì, trước hết, chủ thể đó phải tồn tại dưới

15


dạng "tổ chức kinh tế" hoặc "cá nhân" có đăng ký kinh doanh. Như vậy đăng
ký kinh doanh là một dấu hiệu bắt buộc của thương nhân. Điều 3, khoản 1,
Luật Thương mại năm 2005 có giải thích "Hoạt động thương mại là hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu
tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác".
Theo PGS.TS Ngơ Huy Cương, có hai điều kiện căn bản để xác định
thương nhân như sau: Điều kiện cần: phải chuyên tiến hành các hành vi
thương mại; và điều kiện đủ: phải lấy việc tiến hành các hành vi thương mại
làm nghề nghiệp của mình [9]. Đây là một chắt lọc quan trọng trong việc làm
rõ khái niệm thương nhân, có nghĩa là dù một thể nhân hay pháp nhân thỏa
mãn các điều kiện cần và đủ trên đều được xem là thương nhân.
1.1.2. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật về phân loại thƣơng nhân
Việc phân loại thương nhân có ý nghĩa quan trọng trong chính sách
phát triển kinh tế, trong thực tiễn thương mại cũng như hoạt động lập pháp.
Điều đó được thể hiện ở những khía cạnh sau:
Thứ nhất, mặc dù thương nhân có điểm chung giống nhau là hoạt động
thương mại và lấy hoạt động đó làm nghề nghiệp chính của mình. Song trên
thực tế, thương nhân tồn tại dưới những hình thức khác nhau, có quy mơ kinh
doanh và phạm vi kinh doanh khác nhau, vì vậy tất yếu dẫn đến sự phân loại
nhằm mục đích đặt ra những quy chế pháp lý về thành lập, hoạt động, quản lý
khác nhau cho phù hợp. Một mặt khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho

những cá nhân muốn hành nghề thương mại một cách dễ dàng, đơn giản, song
vẫn đảm bảo cho hoạt động thương mại phát triển lành mạnh làm giàu cho đất
nước. Chẳng hạn, thương nhân là cá nhân (theo cách phân loại của pháp luật
Việt Nam), hiện tại, ở nước ta, người kinh doanh trực tiếp tham gia các hoạt
động mua bán hàng hóa, phần lớn là cá nhân, có cửa hàng, cửa hiệu, có các
sạp hàng, quầy hàng ở chợ…Do mức vốn khơng lớn, hình thức tổ chức kinh
doanh đơn giản, doanh thu chưa đạt đến một mức độ nhất định những đòi hỏi

16


nghiêm ngặt về quy chế thương nhân thường không được áp dụng, chẳng hạn
như về việc thành lập, quản lý, sổ sách kế toán…Họ chỉ cần làm thủ tục đăng
ký kinh doanh. Thậm chí có những cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập thường xuyên không phải đăng ký kinh doanh, đó là những người
bn bán rong khơng có địa điểm cố định, thường chỉ cần một giấy phép hành
nghề do chính quyền địa phương nơi có hộ khẩu thường trú cấp. Tại Điều 3,
khoản 2, Luật Thương mại 2005 quy định "Căn cứ vào những nguyên tắc của
luật này, Chính phủ quy định cụ thể việc áp dụng Luật này đối với những cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên không phải đăng
ký kinh doanh" [29]. Còn cá nhân nếu muốn kinh doanh ở quy mô lớn, phạm
vi kinh doanh rộng mà không muốn liên kết với người khác để thành lập công
ty, thì họ có thể tổ chức hoạt động thương mại của mình thơng qua hình thức
doanh nghiệp tư nhân. Việc thành lập doanh nghiệp phải theo trình tự, thủ tục,
điều kiện chặt chẽ được quy định tại Luật Doanh nghiệp năm 2005. Hoặc
thương nhân là pháp nhân (tổ chức có đủ điều kiện) mà trên thực tế là các
công ty thương mại thì những địi hỏi về quy chế thương nhân phải được áp
dụng nghiêm ngặt hơn như: về điều kiện thành lập, thủ tục thành lập, đăng ký
kinh doanh, điều lệ hoạt động, quản lý, sổ sách kế toán, chế độ lưu giữ hóa
đơn chứng từ, tên thương mại, biển hiệu…

