Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đánh giá biến động thành phần loài, mật độ cá bột và cá con ở đồng bằng sông Cửu Long năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 12 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ĐÁNH GIÁ BIẾN ĐỘNG THÀNH PHẦN LOÀI, MẬT ĐỘ CÁ BỘT VÀ
CÁ CON Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG NĂM 2019
Trần Thúy Vy 1*, Nguyễn Nguyễn Du1, Huỳnh Hoàng Huy1 và Đinh Trang Điểm1

TĨM TẮT
Nguồn lợi cá nước ngọt ở Đồng bằng sơng Cửu Long liên quan mật thiết với nguồn lợi cá của lưu
vực sơng Mê Cơng. Nhiều lồi cá di cư ở lưu vực sông Mê Công tập trung sinh sản vào đầu mùa lũ,
trứng và cá bột được trôi dạt từ thượng nguồn hay các bãi đẻ theo dòng nước phân tán vào các kênh
rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ để ẩn náu, sinh trưởng và phát triển. Nghiên cứu quan trắc nguồn
lợi cá bột nhằm đánh giá nguồn lợi thủy sản ở lưu vực cũng như có thể dự báo được sự biến động
nguồn lợi thuỷ sản. Cá bột và cá con ở sông Tiền và sông Hậu gần biên giới Việt Nam và Campuchia
được thu mẫu hàng ngày từ 01/06/2019 đến 30/09/2019 tại thời điểm nước ròng bằng hai loại ngư
cụ Lú và Đáy. Mẫu cá được lưu trữ trong keo nhựa với nồng độ cồn 70%, và sau đó mẫu được định
danh và phân tích tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II. Tổng cộng 928 mẫu được phân tích,
và kết quả phân tích đã xác định được 128 loài thuộc 11 bộ và 32 họ, trong đó 73 lồi ở sơng Hậu
và 118 lồi ở sơng Tiền. Số lồi cao nhất vào tháng 9 với 94 loài, họ cá chép phong phú nhất chiếm
38% tổng số lồi. Mật độ trung bình cá bột và cá con đạt cao nhất vào tháng 7 và tháng 8 lần lượt
là 22 cá thể/1.000 m3 nước và 27 cá thể/1.000 m3 nước. Xu hướng thành phần loài tăng dần từ đầu
mùa lũ đến cuối mùa lũ, trong khi đó mật độ cá thể có biến động giảm theo chiều ngược lại.
Từ khóa: Biến động, cá bột và cá con, mật độ, thành phần lồi, sơng Tiền và sơng Hậu.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sông Mê Công chảy vào Việt Nam qua 2
nhánh sông Tiền (dài 150 km) và sông Hậu (dài
190 km) tạo nên một lưu vực vùng Đồng bằng
sông Cửu Long (ĐBSCL) với tổng diện tích gần
40.550 km2, chiếm khoảng 12% diện tích cả
nước. Nguồn lợi cá nước ngọt ở ĐBSCL có liên
quan mật thiết đến các khu vực cư trú, các bãi


đẻ, đặc biệt là các vùng cư trú của chúng thuộc
các chi lưu vực sông Mê Công ở thượng nguồn.
Vào đầu mùa lũ bắt đầu vào khoảng tháng 5 – 6
hàng năm, đây được xem là mùa sinh sản tập
trung của các loài cá trên thượng nguồn, cá bột
và cá con di cư thụ động theo dòng nước về
phía hạ lưu. Sau đó đàn cá con phân tán vào
các kênh rạch, ruộng đồng, vùng ngập lũ,… để
sinh trưởng và phát triển. Nguồn lợi cá con này
có ý nghĩa rất lớn trong việc phục hồi và duy
trì nguồn lợi cá tự nhiên hàng năm cho vùng
ĐBSCL.
Nghiên cứu cá bột và cá con đã được thực

hiện từ năm 1999 đến 2003. Kết quả chỉ ra rằng
có 127 lồi, bao gồm 123 lồi ở sơng Tiền và 84
lồi ở sơng Hậu thuộc 29 họ thuộc 10 bộ. Chế độ
dòng chảy, mực nước lũ, quy luật ngày đêm có
liên quan đến mật độ cá bột và cá con (Nguyễn
Thanh Tùng, 2004). Định dạng và phân loại các
giai đoạn của cá bột gặp rất nhiều khó khăn vì
các thành phần cơ thể của cá chưa phát triển đầy
đủ do đó hầu hết mẫu được định danh chủ yếu
đến họ và đến giống. Những nghiên cứu trước
đây về phân loại cá ở ĐBSCL chủ yếu tập trung
vào các lồi cá trưởng thành (Mai Đình Yên và
ctv., 1985, 1992; Trương Thủ Khoa và Trần Thị
Thu Hương, 1993). Nghiên cứu các giai đoạn
phát triển của cá từ trứng đến cá con cũng được
thực hiện nhưng chỉ đến mức độ họ (Nguyễn

