Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Báo cáo Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của công chứng viên. Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.6 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
I. Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hoạt động công chứng đã thể hiện vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nước, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an tồn pháp lý, tạo ra mơi trường
pháp lý ổn định cho các giao dịch dân sự, kinh tế thương mại của các cá nhân, tổ chức
trong và ngồi nước.
Có thể nói rong q trình phát triển lĩnh vực công chứng nước ta cũng đã bộc
lộ những hạn chế, bất cập cả về mặt tổ chức và hoạt động làm ảnh hưởng đến các hoạt
động giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại của xã hội, hạn chế sự phát triển của nền
kinh tế thị trường cũng như sự hội nhập của nền kinh tế nước ta và cũng làm giảm đi
hiệu quả quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên
phần lớn là do hệ thống pháp luật nước ta nói chung và trong lĩnh vực cơng chứng nói
riêng chưa đồng bộ, chưa hồn chỉnh cịn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, nhiều quy định
khơng cịn phù hợp với sự phát triển. Mặc dù Luật Công chứng đã ra đời đã giải quyết
được một số vướng mắc nhưng những hạn chế nêu trên vẫn chưa được giải quyết một
cách triệt để. Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật trong
lĩnh vực công chứng tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động công chứng phát triển.
Cùng với việc muốn làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận và thực tiễn vai trị của cơng
chứng viên đối với hoạt động công chứng. Đi sâu vào nghiên cứu các quy định của pháp luật về
vai trị của cơng chứng viên, một nhân tố quan trọng trong việc phát triển của hoạt động cơng
chứng. Đó là lý do tơi chọn đề tài: "Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của công chứng
viên – Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật "

2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
a. Mục đích nghiên cứu
Khái quát được pháp luật công chứng ở nước ta. Phân tích và đánh giá
về vai trị của cơng chứng viên đối với hoạt động công chứng. Trên cơ sở đó
phân tích và đánh giá các yếu tố tác động đến hoạt động cơng chứng
Rà sốt lại các quy định của pháp luật tìm ra sự hạn chế vướng mắc và đề


xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực công chứng và nâng cao hiệu quả
của hoạt động cơng chứng. Góp phần thực hiện mục tiêu cải cách tưpháp cũng như


cải cách nền hành chính nhà nước trong cơng cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

b. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu quá trình và xu hướng phát triển của pháp luật cơng chứng. Đi sâu
phân tích các quy định của pháp luật trong lĩnh vực công chứng và các chế định pháp
luật khác có ảnh hưởng tới cơng chứng.

3. Cơ cấu của bài báo cáo
- Phần mở đầu
- Nội dung
Chương 1: Quy định của pháp luật về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của công chứng viên
Chương 3: Đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.
- Kết luận


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CƠNG CHỨNG VIÊN
1.1 Khái niệm cơng chứng viên
Công chứng được định nghĩa là công việc mà trong đó người thực hiện cơng
việc trực tiếp đó là cơng chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng đứng
ra chịu trách nhiệm thực hiện đối với tính hợp pháp, tính xác thực của giao dịch dân
sự, của hợp đồng đó bằng văn bản (sau đây được gọi chung là giao dịch, hợp đồng),
đối với tính hợp pháp, tính chính xác và ln phải đảm bảo đúng ngun tắc không

trái với đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, các văn bản từ tiếng việt sang tiếng
nước ngoài cũng như các văn bản được dịch ngược lại từ tiếng nước ngoài sang
tiếng Việt (sau đây được gọi chung là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật thì
các văn bản này phải được cơng chứng hoặc một số trường hợp là do ý chí của các
cá nhân, tổ chức vì muốn đảm bảo tính pháp lý cũng như những vấn đề phát sinh về
sau sẽ luôn đảm bảo được thực hiện đúng như theo văn bản đã ký thì tự nguyện
muốn đi cơng chứng văn bản đó.
– Công chứng viên được Luật công chứng năm 2014 quy định rất cụ thể tại
Điều 8 của bộ luật này đó là những cá nhân có đẩy đủ phẩm chất và tiêu chuẩn theo
quy định và được đích thân Bộ trưởng Bộ tư pháp ký quyết định bổ nhiệm thì mới
có thể tiến hành hành nghề cơng chứng.
– Theo quy định tại Điều 3, Luật cơng chứng năm 2014 thì cơng chứng viên
có chức năng xã hội đó là cung cấp các dịch vụ công mà được cơ quan Nhà nước
tiến hành việc ủy nhiệm trong việc thực hiện nhằm đảm bảo đối với việc đảm bảo
an toàn pháp lý cho các bên tham gia trong hợp đồng, giao dịch đang u cầu được
cơng chứng; cơng chứng viên có chức năng phòng ngừa đối với các tranh chấp về
nội dung văn bản mà nếu khơng được cơng chứng thì có thể các tranh chấp này sẽ
xảy ra; ngồi ra thì cơng chứng viên cịn có trách nhiệm trong việc góp phần bảo vệ