Thứ hai, thông qua việc phân loại thương nhân, mà Nhà nước có chính
sách quản lý, chính sách thuế…khác nhau cho phù hợp với từng loại thương
nhân. Đặc biệt là ở nước ta, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường, kinh tế chưa phát triển, giữa các vùng, miền cịn có sự
khác biệt lớn về kinh tế vì vậy rất cần có những chính sách phù hợp khuyến
khích phát triển thương mại với những hình thức khác nhau từ nhỏ đến lớn
nhằm khơi thơng những dịng vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế.
Thứ ba, nền kinh tế nước ta trải qua những giai đoạn phát triển trong
những bối cảnh thăng trầm của lịch sử,và hiện nay là thời kỳ của tự do kinh
doanh, của hội nhập kinh tế, người dân Việt Nam mới mạnh dạn bỏ vốn đầu tư

17


để kinh doanh vì vậy rất cần có những loại hình kinh doanh đa dạng phù hợp
với thói quen và tâm lý của dân chúng. Điều đó cắt nghĩa tại sao ở Việt Nam
bên cạnh thương nhân là cá nhân, tổ chức kinh tế cịn có cả thương nhân là hộ
kinh doanh, tổ hợp tác, nhóm kinh doanh. Điều này sẽ không thấy ở sự phân
loại thương nhân đối với những quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển.
Thứ tư, việc phân loại thương nhân giúp cho những người muốn hành
nghề thương mại biết có mấy loại thương nhân, đặc điểm của từng loại thương
nhân, cách thức tổ chức, vận hành, những ưu điểm, hạn chế của từng loại thương
nhân…Để đưa ra quyết định lựa chọn loại thương nhân nào là phù hợp với
mình, khi lựa chọn loại thương nhân nào đó, họ cần phải biết tuân theo những
quy chế pháp lý nào? để tránh những sai lầm hoặc rủi ro về mặt pháp lý.
Xuất phát từ ý nghĩa của việc phân loại thương nhân cùng với sự đa
dạng và phức tạp của các giao dịch thương mại trong xu hướng tồn cầu hóa
mà các quy định của pháp luật về thương nhân cơ bản phải chứa đựng trong
nó các chức năng sau:
- Pháp luật về thương nhân phải tạo ra khuôn khổ pháp lý quan trọng

ban đầu cho sự ra đời của các loại hình thương nhân - chủ thể chính của pháp
luật thương mại. Việc xác định tư cách thương nhân cho một chủ thể có ý
nghĩa hết sức quan trọng vì mỗi loại chủ thể lại chịu sự điều chình của các
quy chế khác nhau vì chúng hàm chứa trong mình những đặc điểm tương đối
khác nhau. Xác nhận địa vị pháp lý, tư cách của thương nhân trên thương
trường nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thương nhân cũng như
những người có quan hệ kinh doanh đối với họ. Trên cơ sở các quy định pháp
luật, thương nhân thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình để tiến hành các giao
dịch thương mại với thương nhân cũng như với tổ chức và cá nhân khác trong
và ngoài nước.
- Các quy định pháp luật này đã tạo lập cơ sở pháp lý và căn cứ thực
tế cho việc thực hiện sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của các