Văn Trọng, 1987; Nguyễn Hữu Phụng, 1991).
Nguồn lợi cá bột và cá con ở ĐBSCL rất đa
dạng và phong phú. Tuy nhiên, nguồn lợi thủy
sản ở vùng ĐBSCL đang có xu hướng giảm dần
do nhiều nguyên nhân, trong đó nguồn lợi cá

Viện Nghiên cứu Ni trồng Thủy sản II
* Email:

1

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

71


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

bột và cá con là phần bổ sung và đóng góp một
phần quan trọng đến nguồn lợi thủy sản nước
ngọt của vùng ĐBSCL. Việc bảo vệ nguồn lợi
cá tự nhiên cũng là việc bảo vệ các nguồn tài
nguyên thủy sản tiềm năng ở ĐBSCL. Chính
vì vậy, việc thực hiện nghiên cứu này rất quan
trọng và có ý nghĩa nhằm mục tiêu phân tích,
xác định, đánh giá biến động thành phần loài
và mật độ cá bột, cá con ở ĐBSCL. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng góp phần đánh giá tình
trạng và xu hướng của nghề đánh bắt trên toàn
lưu vực cũng như cung cấp phương tiện giám

sát và đánh giá hiệu quả hơn các hoạt động

quản lý nước và phát triển lưu vực.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
2.1. Vị trí thu mẫu
Hai trạm đầu nguồn củưa sông Tiền và
sông Hậu thuộc tỉnh An Giang gần biên giới
Campuchia (Hình 1). Vị trí đặt trạm thu mẫu
là nơi tiếp nhận nguồn nước từ thượng nguồn
đổ về ĐBSCL hàng năm. Trước năm 2000, nơi
đây là vùng vớt và ương dưỡng cá tra bột truyền
thống vào đầu mùa mưa và là nơi đã cung cấp
cá tra giống cho nghề ni ở khu vực Nam Bộ.

Hình 1. Vị trí hai trạm thu mẫu cá bột và cá con
2.2. Ngư cụ thu mẫu
Hai loại ngư cụ Lú và Đáy được sử dụng để
thu mẫu cá bột và cá con ở hai trạm, như sau:
Ngư cụ 1: Lú (Bongo net) là loại ngư cụ
chuyên dùng để thu cá bột. Sử dụng ngư cụ Lú
để thu mẫu định lượng, xác định biến động số
lượng và mật độ cá bột. Cấu trúc của Lú bao
gồm lưới phiêu sinh có mắt lưới 1mm, miệng
của lưới được buộc chặt vào khung trịn inox
có đường kính 1m, lưới dài 5m, tại đi lưới có
72

Hình 2. Ngư cụ Lú (Nguyễn
Thanh Tùng và ctv., 1999)


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

gắn một cái đục để thu cá, lưu tốc kế được gắn
vào giữa khung inox. Lú được đặt cách bờ 50m,
dưới mặt nước 2m (Hình 2).
Ngư cụ 2: Đáy (Bagnet) là loại ngư cụ
truyền thống của ngư dân dùng để khai thác cá
tra bột. Sử dụng ngư cụ Đáy để thu mẫu định
tính, xác định sự đa dạng và phong phú về thành

phần loài cá bột và cá con. Cấu trúc của Đáy dài
45 m, rộng 13 – 14 m. Được làm bằng lưới mùng
có mắt lưới 1 – 1,5 mm, cuối túi đáy có gắn một
thùng đục hình trụ để thu cá và túi thu có kích
thước 1,25 x 0,25 x 2,2 m được làm bằng thiếc.
Đáy được đặt cách bờ 30 m (Hình 3).

