Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Hiện trạng kỹ thuật và kinh tế xã hội của mô hình luân canh tôm – lúa ở các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.45 KB, 11 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

HIỆN TRẠNG KỸ THUẬT VÀ KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA
mÔ hình lUÂN CANH TÔM – LÚA Ở CÁC HUYỆN GIÁP BIỂN
VÙNG BÁN ĐẢO CÀ MAU
Nguyễn Cơng Thành1, Ngơ Minh Lý1, Nguyễn Văn Hảo2

TĨM TẮT
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 05 đến 11/2011 thông qua điều tra ngẫu nhiên 170 hộ nhằm
phân tích hiện trạng kỹ thuật ứng dụng và kinh tế-xã hội của mơ hình sản xuất tơm sú-lúa hiện nay ở
các huyện giáp biển của ba tỉnh Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Kết quả cho thấy: Việc chú trọng
nâng cao trình độ chun mơn cho canh tác mơ hình ln canh tôm-lúa của người dân trong địa bàn
chưa cao. Phần lớn những người đảm nhiệm “kỹ thuật” chính là chủ hộ gia đình có trình độ học vấn
thấp (từ cấp 1 trở lại chiếm 44,2%). Có tới 62,5% vng (ruộng) không đảm bảo giữ nước. Đa phần
hộ dân thả tôm giống nhiều lần trong vụ (4,1 lần) với mật độ thả lần đầu cao (4,2 con/m2) và ít quan
tâm đến kiểm tra chất lượng tôm giống (36,5%). Hầu hết nông hộ vội vàng trong thả tôm giống lần
đầu và gieo cấy khi độ mặn chưa được thích hợp. Năng suất tơm ni đạt trung bình 172,8 kg/ha/
vụ. Tổng chi phí trung bình 17,3 triệu đồng/ha/vụ, thu nhập từ thủy sản đạt 37,2 triệu đồng/ha/vụ
(tôm nuôi chiếm 69,1%), lợi nhuận đạt 19,9 triệu đồng /ha/vụ và 77,7% số hộ có lời từ thủy sản.
Năng suất lúa trung bình đạt 1,2 tấn/ha/vụ. Tỷ lệ thất mùa lúa (mất trắng) tới 36,7%. Tổng chi phí
sản xuất lúa bình qn là 8,1 triệu đồng/ha/vụ và chỉ có 40,3% số hộ có lời. Nhận định chung cho
thấy: bình qn mỗi ha, ni tơm cần tới 68,1% tổng chi phí sản xuất (Kiên Giang 71,1%, Bạc Liêu
65,9%, Cà Mau 64,5%), mang lại 81,2% tổng thu nhập (Kiên Giang 91,8%, Cà Mau 80,2%, Bạc
Liêu 57,6%). Phần trăm tổng lợi nhuận của tồn mơ hình Tơm-Lúa là 98,0% (Kiên Giang 112,9%,
Cà Mau 94,1%, Bạc Liêu 41,1%) tương đương 20,3 triệu đồng/ha/năm.
Từ khóa: Chi phí, độ mặn, lợi nhuận, năng suất, tôm - lúa.

I. MỞ ĐẦU
Đồng bằng sông Cửu Long được xem là vựa
lúa và vựa thủy sản của cả nước, là một trong
những nơi sản sinh ra những mơ hình canh tác


nơng nghiệp ln canh với ni các đối tượng
thuỷ sản khác nhau. Theo tổng kết của Bộ Nơng
nghiệp và Phát triển Nơng thơn (2011), năm 2010
tồn vùng có tổng diện tích 558.740 ha ni tơm
mặn lợ, trong đó mơ hình ln canh tơm lúa (T-L)
chiếm khoảng 25%. Tùy theo tình hình thị trường

tiêu thụ tơm, lúa, tình hình dịch bệnh và sự thay
đổi thời tiết mà mơ hình luân canh T-L cũng thay
đổi khác nhau giữa các năm, giữa các tỉnh hay
giữa các vùng trong cùng tỉnh. Để tìm ra mơ hình
sản xuất ln canh T-L ổn định cả về năng suất,
sản lượng và góp phần ổn định cuộc sống của
người dân canh tác T-L trên các vùng sinh thái
khác nhau, thì việc nghiên cứu, đánh giá “Hiện
trạng kỹ thuật và kinh tế-xã hội của mơ hình luân
canh T-L ở các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà

1

Phân Viện Nghiên Cứu Thuỷ Sản Minh Hải, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2
Email:
2 Viện Nghiên cứu Ni trồng Thuỷ sản 2

38

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

Mau’’ là cần thiết. Đây cũng được xem là cơ sở
dữ liệu để xác định những rủi ro và hạn chế của
mơ hình T-L đang áp dụng hiện nay và đề xuất
các giải pháp khắc phục.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 05 tới
11/2011 tại các địa bàn huyện Đông Hải (Bạc
Liêu), huyện Cái Nước (Cà Mau) và huyện An
Biên (Kiên Giang). Đây là những nơi đã và đang
gặp nhiều bất lợi hơn về nước phục vụ cho vụ
lúa, năng suất và sản lượng so với những địa bàn
khác trong cùng tỉnh. Số liệu thứ cấp có liên quan
tới mơ hình T-L được thu thập từ các sở, phịng
NN&PTNT các tỉnh và các trường, viện. Số liệu

sơ cấp được điều tra trực tiếp và chọn ngẫu nhiên
170 hộ sản xuất T-L trong vùng thực hiện nghiên
cứu (Kiên Giang 57 hộ, Cà Mau 53 hộ và Bạc
Liêu 60 hộ) bằng bảng phỏng vấn soạn sẵn. Số
liệu được mã hóa và được xử lý bằng phần mềm
SPSS for Windows và Microsoft Excel. Phân
tích số liệu sử dụng thống kê mơ tả, thống kê lựa
chọn và phân tích chéo.
III. KẾT QUẢ
T-L

3.1. Thơng tin chung về nông hộ canh tác

Trong 170 hộ được điều tra ngẫu nhiên, kết
quả liên quan đến kinh nghiệm và trình độ văn

hóa, chun mơn nghiệp vụ thể hiện bảng 3.1.

Bảng 3.1: Một số thông tin chung về các hộ canh tác T-L
Chỉ tiêu

ĐVT*

1. Kinh nghiệm tôm lúa

năm

Bạc Liêu

Chung

7,6±3,3

6,9±3,3

7,1±2,9

47,1

9,9

66,7

41,7

52,9


84,3

31,5

55,8

-

5,9

1,9

2,6

-

-

3,3

1,1

44,6

32,7

50,0

43,1


+ Cấp 2

44,6

55,1

38,3

45,5

+ Cấp 3

10,7

8,2

6,7

8,5

-

4,1

1,7

1,8

+ Không


%

+ Tập huấn
+ Trung cấp
+ Mù chữ
+ Cấp 1

%

+ Cao hơn
*

Cà Mau

6,8±1,9

2. Chuyên môn nuôi thủy sản:

3. Trình độ văn hóa:

Kiên Giang

ĐVT: đơn vị tính

Kinh nghiệm của người dân canh tác mơ
hình T-L tương đương giữa các tỉnh, trung bình
là 7,1±2,9 năm. Có tới 41,7% nơng hộ khơng có
chun mơn về ni thủy sản, tỷ lệ này rất cao
ở Bạc Liêu (66,7%) và Kiên Giang (47,1%), chỉ

có 2,6% nơng hộ có trình độ trung cấp ni thủy
sản. Trình độ văn hóa chủ hộ trập trung ở cấp 1
(43,1%) và cấp 2 (45,5%).
3.2. Hiện trạng diện tích đất canh tác và
thiết kế hệ thống T-L của nông hộ
Diện tích trung bình khu vực canh tác T-L

của 3 tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và Bạc Liêu lần
lượt là 2,1±1,1; 1,5±0,8 và 1,2±0,8 ha. Trong
đó, diện tích mương chiếm thấp nhất là Kiên
Giang (22,5%) đến Bạc Liêu (32,5%) và Cà
Mau (33,1%). Mương nước thường thiết kế
mương bao quanh vuông. Cả 3 vùng, tỷ lệ hộ
có ao ương tơm giống trước khi thả ra vuông
nuôi quảng canh cải tiến tương đương nhau.
Tuy nhiên số hộ có ao ni mật độ cao (nuôi
bán thâm canh hoặc thâm canh) lại khác nhau, ở
Bạc Liêu và Cà Mau là 21,7% và 15,1%, trong
khi ở Kiên Giang khơng có.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013