quyền, cũng như lợi ích hợp pháp của cá nhân, cũng như tổ chức yêu cầu công
chứng và các bên liên quan khác; cuối cùng cơng chứng viên có chức năng tham
gia vào việc thực hiện ổn định cũng như phát triển kinh tế – xã hội
1.2. Điều kiện, tiêu chuẩn cơng chứng viên
Luật cơng chứng đã có những quy định tạo điều kiện để những người có đủ
tiêu chuẩn và trình độ muốn hành nghề cơng chứng được chủ động hơn trong việc
trở thành công chứng viên.
Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam trung thành với tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu chuẩn sau đây
thì được xem xét bổ nhiệm làm cơng chứng viên:

a) có bằng cử nhân luật;
b) có thời gian cơng tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan tổ
chức;
c) có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề công chứng, đã qua thời gian
tập sự hành nghề công chứng;
d) Đã qua thời gian tập sự hành nghề cơng chứng
e) Có sức khỏe bảo đảm hành nghề cơng chứng.
* Thời gian đào tạo nghề công chứng và tập sự hành nghề cơng chứng được
tính vào thời gian cơng tác pháp luật”.
Dựa trên tiêu chuẩn công chứng viên, pháp luật quy định một cách rất cụ thể
người thực hiện cơng chứng và nói chung các quy định đó cũng khá đúng đắn và
hợp lý. Tuy nhiên, tiêu chuẩn công chứng viên vẫn cịn một số điểm hạn chế như:
Cơng chứng viên là người bảo vệ quyền lợi người công chứng nhưng cũng
có thể gây thiệt hại to lớn về kinh tế nếu thiếu hiểu biết hoặc làm việc tắc trách, bất
cẩn. Do vậy, những tiêu chuẩn đó so với yêu cầu thực tế còn sơ sài và làm nảy sinh
rất nhiều bất cập. Ví dụ: một số giao dịch liên quan đến bất động sản có biểu hiện
cơng chứng “treo”. Công chứng viên không qua đào tạo nghề công chứng ở một số


văn phịng cơng chứng có tình trạng lơi kéo khách hàng, thực hiện hoạt động công
chứng trái quy định.
Việc luật công chứng cũng không quy định về tuổi hành nghề công chứng
cũng là một điểm hạn, nếu công chứng viên cao tuổi sẽ hạn chế về sức khỏe, không
đáp ứng được yêu cầu về tư duy về nghiệp vụ sắc bén, địi hỏi cần có sự tinh thơng.
Ngồi ra, cịn một điểm hạn chế lớn của luật công chứng hiện hành đó là việc quy
định các trường hợp được miễn đào tạo và miễn tập sự nghề công chứng bao gồm
những người: “Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề
từ ba năm trở lên, là giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật, đã là thẩm
tra viên cao cấp ngành toà án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát; chuyên viên
cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực pháp luật”.

Tuy đây là những người có trình độ pháp lý cao nhưng cơng chứng viên là
nghề rất đặc thù, tính chịu trách nhiệm cao, văn bản pháp cơng chứng có giá trị
pháp lý khơng phải chứng minh…do đó, những người này khơng cần phải đào tạo
cũng khơng có lấy một ngày tập sự hành nghề là khơng phù hợp. Thực tế có nhiều
vụ việc công chứng viên “sang ngang” kiểu này đã dẫn đến những vi phạm đáng
tiếc.
Để hoàn thiện hơn, cần sửa đổi Luật Công chứng theo hướng thu hẹp đối
tượng được miễn đào tạo nghề công chứng, cụ thể là không miễn đào tạo cho đối
tượng đã là điều tra viên, luật sư hành nghề từ 3 năm trở lên mà chỉ miễn đào tạo
nghề công chứng cho người đã là thẩm phán, kiểm sát viên, cơng chứng viên, giáo
sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sỹ luật nhằm quy định chặt chẽ hơn về điều
kiện được miễn đào tạo nghề công chứng; bổ sung quy định những đối tượng được
miễn đào tạo phải tham gia khố bồi dưỡng nghề cơng chứng trước khi đề nghị bổ
nhiệm, trừ những người đã là công chứng viên mà thôi hành nghề công chứng tính
đến trước thời gian bổ nhiệm tối đa là 5 năm.