Hình 3. Ngư cụ Đáy (Nguyễn Thanh Tùng và ctv., 1999)
2.3. Thời gian thu mẫu
Thời gian thu mẫu bắt đầu từ ngày
01/06/2019 đến ngày 30/09/2019. Mẫu được
thu liên tục hàng ngày và được thực hiện cùng
lúc như nhau ở hai trạm nghiên cứu. Mẫu được
thu vào lúc con nước rịng của triều trong ngày,
mỗi ngày có hai con nước rịng. Q trình thu
mẫu bao gồm thời gian thu mẫu, thời điểm thu
mẫu và cách thu mẫu được thể hiện cụ thể ở

từng loại ngư cụ sử dụng sau:
a) Ngư cụ Lú
Mẫu được thu vào hai thời điểm nước rịng:
lúc có triều thấp nhất ở con nước rịng thứ nhất
và lúc có triều thấp nhất ở con nước rịng thứ
hai. Thời gian thu của mỗi mẫu là 30 phút. Ghi
chép số lưu tốc kế đặt trước miệng Lú vào lúc
trước khi thả Lú và sau khi thu Lú.
b) Ngư cụ Đáy
Tương tự như ngư cụ Lú, mẫu cá của ngư
cụ Đáy được thu vào hai thời điểm nước ròng
trong ngày. Thời gian thu mẫu là 150 phút.

2.4. Tách và bảo quản mẫu vật
Ngay tại hiện trường, sau khi thu mẫu xong
thì mẫu được sàng lọc và rửa sạch thơng qua
một cái sàn (cái ray) được đan bằng inox có mắt
lưới 1 – 2 mm nhằm loại bỏ tất cả các loại thực
vật, chất hữu cơ và rác, chỉ thu giữ cá bột và cá
con. Mẫu sau khi tách được cố định ngay trong
chai nhựa với dung dịch cồn (ethanol) 70% để
bảo quản lâu dài và được bảo quản kín tránh làm
bay hơi cồn sẽ làm cho cá bị khô. Trong những
trường hợp khác với những lý do và điều kiện
khác nhau, có thể cố định mẫu vật với dung dịch
formaline 5% cho đến 5 ngày, sau đó rửa sạch
mẫu rồi cố định lại bằng cồn 70% (ethanol).
2.5. Phương pháp phân tích
a) Phương pháp định danh
Việc định danh cá bột dựa trên “Bộ sưu tập

mẫu cá bột chuẩn” được lưu giữ trong phịng thí
nghiệm Ngư Loại Học, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản II. Mẫu chuẩn này đã được các
chuyên gia phân loại và kiểm tra. Đồng thời bổ

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

73


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

sung một số tài liệu hữu ích có thể sử dụng được
trong việc định loại cá bột và cá con như sau:
- MRC Technical Paper No.38 (2013):
Tài liệu hướng dẫn phân loại một số loài cá bột
và cá con phổ biến ở lưu vực sông Mê Công.
- Trần Đắc Định và ctv., (2013): Mơ tả
định loại cá ĐBSCL.
- Apichart Termvidchakorn (2003): Mơ
tả hình thái cá bột và cá con ở lưu vực sông Mê
Cơng với 62 lồi khác nhau thuộc 21 họ, 14 bộ.
b) Phương pháp định lượng
Khi số lượng cá thể ít thì tiến hành đếm tất
cả số lượng cá thể có trong mẫu sau khi đã tách
ra theo họ hoặc loài.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp số
lượng cá thể quá nhiều khơng thể đếm trực tiếp
hết được thì tiến hành lấy mẫu phụ để tính tổng
cộng số lượng cá thể có trong mẫu như sau: cân

tổng trọng lượng mẫu chính; lấy ra 3 mẫu phụ từ
những vị trí khác nhau trên mẫu; cân từng mẫu
phụ và định loại tất cả các họ hoặc loài trong
các mẫu phụ và đếm chúng. Tính tốn tổng số
lượng cá bột và cá con theo họ hoặc lồi trong
mẫu được tính bằng cơng thức sau:

Trong đó:
Ntot: Tổng số lượng cá bột có trong mẫu
N1: Số cá thể cá bột có trong mẫu phụ 1

N2: Số cá thể cá bột có trong mẫu phụ 2

N3: Số cá thể cá bột có trong mẫu phụ 3
Wtot: Tổng trọng lượng mẫu chính
W1: Trọng lượng mẫu phụ 1

W2: Trọng lượng mẫu phụ 2

W3: Trọng lượng mẫu phụ 3
c) Đo

Trong khi đếm số con, lấy ra mẫu vật nhỏ nhất
và mẫu vật lớn nhất của mỗi họ hoặc loài trong
mỗi mẫu chính để đo chiều dài tổng cộng của cá
bằng thước kẹp.