18


thương nhân, cũng như diễn biến của nền kinh tế nói chung. Thơng qua các
quy định pháp luật, Nhà nước có điều kiện nắm bắt các thơng tin về nhu cầu
và hoạt động thực trạng của thương nhân trong từng thời kỳ. Trên cơ sở đó
mà Nhà nước hoạch định, điều chỉnh hay thay đổi các chính sách thích ứng
phù hợp với chính sách phát triển kinh tế của mình.
- Các quy định pháp luật về thương nhân còn là cơ sở cho việc thực
hiện các dự định hoặc kế hoạch. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay, các
hoạt động diễn ra sôi động, một thương gia không thể chờ đợi thực hiện xong
một hợp đồng này hay công việc này rồi mới tiến hành một giao dịch khác
hay một công việc khác mà anh ta đồng thời phải tiến hành rất nhiều các giao
dịch và công việc theo một kế hoạch hoặc dự định để sản xuất ra một hoặc
một số hàng hóa hay dịch vụ. Và vì vậy, các quy định của pháp luật thương
mại bảo đảm cho các dự định kinh doanh trở thành hiện thực hay nói đúng
hơn là tạo ra các khả năng để thương nhân có thể hoạch định các cơng việc

của mình. Vì thế, các ngun tắc như trung thực, thiện chí… trong hoạt động
kinh doanh được luật thương mại rất đề cao [7, tr. 55].
- Các quy định pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về
thương nhân nói riêng còn là tiền đề cho sự phát triển thị trường hàng hóa và
dịch vụ, pháp luật về thương mại; mở rộng giao lưu thương mại với nước
ngồi. Chính các quy định pháp luật về thương nhân là điều kiện để thương
nhân tiến hành các hoạt động thương mại của mình phù hợp với sự phát triển
chung của nền kinh tế. Qua đó, tạo ra mơi trường bình đẳng cho hoạt động
của thương nhân, thương nhân được cạnh tranh hợp pháp trong hoạt động
thương mại và nghiêm cấm các hành vi đầu cơ, lũng đoạn thị trường, bán phá
giá để cạnh tranh, gièm pha thương nhân khác, đe dọa nhân viên hoặc khách
hàng của thương nhân khác, vi phạm quyền sở hữu cơng nghiệp. Chính điều
này đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ, các
hoạt động thương mại của thương nhân trên thị trường là nhằm mục đích phục
vụ các nhu cầu trực tiếp của xã hội.

19


- Như chúng ta đã biết khi xây dựng pháp luật thương mại người ta
thường dựa vào hai mảng vấn đề lớn: hoặc là chủ thể, coi luật thương mại là
luật riêng của thương nhân như cách làm của Bộ luật Thương mại Đức ban
hành năm 1897 tập trung các quy định vào thương nhân; hoặc là theo khách
thể, coi luật thương mại là luật điều chỉnh hành vi mang tính thương mại như
cách làm của Bộ luật Thương mại Pháp ban hành năm 1807 tập trung các quy
định vào hành vi thương mại. Song thực tiễn phát triển pháp luật thương mại
đã chứng minh rằng cả hai phương pháp trên đều hàm chứa cả vấn đề chủ thể
lẫn vấn đề khách thể. Bởi, thương nhân là chủ thể chính thực hiện các hành vi
thương mại. Do đó, khi xây dựng được một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh về
thương nhân cũng là điều kiện tiền đề cho các hành vi thương mại được hiện

thực hóa trên thương trường.
Nói tóm lại, pháp luật về thương nhân là bộ phận cấu thành khơng thể
thiếu của pháp luật thương mại. Vì vậy, một hệ thống các quy định pháp luật
hoàn thiện về thương nhân sẽ là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt
động thương mại…
Tóm lại, việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về phân loại thương
nhân giúp cho việc xây dựng các qui chế pháp lý riêng biệt cho các loại thương
nhân làm hành lang pháp lý an toàn cho thương nhân tạo lập và hoạt động,
đồng thời bảo đảm cho luật thương mại thực hiện được chức năng của mình.
1.1.3. Cách thức phân loại thƣơng nhân chủ yếu của luật thƣơng mại
Thương nhân ngày nay là một tầng lớp quan trọng trong một xã hội xây
dựng nền kinh tế thị trường (dù là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa hay không). Mặc dù được pháp luật qui định khá rõ ràng, song thương
nhân vẫn là một hiện tượng xã hội phức tạp. Vì vậy có thể có nhiều cách thức
phân loại thương nhân khác nhau tùy thuộc vào mục đích của sự phân loại.
Xét từ việc đăng ký thương nhân, người ta có thể chia thương nhân
thành: thương nhân có tư cách đầy đủ (có nghĩa là thương nhân có nghĩa vụ