39


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 3.2: Diện tích đất canh tác và thiết kế hệ thống T-L của nơng hộ
Chỉ tiêu

ĐVT


Kiên Giang

Cà Mau

Bạc Liêu

Chung

1. Diện tích trung bình khu canh tác
Tơm-Lúa

ha

2,1±1,1

1,5±0,8

1,2±0,8

1,6±1,0

2. Diện tích trảng

%

77,5

66,9


67,5

71,9

3. Diện tích mương nước

%

22,5

33,1

32,5

28,2

4. Vị trí mương nước:
+ Chỉ có mương bao quanh
+ Có xẻ mương trong trảng

%

96,5

58,5

76,7

77,7


3,5

41,5

23,3

22,4

5. Tỷ lệ hộ có ao lắng

%

3,5

20,8

11,7

11,8

1000m2

1,5±0,7

1,2±0,6

1,3±0,7

1,3±0,6


%

31,6

30,2

33,3

31,8

+ Diện tích ao ương trung bình

1000m2

1,7±1,7

1,5±0,8

1,0±0,7

1,4±1,2

7. Có diện tích ni mật độ cao
+ Diện tích mật độ cao, trung bình

%
1000m2

15,1
3,0±0,7


21,7
2,8±0,2

12,4
2,8±0,2

+ Diện tích ao lắng trung bình
6. Tỷ lệ hộ có ao ương giống

3.3. Hiện trạng ni tơm trong mơ hình
T-L năm 2011
Cải tạo vng (ruộng) ni tơm
Thời gian cải tạo vuông trước khi thả tôm
giống là 2-3 tuần, tập trung vào khoảng cuối
tháng 10 tới tháng 12. Cũng có một số hộ thực
hiện cải tạo vào dịp tháng 7-8, kết hợp với cải
tạo đất cho vụ lúa. Khoảng 76,2% hộ có định
kỳ dùng cơ giới để tu sửa lại bờ bao. Có 96,5%
hộ thực hiện việc sên vét bùn với 65,9% đưa
bùn lên bờ, 28,1% đưa bùn lên trảng và 2,4%
hộ bơm bùn đổ ra sông (rạch) công cộng. Có
61,7% hộ dùng vơi rải nền đáy mương kết hợp
với phơi đáy. Khoảng 76,5% hộ chỉ dùng vôi
nhưng không phơi đáy, nhiều nhất ở Kiên Giang
(98,3% và 796,7 kg/ha/vụ), ít nhất là ở Bạc Liêu
(50,0% và 260,4 kg/ha/vụ).
Tôm giống và thả nuôi ghép
Tôm giống thả nuôi chủ yếu là Poslarvae
(PL) chiếm 60,6%. Có tới 86,5% hộ thả tơm

giống có kích cỡ ≤ PL12. Chỉ có 50,6% hộ chọn
tơm giống dựa vào cảm quan và 36,5% hộ nuôi
không quan tâm đến kiểm tra chất lượng giống.
Mật độ tôm giống thả nuôi lần đầu trung bình
4,2 con/m2, thưa nhất ở Cà Mau với 3,6 con/m2
40

và dày nhất ở Kiên Giang 4,9 con/m2, trong khi
Bạc Liêu là 4,0 con/m2. Mật độ tôm giống cho
tất cả các lần thả (lần đầu và bổ sung, khơng tính
thu tỉa) trung bình là 16,3 con/m2. Trung bình số
lần tơm giống thả bổ sung là 4,1 lần/vụ, ít nhất ở
Kiên Giang với 3,5 lần và nhiều nhất ở Bạc Liêu
4,9 lần. Thời điểm thả giống lần đầu tập trung
các tháng 11 năm đến tháng 2 năm sau.
Cua giống được thả bổ sung bởi 100% số
hộ ở Kiên Giang, trong khi hai tỉnh Cà Mau và
Bạc Liêu là 50-60%. Chỉ có 23,5% số hộ quan
tâm thả ghép cả tơm, cua và cá.
 Thức ăn cho tơm
Chỉ có 9,5% số hộ nuôi sử dụng thức ăn bổ
sung cho tôm nuôi với lượng rất hạn chế. Chủ
yếu cho ăn bổ sung ở giai đoạn ương.
 Nguồn nước và quản lý nước trong
ni tơm
Có 20,9% hộ lấy nước cho ni tơm thơng
qua kênh tự đào, 63,1% từ kênh tự nhiên và
15,9% lấy trực tiếp từ các sơng chính. Mực nước
bình qn trong mương 116,5±18,1 cm, trong
đó trên trảng khoảng 37,8±11,9 cm. Hầu hết