74

d) Vật liệu phân tích

Các vật liệu phân tích cần thiết cho việc
thực hiện phân tích mẫu: kính hiển vi soi nổi,
khay, dĩa Petri, kim giải phẫu, kẹp, pipette bằng
nhựa, thước đo, cân điện tử.
2.6. Lưu trữ và phân tích dữ liệu
Phần mềm MS. Access 2017, MS. Excel
2017 được sử dụng để lưu trữ và phân tích dữ
liệu.
Chỉ số Shannon – Weiner (H’) được dùng
để đánh giá mức độ đa dạng lồi giữa các trạm
khảo sát được tính theo cơng thức:

Trong đó, H’: chỉ số đa dạng lồi; n: tổng
số các loài; ni: số lượng cá thể của loài i; N: số
lượng cá thể trong toàn bộ mẫu.
Sử dụng thang đánh giá đa dạng sinh học
theo các cấp của Phạm Thược (2007) như sau:
Giá trị H’

Mức độ da dạng

>3,5

Rất phong phú

2,6 – 3,5

Phong phú

1,6 – 2,59


Tương đối tốt

0,6 – 1,59

Bình thường

<0,6

Kém đa dạng

Cơng thức tính dịng chảy và lưu lượng nước
được đề nghị do General Oceanic Inc. (1996)
Về dòng chảy:
Vận tốc nước (m/s) =
(số lưu tốc sau - số lưu tốc trước) × 26.873)
(999999 × thời gian (s)
Về lưu lượng nước:
Thể tích nước qua lưới =

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

III. KẾT QUẢ
3.1. Thành phần loài
Theo kết quả nghiên cứu từ tháng 6 đến
tháng 9 năm 2019, tổng số 128 loài đã được định
danh, trong đó 73 lồi ở sơng Hậu và 118 lồi


ở sơng Tiền, thuộc 11 bộ và 32 họ. Hầu hết các
bộ chiếm ưu thế lần lượt tại trạm sông Hậu và
sông Tiền là Cypriniformes (48% và 41%), kế
tiếp Siluriformes (22% và 23%) và Perciformes
(18%) và 19%) (Hình 4a và 4b).

Hình 4. Phần trăm các bộ tại hai trạm thu mẫu
Tương tự, họ có số lồi phong phú nhất
tại trạm sông Hậu và sông Tiền lần lượt là
Cyprinidae (41% và 35%), Bagridae (8% và

7%), Pangasiidae (7% và 6%), Cobitidae (7%
và 6%), Gobiidae (4% và 5%) (Hình 5a và 5b).

Hình 5. Phần trăm các họ tại hai trạm thu mẫu
Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các
loài cá được bắt gặp thuộc bộ Cypriniformes (bộ
cá Chép), họ Cyprinidae (họ cá Chép) chiếm
1/3 tổng số lồi, đây là họ cá có thành phần loài
phong phú nhất ở ĐBSCL. Thành phần loài tại
trạm sông Tiền phong phú và đa dạng hơn ở trạm
sơng Hậu. Bên cạnh đó, có nhiều lồi cá thuộc hai
họ: cá Chép (Cyprinidae) và cá Tra (Pangasiidae)
là những đối tượng ni có ý nghĩa kinh tế rất
lớn đối với nghề cá nội địa vùng ĐBSCL nói
riêng và cả nước nói chung. Đặc biệt hai lồi cá

Tra (Pangasianodon hypophthalmus) và cá Basa
(Pangasius bocourti) là đối tượng nuôi chủ lực

của tỉnh An Giang, năm 2018 đạt trên 346.000
tấn và Đồng Tháp đạt trên 470.000 tấn (Cục
Thống kê An Giang, 2018; Cục Thống kê Đồng
Tháp, 2018). Ngồi ra, cịn có một số lồi cá có
giá trị kinh tế khác và đang được nuôi như: cá Hú
(Pangasius conchophilus), cá Ét mọi (Morulius
chrysophekadion), cá Bống tượng (Oxyeleotris
marmorata), cá Lóc bơng (Channa micropeltes)
và cá Lóc đồng (Channa striata),…

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

75


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

3.2. Mật độ cá thể trung bình
Tương ứng với sự phong phú thành phần
lồi, mật độ cá thể trung bình của cá bột và
cá con ở cả sông Hậu và sông Tiền là 18 cá

thể/1000 m3 nước, trong đó mật độ ở sơng Tiền
là 21 cá thể/1.000 m3 nước cao hơn sông Hậu
(14 cá thể/1.000 m3 nước) (Hình 6).

Hình 6. Mật độ cá thể trung bình tại hai trạm thu mẫu
3.3. Mức độ đa dạng lồi
Sơng Tiền có mức độ đa dạng lồi cá
cao hơn ở sông Hậu thông qua chỉ số đo


Shannon – Weiner (H’), cụ thể sơng Tiền nhiều
lồi và nhiều cá thể hơn sông Hậu (Bảng 1).