20


đăng ký kinh doanh); và thương nhân khuyết tư cách (có nghĩa là thương
nhân khơng có nghĩa vụ đăng ký kinh doanh chẳng hạn như những người bán
hàng rong, quà vặt…).
Xét từ việc có cơ sở kinh doanh hay khơng, người ta có thể chia thương
nhân thành: thương nhân có cơ sở kinh doanh; và thương nhân khơng có cơ
sở kinh doanh (loại thương nhân này thường là các thương nhân cung cấp
hàng hóa hay dịch vụ lưu động mà không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh).
Xét từ quốc tịch, người ta có thể chia thương nhân thành: thương nhân
trong nước (có nghĩa là thương nhân có quốc tịch tại nước sở tại); và thương

nhân nước ngồi (có nghĩa là thương nhân có quốc tịch nước khác nước sở tại).
Xét từ xuất xứ của nguồn vốn đầu tư, người ta có thể chia thương nhân
thành: thương nhân có vốn đầu tư trong nước; và thương nhân có vốn đầu tư
nước ngoài (Việt Nam thường gọi là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi).
Xét từ việc có thực hiện nghĩa vụ đăng ký kinh doanh hay không,
người ta có thể chia thương nhân thành: thương nhân hợp pháp và thương
nhân thực tế. Thương nhân thực tế mà trong đó có cơng ty thực tế và cơng ty
được thành lập trên thực tế là hiện tượng xã hội cần kiểm sốt. Phạm Thị
Hương Giang cho rằng: Cơng ty thực tế là cơng ty có đăng ký kinh doanh,
nhưng sau đó bị hủy đăng ký kinh doanh hoặc bị giải thể hoặc đã hết thời hạn
hoạt động mà vẫn hoạt động; cịn cơng ty được thành lập trên thực tế là công
ty không đăng ký kinh doanh nhưng các thành viên công ty vẫn ứng xử với
nhau như những thành viên của một công ty thực sự mặc dù không ý thức đầy
đủ về việc đó [14, tr. 44]. Pháp luật Việt Nam hiện đã chú ý tới hiện tượng
này nhưng chưa đưa ra giải pháp liên quan trực tiếp.
Xét từ nghề nghiệp hay ngành nghề kinh doanh của thương nhân,
người ta có thể chia thương nhân thành: thương nhân hoạt động trong lĩnh vực
sản xuất; thương nhân hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, và thương nhân
hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ. Trong mỗi lĩnh vực này, người ta còn phân

21


chia ra các loại thương nhân hoạt động trong các lĩnh vực cụ thể hơn. Chẳng
hạn thương nhân hoạt động trong lĩnh vực tài chính; thương nhân hoạt động
trong lĩnh vực nhà hàng, khách sạn; thương nhân hoạt động trong giải trí;
thương nhân hoạt động trong lĩnh vực vận chuyển; thương nhân hoạt động
trong lĩnh vực xây dựng; thương nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất công
nghiệp; thương nhân hoạt động trong lĩnh vực chế biến sản phẩm nông, lâm,
ngư nghiệp; thương nhân hoạt động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản;