Đồng thời, cần bổ sung quy định người được miễn đào tạo nghề công chứng
cũng phải tập sự tại một tổ chức hành nghề công chứng, song được giảm 1/2 thời
gian tập sự vì đây là những người đã có kinh nghiệm làm việc trong các lĩnh vực
pháp luật; bổ sung quy định về kiểm tra kết quả tập sự hành nghề công chứng nhằm
đảm bảo và tăng cường chất lượng của việc tập sự hành nghề công chứng, đánh giá
được hiệu quả và thực chất của việc tập sự.
1.3 Quyền hạn của công chứng viên
Căn cứ theo quy định tại Điều 17, Luật cơng chứng năm 2014 có quy định thì
cơng chứng viên có các quyền hạn như sau đây:
– Công chứng viên sẽ được công chứng các giao dịch dân sự, các hợp đồng
cũng như các bản dịch từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt theo đúng quy định của Luật công chứng 2014 đà thể
hiện rõ ràng.

– Công chứng viên có quyền tham gia thành lập các văn phịng cơng chứng
riêng hoặc có thể tham gia làm việc dưới dạng hợp đồng lao động cho các tổ chức
hành nghề cơng chứng khác mà mình lựa chọn tùy điều kiện và nhu cầu của mỗi
công chứng viên.
– Công chứng viên có quyền cơng chứng các văn bản, giao dịch, bản dịch
theo quy định của pháp luật tuy nhiên nếu trong q trình thực hiện mà cơng chứng
viên xét thấy trong hợp đồng, bản dịch, giao dịch đó có nội dung trái với quy định
của pháp luật, trái với đạo đức xã hội thì cơng chứng viên hồn tồn có quyền từ
chối đối với các cơng việc đó.
– Cơng chứng viên có quyền thực hiện việc đưa ra đề nghị của mình đến các
cá nhân, cơ quan, cũng như đến các tổ chức mà xét nội dung thấy rằng có liên quan
để cung cấp các tài liệu, thông tin nhằm mục đích thực hiện được cơng việc của
mình theo đúng tinh thần của pháp luật.
– Cơng chứng viên cịn có một số quyền hạn khác nhất định theo quy định
của Luật công chứng năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có nội


dung liên quan đến công chứng và nằm trong phạm vi quyền hạn của công chứng
viên được thực hiện.
1.4. Nghĩa vụ của cơng chứng viên
– Cơng chứng viên có nghĩa vụ phải tuân thủ đối với các nguyên tắc hành
nghề cơng chứng đó là: ln phải đảm bảo tính khách quan, trung thực trong cơng
việc của mình; tn thủ đúng theo tinh thần của hiến pháp và pháp luật đã quy định;
đứng ra chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước người u cầu cơng chứng về
tính hợp pháp của văn bản mình đã cơng chứng; tn thủ theo đúng quy tắc đạo đức
nghề nghiệp của việc hành nghề công chứng, các nguyên tắc sát sườn của việc hành
nghề công chứng.
– Công chứng viên phải hành nghề tại một tổ chức hành nghề công chứng cụ
thể, tổ chức hành nghề cơng chứng này phải có đầy đủ các giấy tờ pháp lý về việc
hành nghề là hợp pháp, đủ tư cách thực hiện nghề nghiệp.

– Cơng chứng viên có nghĩa vụ thực hiện việc giải thích cho người u cầu
cơng chứng được hiểu rõ về các quyền lợi cũng như các nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp của người yêu cầu công chứng, về ý nghĩa cũng như các hậu quả pháp lý có
thể xảy ra của việc cơng chứng văn bản, hợp đồng, giao dịch dân sự, bản dịch đó.
Trường hợp nếu cơng chứng viên mà từ chối u cầu cơng chứng của người u
cầu cơng chứng thì có nghĩa vụ phải giải thích rõ về lý do từ chối cơng chứng của
mình cho người u cầu cơng chứng được biết hoặc bổ sung giấy tờ nếu trong
trường hợp có thể bổ sung.
– Cơng chứng viên có nghĩa vụ đối với việc tôn trọng cũng như bảo vệ
quyền, các lợi ích hợp pháp của người có u cầu cơng chứng văn bản của họ. Ở
đây người yêu cầu công chứng được hiểu là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc người
u cầu cơng chứng cũng có thể là cá nhân, tổ chức nước ngồi mà có u cầu cơng
chứng đối với hợp đồng, giao dịch, bản dịch của họ.
– Công chứng viên phải đảm bảo đối với nội dung mình đã cơng chứng ln
được tuyệt mật, khơng được tiết lộ nội dung mình đã cơng chứng cho người khác