Bảng 1. Sự khác nhau về số cá thể, số loài và chỉ số đa đạng (H’) giữa
hai trạm thu mẫu
Sông Tiền
Số cá thể

54.313

10.345

Số loài

118

73

Chỉ số đa dạng (H')

1,98

1,90

Tương đối tốt

Tương đối tốt

Mức độ đa dạng

3.4. Biến động thành phần loài

3.4.1. Biến động thành phần loài theo
tháng và ngày
Kết quả nghiên cứu cho thấy, số lượng loài
cá tăng qua các tháng quan trắc, biến động từ 47
– 94 lồi ở cả hai sơng Tiền và sơng Hậu, số lồi
ở sơng Tiền nhiều hơn ở sơng Hậu. Tuy nhiên,
76

Sơng Hậu

sự biến động này khơng có khác biệt lớn, khơng
có sự gia tăng hay giảm một cách đột ngột về
thành phần loài giữa các tháng. Thành phần loài
cá đạt đỉnh điểm vào tháng 9 với 55 lồi ở sơng
Hậu và 85 lồi ở sơng Tiền (Hình 7a). Khi so
sánh thành phần loài cá bột và cá con tại hai vị
trí thu mẫu qua các ngày trong các tháng, nhận

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

thấy được thành phần loài biến động theo quy
luật giống nhau: thành phần lồi có xu hướng
tăng từ đầu mùa lũ (tháng 6) và đạt đỉnh điểm
đến cuối mùa lũ (tháng 9) vì lúc này nước lũ đỗ
về làm ngập các vùng ruộng trũng, bãi cỏ ven

sông,.. tạo thành những vùng ngập rất rộng lớn.

Cá bột và cá con từ các dịng chính trôi dạt đến,
rất phù hợp cho việc sinh trưởng và phát triển
của chúng. Điều này chứng minh rằng mùa lũ là
thời gian thuận lợi cho mùa sinh sản của nhiều
loài cá ở ĐBSCL (Hình 7b).

Hình 7. Biến động thành phần loài theo các tháng (a) và theo các ngày
(b) tại hai trạm thu mẫu
3.4.2. Biến động thành phần loài theo
ngày – đêm
Theo mơ hình ngày – đêm, có sự khác biệt
về thành phần loài trong mẫu thu ban ngày (102
loài) và ban đêm (107 lồi) ở hai trạm thu mẫu
(Hình 8), các loài xuất hiện ban đêm chủ yếu là
các lồi cá khơng vảy và ban ngày là các lồi cá

có vảy. Một số lồi có sự khác biệt rõ về tần suất
xuất hiện giữa ngày và đêm. Những loài cá xuất
hiện chủ yếu vào ban ngày gồm: cá Cơm sông
(Corica laciniata), cá Thiểu nam (Paralaubuca
riveroi),… và ban đêm gồm: cá Sát sọc (Pangasius
macronema), cá Hú (Pangasius conchophilus), cá
Chạch lấu (Mastacembelus favus), …

Hình 8. Biến động thành phần lồi theo mơ hình ngày – đêm
tại hai trạm thu mẫu.

3.5. Biến động mật độ cá bột và cá con

3.5.1. Biến động mật độ cá bột và cá con
theo tháng và theo ngày
Tương ứng với sự phong phú về thành phần
loài là mật độ cá thể cá cũng tăng từ tháng 6

(đầu mùa lũ), đạt đỉnh điểm vào thàng 8 (giữa
mùa lũ) và giảm vào tháng 9 (cuối mùa lũ), biến
động mật độ cá thể trung bình từ 12 cá thể/1.000
m3 nước – 27 cá thể/1.000 m3 nước vào đầu và
giữa mùa lũ và giảm cịn 4 cá thể/1.000 m3 nước

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

77


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

vào cuối mùa lũ (Hình 9a). Khi so sánh mật độ
cá bột và cá con theo các ngày trong tháng, thời
gian đầu mùa lũ mật độ luôn cao và giảm dần
vào cuối mùa lũ. Mật độ tại sông Tiền vào đầu
mùa lũ (mật độ trung bình cao nhất gần 600 cá
thể/1.000 m3 nước) cao hơn tại sơng Hậu (44 cá
thể/1.000 m3 nước) (Hình 9b).