thương nhân hoạt động trong lĩnh vực trung gian thương mại; thương nhân
hoạt động mua bán hàng hóa…
Xét từ hình thức tổ chức kinh doanh, người ta thường chia thương
nhân thành hai loại chủ yếu là thương nhân thể nhân và thương nhân pháp
nhân. Đây là cách thức phân loại cơ bản mà bất kỳ hệ thống pháp luật của
nước có nền kinh tế thị trường nào cũng chú ý tới. Với cách thức phân loại
này người ta thiết lập nên qui chế thương nhân chung và qui chế cho từng loại
thương nhân. Đặc biệt trong loại thương nhân pháp nhân, người ta chia thành
nhiều loại nhỏ căn cứ vào hình thức tổ chức khác nhau của nó và thiết lập qui
chế riêng cho từng loại này.
Từ việc khảo sát ở mục trên, có thể thấy: pháp luật thực định của các
nước có cách tiếp cận khác nhau về thương nhân, tùy thuộc vào đặc điểm kinh
tế, xã hội, truyền thống lịch sử, kỹ thuật lập pháp của mỗi nước. Song nhìn
chung, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều xác định thương nhân
bao gồm hai loại hình chủ yếu là: Thương nhân thể nhân và thương nhân pháp
nhân. Tuy nhiên tùy thuộc vào tiêu chí được pháp luật mỗi quốc gia theo đuổi
mà thương nhân được định nghĩa theo bản chất của hành vi thương mại hay
định nghĩa theo hình thức thơng qua việc đăng ký vào danh bạ thương mại.
Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005 của Việt Nam
định nghĩa thương nhân dựa trên sự kết hợp tiêu chí chủ thể và khách thể, có
nghĩa là liệt kê các loại chủ thể kết hợp với tiêu chuẩn hoạt động thương mại
độc lập, thường xuyên, và dấu hiệu đăng ký kinh doanh.

22


PGS.TS. Ngô Huy Cương cho rằng: Thương nhân thể nhân được xác
định bởi bản chất của hành vi của họ; cịn thương nhân pháp nhân hay gọi
chính xác hơn là các thương hội (các công ty) được xác định bởi hình thức
của chúng [10, tr. 66]. Vì vậy khi nói tới phân loại thương nhân chủ yếu,

người ta phải nghiên cứu các nội dung pháp lý cơ bản mà cần thiết để phân
biệt giữa các loại thương nhân này, đồng thời làm rõ cho sự cần thiết phải
phân loại như vậy và giá trị của sự phân loại.
1.2. THƢƠNG NHÂN THỂ NHÂN

1.2.1. Khái niệm thƣơng nhân thể nhân
Thương nhân thể nhân chính là hình thức chủ thể đầu tiên tham gia
vào các quan hệ thương mại. Pháp luật của hầu hết các nước đều có qui định
về thương nhân thể nhân với các tên gọi có thể khác nhau. Chẳng hạn: Pháp
luật Anh Quốc gọi thương nhân thể nhân là "Sole Trader", còn pháp luật Hoa
Kỳ gọi là "Sole Propriertorship". Trong khi đó Việt Nam gọi là "doanh nghiệp
tư nhân". Trong một cơng trình nghiên cứu góp ý cho Dự thảo sửa đổi Luật
Doanh nghiệp 2005, PGS.TS. Ngô Huy Cương cho rằng, đây là một cách gọi
sai bởi: thứ nhất, bản thân doanh nghiệp tư nhân là một tổ hợp tài sản khơng
tách khỏi chủ sở hữu của nó là một cá nhân, nằm trong sản nghiệp của người
này, và không phải là chủ thể của các quyền; thứ hai, bản thân cá nhân này
mới là thương nhân có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ phát sinh
từ hoạt động thương mại; thứ ba, hộ gia đình được tạo lập bởi một người cũng
có bản chất là cá nhân kinh doanh nhưng không được xem là doanh nghiệp tư
nhân [12, tr. 21-24].
Có lẽ thuở đầu thương nhân thể nhân chỉ tiến hành các hoạt động
thuần túy mua bán hàng hóa nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Sau này,
cùng với sự mở rộng quan niệm về thương mại thì hoạt động của các thương
nhân cũng được mở rộng ra như các hành vi cung ứng dịch vụ, đầu tư… Họ
thực hiện các hành vi đó nhân danh mình và tự chịu trách nhiệm đối với các