biết trừ trường hợp được sự đồng ý của người yêu cầu công chứng bằng văn bản
hoặc trong một số trường hợp mà pháp luật có quy định rõ ràng về tính bảo mật của
văn bản.
– Ngồi việc thực hiện hành nghề cơng chứng thì cơng chứng viên cịn có
nghĩa vụ phải tham gia bồi dưỡng nghiệp vụ công chứng hàng năm theo quy chuẩn
để nâng cao nghiệp vụ cũng như cập nhập các quy định mới của pháp luật trong
cơng tác hành nghề cơng chứng của mình ln được chính xác và đúng quy định
của pháp luật.
– Cơng chứng viên có nghĩa vụ phải thực hiện việc tham gia các tổ chức xã
hội – nghề nghiệp của công chứng viên theo quy định của nghề. Tổ chức xã hội –
nghề nghiệp của công chứng viên được hiểu ở đây đó là những tổ chức hoạt động
dưới cơ chế tự quản được thành lập và hình thành ở cấp trung ương và cấp tỉnh với
mục đích đại diện cho cơng chứng viên cũng như nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của các công chứng viên đang hoạt động công chứng.
Các tổ chức cơng chứng này có các hoạt động cụ thể như tham gia cùng cơ
quan nhà nước trong công việc tiến hành việc tổ chức đào tạo, tập sự hành nghề
công chứng cũng như bồi dưỡng nghiệp vụ ngành; các tổ chức hành nghề công
chứng tham gia trong việc ban hành các quy tắc đạo đức hành nghề cơng chứng;
tham gia ý kiến với các cơ quan có thẩm quyền trong các việc bổ nhiệm hay việc
miễn nhiệm đối với công chứng viên, tham gia thành lập, sáp nhập các tổ chức
hành nghề công chứng, chuyển nhượng, chấm dứt các hoạt động của các tổ chức
hành nghề công chứng này và một số nhiệm vụ khác mà pháp luật quy định và có
liên quan đến hoạt động cơng chứng theo quy định của Chính phủ; ngồi ra cuối
cùng thì tổ chức hoạt động hành nghề cơng chứng cịn có nghĩa vụ tham gia vào
hoạt động giám sát đối với công việc tuân thủ quy định của pháp luật về công
chứng cũng như quy tắc của đạo đức hành nghề cơng chứng nhất định.
– Cơng chứng viên có nghĩa vụ chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản
mình đã cơng chứng cũng như có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm trước người yêu


cầu công chứng về văn bản mà công chứng viên đã cơng chứng. Cơng chứng viên
cũng có nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của văn
phịng cơng chứng mà cơng chứng viên đó là cơng chứng viên hợp danh đang làm
việc.
– Công chứng viên sẽ chịu sự quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
cũng như của tổ chức hành nghề công chứng mà mình làm cơng chứng viên và
cơng chứng viên cịn chịu sự quản lý của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của cơng
chứng viên mà ở đó họ là thành viên của tổ chức xã hội – nghề nghiệp này.
– Cuối cùng ngồi các nghĩa vụ trên thì cơng chứng viên cịn có các nghĩa vụ
khác theo quy định của pháp luật và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan theo quy định.



CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
CƠNG CHỨNG VIÊN – ĐỀ XUẤT HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Những bất cập trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công
chứng viên
2.1.1. Đối với công chứng viên
Theo quy định của Luật Cơng chứng thì tiêu chuẩn để trở thành Cơng chứng
viên phải có đủ các điều kiện sau:
Công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam, trung thành với Tổ quốc,
tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và có đủ các tiêu
chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm làm Cơng chứng viên (theo khoản 1
Điều 13):
- Có bằng cử nhân luật;
- Có thời gian cơng tác pháp luật từ năm năm trở lên tại các cơ quan, tổ chức;