3.5.2 .Biến động mật độ cá bột và cá con
theo ngày – đêm
Tương ứng như mơ hình ngày – đêm về
thành phần lồi, có sự khác biệt về mật độ cá

thể trung bình trong mẫu thu ban ngày (16 cá
thể/1.000 m3 nước) thấp hơn so với ban đêm (19
cá thể/1.000 m3 nước) ở hai trạm thu mẫu trên

Hình 9. Biến động mật độ cá thể theo các tháng (a) và theo ngày các
ngày (b) tại hai trạm thu mẫu.
sông Tiền và sơng Hậu (Hình 10). Điều này cho
thấy mật độ cá thể khơng có sự khác biệt nhiều
giữa ngày và đêm.
3.6. Biến động về chiều dài cá bột và cá
con qua các tháng
Kết quả quan trắc chiều dài cá bột và cá con

đã cho thấy chiều dài biến động trong khoảng
34 – 37 mm. Tùy thuộc từng loài và từng thời
điểm sinh sản khác nhau của mỗi lồi cá nên
kích thước của mỗi loài sẽ khác nhau. Biến
động chiều dài của một số loài cá di cư phổ biến
được thể hiện trong Hình 11.

Hình 10. Biến động mật độ cá thể theo mơ hình ngày – đêm tại hai
trạm thu mẫu.
78

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 11. Biến động chiều dài của một số loài cá phổ biến tại

hai trạm thu mẫu.
3.7. Mối liên hệ giữa thành phần loài cá
và mật độ cá thể với mức nước
3.7.1. Mối liên hệ giữa thành phần loài cá
và mức nước
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, khi mức
nước tăng lên thì số lồi tăng và khi mức nước

giảm thì số lồi giảm. Như vậy, giữa thành
phần loài cá và mức nước có mối tương quan
khá chặt chẽ với nhau với phương trình tương
quan có giá trị R2 lần lượt ở sơng Hậu và sông
Tiền là y = 3,509x + 2,3006 (R2 = 0,6132) và y
= 5,163x + 7,7947 (R2 = 0,5809) (Hình 12).

Hình 12. Mối liên hệ giữa thành phần lồi và mức nước tại hai
trạm thu mẫu.
3.7.2. Mối liên hệ giữa mật độ cá thể với
mức nước
Tại hai trạm quan trắc cho thấy, khi mức
nước tăng và tăng cao nhất vào tháng 9 (vào
cuối mùa lũ) thì mật độ cá thể ít nhất do chúng

di cư theo dịng nước đến các kênh và các thủy
vực khác. Điều này chứng tỏ rằng, mức nước
và mật độ cá thể có mối tương quan khơng chặt
chẽ với nhau, với phương trình tương quan có
giá trị R2 lần lượt ở sơng Hậu và sơng Tiền là

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


79


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 13. Mối liên hệ giữa mật độ và mức nước tại hai
trạm thu mẫu
y = -2,1631x + 20,716 (R2 = 0,0018) và y =
-20,865x + 64,676 (R2 = 0,0799) (Hình 13).

Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu trước
đây của Nguyễn Thanh Tùng (2004).

IV. THẢO LUẬN.

Nhìn chung tại hai trạm quan trắc trên sông
Tiền và sông Hậu, sự biến động về mật độ cá bột
và cá con có điểm tương đồng với nhau. Sự biến
động về mật độ cá bột và cá con có xu hướng giảm
dần vào thời điểm kết thúc thời gian quan trắc ở cả
hai sông vào tháng 9 (cuối mùa lũ). Điều này có
nghĩa rằng hầu hết các loài cá sinh sản chủ yếu vào
đầu và giữa mùa lũ bởi vì đó cũng vào thời điểm
đầu mùa mưa nên thuận lợi cho nhiều lồi cá ở
sơng Mê Công sinh sản và di cư sinh sản (Nguyễn
Thanh Tùng, 2004).

Qua kết quả quan trắc, nhận thấy rằng thành
phần loài cá bột và cá con ở sông Tiền đa dạng và