các hộ nuôi tôm cả 3 tỉnh lấy nước không qua
túi lọc nước, chỉ 8,5-10,0% lấy nước thơng qua

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
lưới mành. Có tới 62,0% hộ thay nước không sử
dụng túi (lưới) lọc hoặc ao lắng. Có 37,5% hộ
thả giống khi độ mặn dưới 1,5%o, phần lớn thả
ở độ mặn dao động từ 2-6%o, khi độ mặn ngồi
sơng từ 5-8%o thì hầu hết nông hộ lấy nước vào
vuông. Trong vụ nuôi, độ mặn dao động từ 1530%o, và có lúc mặn nhất lên tới 42-45%o vào
tháng 2-3.
Có 92,4% hộ thực hiện việc diệt cá tạp bằng
dây thuốc cá (59,5%) và Saponin (32,9%). Có
30,6% hộ diệt khuẩn với Decis 25,5%, thuốc

tím và BCK 23,5%. Có khoảng 6% hộ ni tơm
diệt giáp xác, trong đó 40% sử dụng Chlorine.
Chỉ có 3% hộ ni tơm khơng thay nước
(Kiên Giang và Cà Mau), trong khi việc tận
dụng thủy triều là 44%, bơm là 18,7% và các hộ
còn lại áp dụng cả thủy triều và bơm. Tần suất
thay nước theo mỗi con nước thường là 3,9±1,9
ngày với tỷ lệ thay 30,4±14,6%/lần.
 Bệnh trên tôm nuôi
Kết quả điều tra về bệnh tôm thể hiện bảng

3.3.


Bảng 3.3: Các loại bệnh chủ yếu trên tôm nuôi và mức độ thiệt hại
Loại bệnh

Tỷ lệ xuất hiện (% số hộ)

Mức độ thiệt hại trung bình (%)

1. Bệnh đốm trắng

70,5

67,6

2. Bệnh đầu vàng

24,6

60,0

3. Bệnh đỏ thân

73,7

60,7

4. Bệnh đen mang, đóng rong

45,5


41,0

5. Bệnh gan tụy

15,6

65,0

 Thu hoạch tôm nuôi
Kết quả vụ tôm nuôi năm 2011 thể hiện bảng 3.4
Bảng 3.4: Một số thông tin về thu hoạch tơm, cua, cá trong mơ hình T-L
Chỉ tiêu

ĐVT*

Kiên Giang

Cà Mau

Bạc Liêu

Chung

1. Thời gian thu hoạch
tôm lần đầu

ngày

87±10


110±21

102±24

100±22

2. Số lần thu hoạch tơm

con nước

5,5±5,3

4,6±1,6

4,9±1,9

5,0±3,4

3. Kích cỡ tơm thu hoạch

con/kg

32,1±5,0

39,4±9,9

40,2±14,6

37,2±11,2


4. Lượng tôm thu hoạch

kg/vụ/hộ

441,1±318,5

218,1±189,2

116,8±105,9

257,1±259,6

5. Năng suất tôm quy đổi

kg/ha/vụ

237,0±189,2

167,5±154,0

116,6±92,8

172.3±157,1

6. Năng suất cua thu
hoạch

kg/ha/vụ

107,1±104,5


59,2±59,2

51,40±50,1

74,1±80,5

7. Năng suất cá thu hoạch

kg/ha/vụ

558,2±368,3

189,9±436,6

107,5±113,3

230,5±329,2

*

ĐVT: đơn vị tính

 Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu trong ni tơm
Tổng kết các chỉ tiêu tài chính của vụ tơm năm 2011 được thể hiện bảng 3.5
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013

41



VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Bảng 3.5: Chi phí, thu nhập và lợi nhuận trong ni tơm
Chỉ tiêu