23


hành vi do mình thực hiện. Khác với các hình thức thương nhân khác, thương

nhân thể nhân khơng có sự hùn vốn, khơng có sự liên kết của nhiều thành viên
mà tất cả tài sản được thực hiện để tham gia các giao dịch thương mại thuộc
về một thể nhân duy nhất.
Thương nhân thể nhân phải hội đủ các điều kiện:
- Thực hiện các hành vi thương mại một cách độc lập, thường xuyên
và lấy chúng làm nghề nghiệp của mình;
- Tự thân thực hiện các hành vi thương mại, tức là thực hiện các hành
vi thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của họ (điều này loại trừ người
hoạt động thương mại dưới danh nghĩa và tài khoản của người khác như
người làm công, chi nhánh thương mại, người được ủy quyền…) [10, tr. 72].
Có thể định nghĩa khái niệm thương nhân thể nhân là một cá nhân
chuyên thực hiện các hành vi thương mại nhân danh mình, bằng tài sản của
mình, và lấy các hành vi thương mại đó làm nghề nghiệp của mình.
1.2.2. Điều kiện trở thành thƣơng nhân thể nhân, các điểm lợi và
bất lợi của thƣơng nhân thể nhân
Pháp luật các quốc gia có qui định khác nhau đối với các điều kiện trở
thành thương nhân thể nhân. Theo PGS.TS Ngô Huy Cương phân tích việc
vào nghề của thương nhân thể nhân khác biệt với việc thành lập một pháp
nhân để hành nghề thương mại bởi thể nhân đã tồn tại sẵn bằng da bằng thịt
nên địi hỏi người này phải ở trong tình trạng nhân thân thích hợp vì kinh
doanh trên chính sản nghiệp của mình [12, tr. 25]. Khảo sát pháp luật của các
nước về điều kiện trở thành thương nhân thể cho thấy:
* Ở Hoa Kỳ
Bộ luật Thương mại Nhất thể (UCC-1990) quy định các cá nhân có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ có thể tiến hành các hoạt động kinh doanh
nhân danh tên họ hoặc tên gọi thương mại mà không cần làm thủ tục xin

24



phép. Ở một số bang của Hoa Kỳ có thể phải đăng ký tên hoặc tên gọi thương
mại của chủ thể kinh doanh vào Danh bạ thương mại theo như thơng lệ. Nhìn
chung, một cá nhân muốn trực tiếp tiến hành các hoạt động kinh doanh dưới
hình thức cá thể ở Hoa Kỳ sẽ phải hội đủ ít nhất các điều kiện sau:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
b) Có những am hiểu, trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp
cần thiết;
c) Có đủ các điều kiện vật chất khác như: số vốn tối thiểu tương ứng, tài
sản, thiết bị kỹ thuật;
d) Tìm kiếm được thị trường
Điều kiện nêu tại điểm a nói trên là điều kiện đòi hỏi về mặt pháp lý.
Còn các điều kiện nêu tại các điểm b, c, d nói trên cho phép thương nhân kiểm
nghiệm trên thực tế. Một chủ thể không có đủ điều kiện tối thiểu như vậy sẽ
khơng thể tồn tại được trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt và sẽ tự bị thương
trường đảo thải. Mặt khác, để tránh hành vi lạm dụng, trong thương luật Hoa Kỳ,
một trong những chế định rất được lưu ý là chế định bảo đảm các giao dịch. Chế
định này rất phát triển nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thương trường với nhiều
hình thức pháp lý khác nhau cho các hoạt động kinh doanh [15, tr. 18].
Có thể thấy quyền tự do kinh doanh được mở rộng tối đa qua việc xác
định các điều kiện trở thành thương nhân thể nhân theo pháp luật Hoa Kỳ.
* Ở Pháp
Theo quy định của pháp luật Pháp, thương nhân thể nhân có thể được
chia thành thương nhân theo luật và thương nhân thực tế; thương nhân có cơ
sở thương mại và thương nhân khơng có cơ sở thương mại; thương nhân vợ
chồng cùng hoạt động thương mại và thương nhân vợ chồng hoạt động thương
mại riêng rẽ. Cách phân loại này theo quan điểm của Pháp có ý nghĩa rất lớn
về mặt lý luận và thực tiễn. Mặc dù không đăng ký vào sổ thương mại, nhưng

25



×