phong phú hơn sông Hậu, tập trung chủ yếu vào
bộ Cá chép và bộ Cá nheo. So với các nghiên cứu
trước đây thì kết quả trong nghiên cứu này có số
lồi thấp hơn, cụ thể có 127 lồi, bao gồm 123 lồi
ở sơng Tiền và 84 lồi ở sơng Hậu thuộc 29 họ
và 10 bộ (Nguyễn Thanh Tùng, 2004); 141 lồi ở
sơng Hậu và 148 lồi ở sơng Tiền, thuộc 48 họ và
13 bộ (Nguyễn Nguyễn Du, 2017). Kết quả đo đạc
của Đài khí tượng thủy văn Nam Bộ cho thấy mực
nước lũ năm 2019 về trễ hơn mọi năm bắt đầu từ
tháng 7 và kết thúc sớm hơn mọi năm vào tháng 9
là một trong những nguyên nhân tác động đến sự
đa dạng thành phần loài, và phong phú về mật độ
cá bột và cá con.
Theo số liệu quan trắc cá bột và cá con của
Nguyễn Nguyễn Du và ctv., (2017; 2018), cho thấy
năm 2017 có số lượng lồi nhiều nhất là 194 lồi,
năm 2018 giảm cịn 146 lồi và kết quả năm 2019
là 128 lồi. So với cơng bố trước đây của Trần
Đắc Định và ctv., (2013) đã mơ tả được 322 lồi
cá, trong đó có 186 lồi cá nước ngọt. Thành phần
loài cá bột và cá con có xu hướng giảm qua các
năm, mực nước lũ hàng năm có thể ảnh hưởng rất
lớn đến sự biến động thành phần loài của chúng.
Thành phần loài và mật độ cá thể cũng biến động
theo ngày đêm, ban đêm thì cá phong phú và đa
dạng hơn ban ngày ở cả sông Tiền và sông Hậu.
80

V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

5.1. Kết luận
Tổng cộng 928 mẫu được thu, xác định được
128 loài cá bột và cá con thuộc 11 bộ và 32 họ,
trong đó 73 lồi ở sơng Hậu và 118 lồi ở sơng
Tiền.
Sự biến động về thành phần lồi, mật độ cá
bột và cá con theo mùa, theo ngày – đêm thể hiện
sự khác biệt rõ rệt. Phân tích cho thấy xu hướng
này có mối quan hệ chặt chẽ và bị chi phối bởi chế
độ lũ hằng năm của lưu vực sơng Mê Cơng. Biến
động thành phần lồi cá bột, cá con có xu hướng
tăng nhưng ngược lại, biến động mật độ cá thể có
xu hướng giảm từ đầu mùa lũ đến cuối mùa lũ.
Biến động mực nước có mối tương quan khá
chặt chẽ với biến động thành phần loài và tương
quan không chặc chẽ với biến động mật độ trong
mùa lũ năm 2019.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

5.2. Đề xuất
Bảo vệ vùng bãi đẻ của cá, tăng cường công
tác tuyên truyền bảo vệ đàn cá bố mẹ.
Cần có sự hỗ trợ thêm về sinh sản nhân tạo
để giảm bớt áp lực khai thác thủy sản tự nhiên của
một số đối tượng thủy sản, đặc biệt là những đối
tượng phục vụ cho nuôi thương phẩm.

Trong nghiên cứu biến động nguồn lợi cá bột
và cá con cần được cập nhật thường xuyên tài liệu
mới phân loại đến mức loài.
Cần sử dụng nghiên cứu thêm hướng di truyền
phân tử để hổ trợ nghiên cứu về hình thái.
Lời cảm ơn
Nhóm nghiên cứu chân thành cám ơn Ủy Ban
Sông Mê Công Việt Nam đã hỗ trợ kinh phí thực
hiện nhiệm vụ này và Chi cục Thủy sản tỉnh An
Giang đã phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện
trong suốt quá trình thực hiện.
Lời cảm ơn cũng xin được gửi đến tất cả hộ
ngư dân ở hai trạm nghiên cứu thuộc xã Vĩnh
Xương và Quốc Thái đã nhiệt tình tham gia.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
Cục Thống Kê An Giang, 2018. Niên Giám Thống Kê
tỉnh An Giang năm 2018. Cục Thống Kê An Giang,
thành phố Long Xuyên.
Cục Thống Kê Đồng Tháp, 2018. Niên Giám Thống
Kê tỉnh Đồng Tháp năm 2018. Cục Thống Kê
Đồng Tháp, thành phố Cao Lãnh.
Mai Đình Yên, Nguyễn Văn Trọng, Nguyễn Văn Thiện,
Lê Hoàng Yến và Hứa Bạch Loan, 1992. Định loại
các loài cá nước ngọt Nam Bộ. NXB Khoa học và
Kỹ thuật. 374 trang.
Mai Đình Yên, Vũ Trung Tạng, Bùi Lai và Trần Mai
Thiên, 1979. Ngư loại học. NXB Đại Học và Trung
Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội. 390 trang.
Nguyễn Hữu Phụng, 1991. Trứng cá và cá bột vùng

biển Việt Nam. Tuyển tập Nghiên cứu Biển. NXB
Khoa học và Kỹ thuật, III: 5 – 20.