ĐVT

Kiên Giang

Cà Mau

Bạc Liêu

Chung

Tr.đ/ha/vụ

23,2±19,8

12,0±6,7

16,4±9,9

17,3±14,1

3,5

7,8

3,7


4,5

96,5

92,2

96,3

95,5

Tr.đ/ha/vụ

22,4±18,7

11,1±6,6

15,8±9,7

16,5±13,6

%

100

100

100

100


+ Tôm giống

%

29,9

26,8

33,3

30,4

+ Cải tạo ao/vuông

%

21,1

25.0

17,7

20,8

+ Lao động gia đình

%

13,9


20.1

20,0

17,3

+ Bổ sung giống

%

15,4

7,7

10,1

11,9

+ Khác (phịng bệnh, nước,…)

%

19,8

20,5

18,8

19,6


Tr.đ/ha/vụ

59,1±37,2

31,3±32,3

21,6±16,1

37,2±33,6

65,7
33,1
1,3

74,1
22,3
3,6

71,6
24,9
3,4

69,1
28,6
2,3

1. Tổng chi phí cho ni tơm (TC)
2. Cơ cấu tổng chi phí: + Cố định

%


+ Biến đổi
3. Tổng chi phí biển đổi
4. Cơ cấu tổng chi phí biến đổi

5. Tổng Thu b.quân từ t.sản (LN)
6. Cơ cấu tổng thu từ thủy sản: + Tôm
+ Cua
+ Cá

%

7. Tổng lợi nhuận từ thủy sản

Tr.đ/ha/vụ

35,9±31,4

19,3±32,2

5,2±14,5

19,9±29,7

8. Tỷ suất lợi nhuận (LN/TC)

lần/vụ

1,5±2,4


1,6±2,8

0,3±0,5

1,1±1,8

%

91,2

83,0

60,00

77,7

9. Tỷ lệ số hộ có lời từ thủy sản

3.4. Hiện trạng sản xuất lúa trong mơ
hình T-L năm 2010
 Chuẩn bị đất cho sản xuất lúa
Thời gian cải tạo đất (ruộng) cho vụ lúa là
20-30 ngày, trong đó Cà Mau có thời gian dài
nhất (30 ngày). Việc cày, bừa hoặc trục trong
cải tạo ruộng được số hộ ở Kiên Giang quan tâm
rất cao (74,6%), kế đến Bạc Liêu (20,0%), trong
khi Cà Mau không quan tâm. Việc rửa mặn chủ
động bằng bơm nước chỉ có 7,3% hộ quan tâm
tại Cà Mau và Bạc Kiêu, còn lại hầu hết thụ
động chờ mưa mới rửa mặn.

 Lúa giống và xuống giống
Ở Cà Mau (96,2%) và Bạc Liêu (76,7%)
xuống giống bằng cách cấy, trong khi ở Kiên
Giang (96,4%) chọn sạ lan, và rất ít hộ áp dụng
42

phương pháp sạ hàng. Giống lúa Một bụi đỏ
được lựa chọn nhiều nhất (48,9%) và tập trung ở
Bạc Liêu và Cà Mau, ở Kiên Giang chọn giống
lúa OM2517 là chủ yếu (96,4%). Lúa giống chủ
yếu có nguồn gốc từ vụ/năm sản xuất trước để
lại (69,3%). Chỉ có 16,4% hộ mua lúa giống từ
trại sản xuất và 10,7% từ trung tâm giống. Có
50,8% hộ cho rằng lúa giống hiện sử dụng chưa
thật sự phù hợp với điều kiện của địa bàn (Bạc
Liêu 70,97%, Cà Mau 50,0% và Kiên Giang
38,8%). Lý do số hộ yêu cầu cần cải tiến loại
giống lúa là: (1) Giống chịu mặn kém (62,5%)
và (2) Năng suất chưa cao (17,86%).
 Nước và tưới tiêu cho lúa
Mùa vụ năm 2010 cho thấy nơng hộ sạ hoặc
cấy lúa khi nước có độ mặn trung bình là 1,76%o,