- Có giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề cơng chứng;
- Đã qua thời gian tập sự hành nghề công chứng;
- Có sức khỏe bảo đảm hành nghề cơng chứng.
Cơng chứng viên là một chức danh tư pháp, người được bổ nhiệm làm Cơng chứng
viên phải có đủ các tiêu chuẩn và điều kiện nhất định. Quy định như trên hồn tồn hợp lý
vì hoạt động cơng chứng địi hỏi tính chun mơn và chun nghiệp cao. Vai trị của Công
chứng viên đối với xã hội là rất quan trọng, thơng qua hoạt động của mình bảo đảm

an tồn pháp lý và tạo ra môi trường pháp lý ổn định cho các giao dịch dân sự,
kinh tế thương mại của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước. Do vậy, một
người muốn trở thành Công chứng viên để hành nghề cơng chứng ngồi trình
độ chun mơn nhất định thì tất nhiên phải được đào tạo các kỹ năng nghiệp
vụ cơ bản mang tính đặc thù của nghề cơng chứng. Nhưng cũng theo Luật
Cơng chứng lại có những quy định sau:



Người được miễn đào tạo nghề công chứng:
- Đã là thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên; luật sư đã hành nghề từ ba năm trở
lên.
- Giáo sư, phó giáo sư chuyên ngành luật, tiến sĩ luật.
- Đã là thẩm tra viên cao cấp ngành tòa án, kiểm tra viên cao cấp ngành kiểm sát;
chuyên viên cao cấp, nghiên cứu viên cao cấp, giảng viên cao cấp trong lĩnh vực
pháp luật (Điều 15).
Người được miễn đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 15 của
Luật này được miễn tập sự hành nghề công chứng (Điều 17).
Người được miễn đào tạo nghề công chứng, được miễn tập sự hành
nghề cơng chứng có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm Cơng
chứng viên... (khoản 2, Điều 18).
Phân tích các quy định trên nhận thấy sự bất hợp lý trong việc bổ nhiệm Công
chứng viên đối với một số người khi có các tiêu chuẩn trên. Cơng chứng viên, kiểm sát
viên, Luật sư... đều là các chức danh tư pháp. Ngồi trình độ chun mơn là điều kiện bắt
buộc họ đều phải trải qua một khóa học về các kỹ năng, nghiệp vụ chuyên ngành phù hợp
với mỗi đặc thù công việc. Với những người không phải trải qua thời gian tập sự chắc chắn
khi được bổ nhiệm để làm cơng việc hồn tồn khác so với những cơng việc chun mơn
trước đây họ làm thì sẽ khơng đáp ứng được yêu cầu công việc. Với quy định bất hợp lý

này, vị trí của Cơng chứng viên bị hạ thấp đi so với các chức danh tư pháp
khác.
Quy định thời gian tập sự bắt buộc đối với các nhân viên nghiệp vụ đã có
thời gian làm việc trong tổ chức công chứng ngang bằng với thời gian tập sự của
những người chưa từng cơng tác trong lĩnh vực đó cũng là một điều không hợp lý và
không công bằng. Hàng ngày họ trực tiếp giúp Công chứng viên làm các công việc
liên quan trực tiếp đến hoạt động công chứng nên họ có điều kiện học hỏi, trau dồi
kỹ năng nghề nghiệp, nắm bắt được quy trình làm việc... qua đó họ sẽ tích lũy được
nhiều kỹ năng nghiệp vụ hơn những người chưa từng trải qua công việc này. Thực tế



khi họ về tập sự thì họ lại làm chính những công việc hàng ngày mà họ vẫn làm, chỉ
đợi đủ thời gian tập sự theo quy định của pháp luật là họ đề nghị bổ nhiệm. Như thế,
đối với những người làm việc lâu năm trong nghề công chứng nhưng chưa có điều
kiện tham dự lớp học nghề Cơng chứng viên sẽ rất thiệt thòi, mặt khác khi họ tốt
nghiệp khóa đào tạo nghề cơng chứng mà được bổ nhiệm làm Công chứng viên ngay
sẽ tăng được thời gian hành nghề của Công chứng viên, số lượng Công chứng viên
cũng sẽ được tăng nhanh.
Quy định về trách nhiệm vật chất của Cơng chứng viên cịn nhiều bất cập. Hiện
nay vấn đề này vẫn còn thiếu những điều kiện để thực thi như: chưa có quy định về mức
bảo hiểm mà Văn phịng cơng chứng phải mua cho Cơng chứng viên của tổ chức mình,
chưa xây dựng được khung bảo hiểm cho loại hình này khi có thiệt hại xảy ra. Hiện nay có
địa phương đã quy định khi thành lập Văn phịng cơng chứng Cơng chứng viên phải nộp
một số tiền ký quỹ nhất định để nếu có thiệt hại xảy ra thì lấy số tiền đó bồi thường. Như
vậy là không đúng với tinh thần của pháp luật và tất nhiên là trái luật, vì Luật Cơng chứng
chỉ quy định Văn phịng cơng chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho Công chứng viên của tổ chức mình (khoản 7 Điều 32). Cùng thực hiện hoạt động cơng
chứng, nhưng ở Văn phịng cơng chứng thì phải mua bảo hiểm cịn ở Phịng Cơng chứng thì
vấn đề này không được đặt ra, như vậy là không công bằng khi xảy ra thiệt hại do lỗi của