Nguyễn Nguyễn Du, 2017. Quan trắc sự trôi dạt nguồn
lợi cá bột và cá con ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Báo cáo Khoa học. Viện Nghiên Cứu Ni Trồng
Thủy Sản II. Tp. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thanh Tùng, 2004. Biến động thành phần loài
và mật độ cá bột, cá con ở Vĩnh Xương và Quốc
Thái, An Giang. Luận án Tiến sĩ. Viện Hải Dương
Học. Nha Trang, Khánh Hòa.
Nguyễn Văn Trọng, 1987. Trứng và cá bột ở các thuỷ
vực tỉnh Tiền Giang. Báo cáo khoa học, Viện
NCNTTS 2, Tp. Hồ Chí Minh.
Phạm Thược, 2007. Cơ sở khoa học của việc bảo tồn
đa dạng sinh học vùng biển Tây Nam Bộ. Nhà xuất
bản Nông nghiệp. Hà Nội. 175 trang.
Trần Đắc Định, Shibukawa Koichi, Nguyễn Thanh
Phương, Hà Phước Hùng, Trần Xuân Lợi, Mai Văn
Hiếu và Utsugi Kenzo, 2013. Mô tả định loại cá
Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. NXB Đại
học Cần Thơ. 174 trang.
Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993. Định
loại cá nước ngọt vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Khoa Thủy Sản. Đại Học Cần Thơ. 361 trang.
Tài liệu tiếng Anh
General Oceanic Inc, 1996. General Oceanic’s Digital
Flow meter Mechanical and Electronic Operators
Manual. Floria 33169 – 5887.
Nguyen Thanh Tung, Truong Thanh Tuan & Tran

Quoc Bao 1999.Composition and movement of Fish
Larvae in the Bassac River, Vietnam, During JuneJuly 1999. Paper presented at the 2. MRC Technical
Symposium, Phnom Penh, December 13-14 1999.
Termvidchakorn Apichart, 2003. Freshwater Fish
Larvae. Inland Fisheries Resources Research and
Development Institute, Inland Fisheries Research
and Development Bureau Department of Fisheries.
Thailand, 135 pages.
Termvidchakorn, A. and K.G. Hortle, 2013. A guide to
larvae and juveniles of some common fish species
from the Mekong River Basin. MRC Technical
Paper No. 38. Mekong River Commission, Phnom
Penh. 234pp. ISSN: 1683-1489

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019

81


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

EVALUATE VARIATION ON COMPOSITION, DENSITY OF FISH
LARVAE AND FINGERLING IN THE MEKONG RIVER DELTA IN 2019
Tran Thuy Vy 1*, Nguyen Nguyen Du1, Huynh Hoang Huy1 and Dinh Trang Diem1

ABSTRACT
Freshwater fish resources in the Mekong River Delta is closely related to the fish resources of the Mekong
River Basin. Many migration fish species of the Mekong River Basin concentrate on spawning at the
beginning of the flood season, eggs or larvae drifted from upstream or spawning grounds to channels,
flooded rice-fields and flooded areas for shelter, growth and development. Study on monitoring fish larvae

resources is to assess fisheries resources and forecast the variation of fisheries resources in the Mekong
River Basin. Fish larvae and fingerling were sampled from 1st June to 30th September 2019 at the low
tide by Bongo nets and Bag nets in Mekong and Bassac rivers where nearby Cambodia border. Fish
samples were stored in plastic jars containing 70% ethanol for identification and analysis at Research
Institute for Aquaculture No. 2. Total of 928 samples was analysis, and the results showed that 128
species belonging to 11 orders and 32 families, in which 73 species in Bassac river and 118 species in
Mekong river were identified. The highest species composition occurred in September with 94 species,
and Cyprinidae family is the most abundant with 38% of total fish species. The highest fish larvae density
was in July and in August, with 22 inds/1.000m3 water and 27 inds/1.000m3 water, respectively. The
trend of species composition abundance has increased over the flood season; while fish density has been
decreased in the opposite trend.
Keywords: density, fish larvae and fingerling, species composition, variation, Mekong and Bassac rivers
Người phản biện: TS. Nguyễn Thanh Tùng

Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước

Ngày nhận bài: 28/10/2019

Ngày nhận bài: 28/10/2019

Ngày thông qua phản biện: 12/11/2019

Ngày thông qua phản biện: 15/11/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Ngày duyệt đăng: 25/12/2019

Research Institute for Aquaculture No.2
* Email:


1

82

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 15 - THÁNG 12/2019



×