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN 2
trong đó độ mặn cao nhất là 2,3%o ở Kiên Giang
và thấp nhất là 1,3%o ở Cà Mau.
Có 12,5% hộ khơng điều tiết thốt nước

trong q trình sản xuất lúa. Có 90,8% hộ khơng
có nguồn nước ngọt cung cấp cho lúa khi thời
tiết khô hạn hay bị hạn cục bộ xảy ra, chỉ có
hơn 3% số hộ dùng nước từ giếng khoan để cấp
nước cho lúa trong trường hợp này.
 Phân bón
Hầu hết nơng hộ sử dụng phân vơ cơ để
bón cho lúa. Tổng lượng phân sử dụng khoảng
156,2±168,6 kg/ha/vụ/2-3 lần bón. Ngồi ra vôi
lân cũng được nông hộ ở Kiên Giang và Cà Mau
sử dụng ở giai đoạn đầu vụ sản xuất, với khoảng

252±194,8 kg/ha/1-2 lần bón.
 Cỏ dại, sâu bệnh trên lúa và cách
phịng trị
Hầu hết nơng hộ dọn cỏ dại bằng thủ cơng
(71,4%), có 5,4% sử dụng thuốc diệt cỏ và
23,2% hộ khơng phịng trừ cỏ dại. Có 40,2%
hộ khơng thấy xuất hiện bệnh trên lúa, tập
trung ở Kiên Giang với 67,4%. Các hộ cịn lại
cho rằng có nhiều sâu bệnh xuất hiện trên lúa
như: Sâu đục thân với tỷ lệ xuất hiện 66,7%,
Rầy Nâu 42,5%, Vàng lùn-lùn xoán lá 33,3%,
Đạo ôn 30%.
 Thu hoạch lúa: Kết quả vụ lúa năm
2010 được thể hiện bảng 3.6

Bảng 3.6: Thông tin về thu hoạch lúa trong mơ hình T-L năm 2010
Kiên
Chỉ tiêu

ĐVT*
Cà Mau Bạc Liêu
Giang
1. Thời gian gieo/cấy đến thu hoạch
ngày
95,0±8,6
123±8,7 123,0±10,9
2. Năng suất lúa
Tấn/ha/vụ
0,8±1,6
1,0±1,2
2,2±1,5
3. Tỷ lệ thất mùa
%
76,8
15,4
39,5
*

Chung
119,0±13,8
1,2±1,5
36,7

ĐVT: đơn vị tính

 Phân tích các chỉ tiêu tài chính trong sản xuất lúa
Bảng 3.7: Chi phí, thu nhập và lợi nhuận trong sản xuất lúa
Chỉ tiêu


ĐVT*

1. Tổng chi phí cho Lúa

Tr.đ/ha/vụ

Kiên Giang

Cà Mau

Bạc Liêu

Trung bình

9,4±8,1

6,6±4,4

8,5±5,2

8,14±6,4

+ Chi phi biến đổi

%

91,4

86,1


94,1

90,4

+ Chi phí cố định

%

8,7

13,9

5,9

9,6

8,6±7,3

5,7±4,2

7,8±5,2

7,4±5,9

2. Tổng chi phí biến đổi

Tr.đ/ha/vụ

+ Chi phí cải tạo ruộng


%

24,6

17,8

21,9

21,9

+ Chi phí giống lúa

%

23,4

8,2

7,0

15,1

+ Chi phí lao động

%

9,1

18,1


16,8

13,6

+ Chi phí phân bón

%

16,6

31,6

19,3

21,6

+ Chi phí nhiên liệu

%

7,1

5,2

4,3

5,9

+ Chi phí khác (thuốc, t.hoạch,,,)