Công chứng viên thì lấy kinh phí ở đâu ra bồi thường, kể cả trong trường hợp Phịng
Cơng chứng xây dựng được quỹ dự phòng để bồi thường những trường hợp này thì
cũng khơng hợp lý vì nhiều khi thiệt hại là rất lớn so với số tiền trong quỹ dự phịng và
khơng thể bắt mọi người cùng phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi của một người.
Việc quy định Văn phịng cơng chứng có nghĩa vụ mua bảo hiểm chứ không phải là
Công chứng viên cũng là quy định khơng hợp lý. Vai trị, trách nhiệm của Cơng chứng
viên mang tính cá nhân cao, để nâng cao trách nhiệm của Công chứng viên khi hành
nghề cần phải quy định bắt buộc Công chứng viên phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp bất kể Cơng chứng viên đó hành nghề trong tổ chức hành nghề công chứng nào.


2.1.2 Đối với công chứng viên hướng dẫn tập sự


Khoản 3 Điều 11 Luật Công chứng năm 2014(Luật Công chứng) quy định tổ
chức hành nghề công chứng phân công công chứng viên hướng dẫn người tập sự;
“Công chứng viên hướng dẫn tập sự phải có ít nhất 02 năm kinh nghiệm hành nghề
công chứng. Công chứng viên bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động hành nghề cơng chứng thì sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết
định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới được hướng dẫn tập sự
hành nghề công chứng…”. Như vậy, sau 12 tháng kể từ ngày chấp hành xong quyết
định xử phạt vi phạm hành chính thì cơng chứng viên mới được hướng dẫn tập sự
hành nghề công chứng. Quy định này chưa tương thích với Luật Xử lý vi phạm
hành chính năm 2012 (Luật Xử lý VPHC). Cụ thể là theo Điều 21 Luật Xử lý
VPHC quy định về các hình thức xử phạt và ngun tắc áp dụng thì có 05 hình thức
xử phạt gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn; Tịch thu tang vật VPHC,
phương tiện được sử dụng để VPHC; Trục xuất và khoản 1 Điều 7 của Luật Xử lý
VPHC quy định thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi VPHC: “Cá nhân, tổ chức bị
xử phạt vi phạm hành chính, nếu trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành
xong quyết định xử phạt cảnh cáo hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết
định xử phạt hành chính khác hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử
phạt VPHC mà không tái phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành
chính”. Nếu cơng chứng viên bị xử phạt VPHC bằng hình thức cảnh cáo thì theo
quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý VPHC, công chứng viên trong thời hạn 06
tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo, đương nhiênđược
coi là chưa bị xử lý VPHC. Do đó, việc quy định cơng chứng viên sau 12 tháng kể
từ ngày chấp hành xong quyết định kỷ luật, quyết định xử phạt vi phạm hành
chính mới được hướng dẫn tập sự hành nghề cơng chứng tại khoản 3 Điều 11 Luật
Công chứng, là chưa thống nhất với quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý VPHC.
2.2. Những bất cập trong quá trình thực hiện cơng việc tại phịng cơng chứng

của nhân viên công chứng


* Ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng
Khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng quy định “Việc điểm chỉ được thay thế việc ký
trong trường hợp người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch
không ký được do khuyết tật hoặc không biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công
chứng, người làm chứng, người phiên dịch sử dụng ngón trỏ phải; nếu khơng điểm
chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng ngón trỏ trái; trường hợp khơng thể
điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng ngón khác và phải ghi rõ việc
điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào”. Quy định này vẫn chưa bao quát hết
trường hợp nếu người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch bị
cụt cả hai bàn tay không thể ký được và cũng khơng thể điểm chỉ được thì cơng
chứng viên sẽ phải giải quyết tình huống này như thế nào khi mà Luật Công chứng
vẫn chưa quy định cho trường hợp này. Do đó, đây được xem là “khoảng trống”
trong quy định của Luật Công chứng.
* Công chứng bản dịch
Khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng quy định “Lời chứng của công chứng viên đối
với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công chứng, họ tên công chứng viên,
tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người phiên dịch; chứng nhận chữ ký
trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch; chứng nhận nội dung bản dịch
là chính xác, khơng vi phạm pháp luật, khơng trái đạo đức xã hội; có chữ ký của
cơng chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề cơng chứng”. Rõ ràng, quy
định này vơ hình trung đã “trói” trách nhiệm công chứng viên đối với nội dung bản
dịch phải đảm bảo nội dung bản dịch là chính xác, không vi phạm pháp luật, không
trái đạo đức xã hội. Quy định chưa khả thi và rất khó cho cơng chứng viên vì trên
thực tế khơng phải cơng chứng viên nào cũng hiểu nội dung ngơn ngữ tiếng nước
ngồi (các cơng chứng viên hiện nay chỉ có thể giỏi một hoặc hai ngoại ngữ đã là
số ít) để xác định rằng có hay khơng nội dung bản dịch là chính xác, không vi phạm
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.



* Công chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch
Tên tiêu đề và nội hàm Điều 51 Luật Công chứng quy định “công chứng việc sửa
đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch” là chưa tương thích với quy định tại
Điều 422 Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015). BLDS 2015 chỉ quy định sửa
đổi, chấm dứt hợp đồng[2] và việc hủy bỏ hợp đồng chỉ là một trong những trường
hợp thuộc chấm dứt hợp đồng. Hay nói cách khác, phạm vi và nội hàm khái niệm
“chấm dứt hợp đồng” bao quát hơn so với khái niệm “hủy bỏ hợp đồng”. Cụ thể,
Điều 422 BLDS 2015 quy định chấm dứt hợp đồng trong các trường hợp sau: “1.
Hợp đồng đã được hoàn thành; 2. Theo thỏa thuận của các bên; 3. Cá nhân giao kết
hợp đồng chết, pháp nhân giao kết hợp đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng phải do
chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện; 4. Hợp đồng bị hủy bỏ, bị đơn phương
chấm dứt thực hiện; 5. Hợp đồng không thể thực hiện được do đối tượng của hợp
đồng khơng cịn; 6. Hợp đồng chấm dứt theo quy định tại Điều 420 của Bộ luật
này; 7. Trường hợp khác do luật quy định”. Mặt khác, Bộ luật Dân sự cũng khơng
quy định “bổ sung hợp đồng”. Do đó, quy định tại Điều 51 Luật Công chứng rõ
ràng chưa phù hợp với BLDS.
* Miễn nhiệm công chứng viên
Điểm e khoản 2 Điều 15 Luật Công chứng quy định: “Đã bị xử phạt vi phạm hành
chính đến lần thứ hai trong hoạt động hành nghề cơng chứng mà cịn tiếp tục vi
phạm; bị xử lý kỷ luật bằng hình thức từ cảnh cáo trở lên đến lần thứ hai mà còn
tiếp tục vi phạm hoặc bị kỷ luật buộc thôi việc”. Căn cứ vào quy định này thì phải
được hiểu rằng công chứng đã bị xử phạt VPHC hai lần mà cịn tiếp tục vi phạm thì
bị miễn nhiệm cơng chứng viên. Đây là quy định chưa phù hợp với Luật Xử lý
VPHC, cụ thể khoản 1 Điều 7 quy định thời hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC
của Luật Xử lý VPHC: “Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính, nếu
trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt cảnh cáo
hoặc 01 năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hành chính khác hoặc



từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mà khơng tái
phạm thì được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính”. Do đó, sẽ là khơng phù
hợp nếu một cơng chứng viên vi phạm đã bị xử phạt VPHC vào năm 2015, đến
năm 2017 công chứng viên này cũng bị bị xử phạt phạt VPHC trong hoạt động
hành nghề của mình và năm 2018 cũng chính người này tiếp tục vi phạm cũng
trong lĩnh vực cơng chứng thì bị miễn nhiệm công chứng viên nếu xét theo quy
định tại điểm e khoản 2 Điều 15 Luật Cơng chứng.
CHƯƠNG 3: HƯỚNG HỒN THIỆN PHÁP LUẬT XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ
CÔNG CHỨNG VIÊN CHẤT LƯỢNG CAO, PHẨM CHẤT TỐT
3.1. Công chứng viên hướng dẫn tập sự
Để đảm bảo sự tương thích giữa Luật Cơng chứng với Luật Xử lý VPHC,
Luật Công chứng cần được sửa lại theo hướng sau:Công chứng viên bị xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động hành nghề cơng chứng thì sau khi hết thời hạn
được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định của Luật Xử lý vi phạm
hành chínhmới được hướng dẫn tập sự hành nghề công chứng.
3.2. Những trường hợp không được bổ nhiệm công chứng viên
Khoản 3 Điều 13 Luật Công chứng chỉ quy định không bổ nhiệm đối với
trường hợp người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà khơng đề cập
đến trường hợp có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi là chưa phù hợp với
BLDS. Trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi theo quy
định phải có người giám hộ nên rõ ràng cần được quy định vào trường hợp không
được bổ nhiệm công chứng viên. Do đó, quy định khoản 3 Điều 13 Luật Cơng
chứng cần được sửa đổi theo hướng sau: Không bổ nhiệm công chứng viên đối với
người bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong
nhận thức, làm chủ hành vi.


3.3. Ký, điểm chỉ trong văn bản công chứng
Người bị cụt một tay hay cả hai tay đều có quyền cơng dân như mọi người khác,

đều có nhu cầu giao dịch trong các lĩnh vực đời sống, xã hội bình thường hằng
ngày. Do đó, đảm bảo quyền cho những người bị cụt hai tay thực hiện được ý chí
của mình trong giao dịch dân sự, khoản 2 Điều 48 Luật Công chứng quy định theo
hướng sau: Đối với những người không thể ký hoặc điểm chỉ do khuyến khuyết của
cơ thể thì phải có 02 người làm chứng ký hoặc điểm chỉ vào văn bản công chứng
để xác nhận ý chí của người u cầu cơng chứng trong giao dịch dân sự.
3.4. Cơng chứng bản dịch
Nhằm đảm bảo tính thực tiễn và khả thi của quy định, Luật Công chứng nên sửa
đổi quy định tại khoản 3 Điều 61 Luật Công chứng theo hướng công chứng viên
chịu trách nhiệm chứng thực chữ ký của người dịch và nội dung bản dịch thì người
dịch phải chịu trách nhiệm.
3.5. Cơng chứng việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng, giao dịch
Luật Công chứng quy định “bổ sung, hủy bỏ hợp đồng” là chưa phù hợp và chưa
bao quát so với quy định của BLDS vì hủy bỏ hợp đồng chỉ là một trong những
trường hợp thuộc chấm dứt hợp đồng theo quy định tại Điều 422 BLDS 2015. Mặt
khác, BLDS cũng quy định “sửa đổi hợp đồng” mà không quy định “bổ sung hợp
đồng”. Do đó, nhằm đảm bảo sự thống nhất với BLDS, Điều 51 Luật Công chứng
cần được sửa đổi như sau: công chứng việc sửa đổi, chấm dứt hợp đồng.


KẾT LUẬN
Trước yêu cầu phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương thực
hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế. Mở rộng đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế trên
nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị... Với chủ trương đúng đắn và kịp thời này đã
làm thay đổi diện mạo đất nước trong những năm gần đây. Sự phát triển kinh tế theo định
hướng này làm cho các mối quan hệ về kinh tế, dân sự, thương mại phát triển đa dạng và
không ngừng tăng thêm về số lượng và tính chất của các hợp đồng, giao dịch. Để tạo ra môi
trường pháp lý ổn định, bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các
cá nhân và tổ chức cần đảm bảo bằng nhiều chế định pháp luật trong đó có chế định pháp

luật cơng chứng.
Có thể nói đánh giá thực trạng pháp luật và đề ra tiêu chí để hồn thiện pháp luật
qua thực tiễn thực hiện quyền và nghĩa vụ của công chứng viên đã nâng cao hiệu quả hoạt
động công chứng. Đồng thời qua báo cáo đã đề xuất phương hướng cũng như những giải
pháp cụ thể để hồn thiện pháp luật cơng chứng.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012.
2. Luật cơng chứng năm 2014.
3. Luật quản lý thuế năm 2006.





×