%

2,2

0,3

0,05

1,1

3. Doanh thu từ lúa

Tr.đ/ha/vụ

5,3±10,8

7,7±9,9

15,9±10,4

8,6±11,1

4. Lợi nhuân từ lúa

Tr.đ/ha/vụ

-4,1±10,1

1,2±9,7


7,4±15,8

0,4±11,1

%

19,6

44,2

70,9

40,3

%

80,4

55,8

29,0

59,7

5. Tỷ lệ lời/lỗ từ lúa: + Lời
+ Lỗ
*

ĐVT: đơn vị tính


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013

43


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
IV. THẢO LUẬN
 Đối với ni tơm trong mơ hình T-L
năm 2011
Kết quả điều tra cho thấy việc chú trọng
nâng cao trình độ chuyên môn trong canh tác
T-L của người dân trong địa bàn chưa cao, đặc
biệt Bạc Liêu có tới 66,7% chưa tham gia lớp
tập huấn kỹ thuật canh tác T-L. Một số lý do
như bận nhiều việc, điều kiện kinh tế khó khăn
hoặc chưa có được sự quan tâm đúng của một số
cấp chính quyền trong cơng tác phát triển trình
độ, kỹ năng nuôi thủy sản và trồng lúa. Hơn
nữa, phần lớn chủ hộ là người đảm nhiệm trách
nhiệm “kỹ thuật” chính cho canh tác T-L nhưng
có trình độ học vấn thấp nên nhận thức về tập
huấn không cao. Trong khi tuổi trẻ có trình độ
thì làm những cơng việc khác không liên quan
đến canh tác T-L. Điều này cho thấy việc ứng
dụng những kỹ thuật mới trong canh tác T-L của
các vùng giáp biển vùng bán đảo Cà Mau gặp
nhiều khó khăn.
Diện tích trung bình khu vực canh tác T-L
tại nông hộ của 3 tỉnh là 1,6±1,0 ha, chiếm
83,0% tổng diện tích đất. Diện tích này được

xem là phổ biến hiện nay của vùng T-L bán đảo
Cà Mau và cũng là diện tích phù hợp cho thiết
kế hệ thống canh tác T-L (mương, bờ và trảng)
và cải tạo, quản lý môi trường cho canh tác T-L.
Tương tự, tỷ lệ diện tích mương chiếm trung
bình 28,2% được xem là hợp lý. Theo Nguyễn
Thanh Phương và ctv. (2004) quy chuẩn về
thiết kế ruộng canh tác T-L với tỷ lệ mương bao
chiếm 25-30% là hợp lý về tính bền vững của
mơ hình T-L.
Kết quả điều tra cho thấy hầu hết người
nuôi tôm 3 tỉnh vội vàng trong thả tôm giống
ở lần đầu khi độ mặn nước chưa tăng nông
(37,5% thả giống dưới 1,5‰). Điều này có
thể tranh thủ thả được nhiền lần/vụ nhưng tỷ
lệ đạt đầu con sẽ giảm và chi phí cao, kết quả
bảng 3.5 cho thấy chi phí tơm giống chiếm tỷ
lệ cao nhất trong tất cả chi phí cho mơ hình
ni quảng canh cải tiến. Cũng qua điều tra
44

nhận thấy nơng hộ ni tơm 3 tỉnh có quan tâm
đến ương tôm giống trước khi thả nuôi vuông
quảng canh cải tiến, điều này góp phần kiểm
sốt số lượng giống thả và rút ngắn thời gian
nuôi. Tuy nhiên, mức độ quan tâm đến ao nuôi
mật độ cao chưa cao, đặc biệt ở Kiên Giang
khơng có nơng hộ nào quan tâm. Đây có thể
là do họ nhận thức chưa tới, thiếu vốn, thiếu
kỹ thuật và do tập quán canh tác. Việc thiết

kế thêm ao nuôi mật độ cao được xem là giải
pháp hiệu quả bởi góp phần tăng năng suất tơm
ni trên một đơn vị diện tích và góp phần giải
quyết một phần nguồn nước ngọt dự trữ tưới
tiêu cho vụ lúa khi nắng hạn cục bộ xảy ra.
Việc sử dụng vôi là cần thiết trong nuôi tôm
nhằm hạ phèn và ổn định môi trường vuông
nuôi. Tùy điều kiện nhiễm phèn nhiều hay ít,
lượng vơi có khác nhau. Kết quả điều tra ở Kiên
Giang có tỷ lệ hộ sử dụng vơi (98,3%) và liều
lượng sử dụng (796,7 kg/ha/vụ) cao hơn Cà
Mau và Bạc Liêu được xem là hợp lý, phù hợp
điều kiện đất nhiễm phèn tiềm tàng của vùng đất
điều tra Kiên Giang. Tuy nhiên, liều lượng vơi
sử dụng bình qn ở các tỉnh cịn thấp.
Tơm giống thả ni được xem là yếu tố
quan trọng nhất liên quan đến năng suất của vụ
nuôi. Tuy nhiên điều tra cho thấy người nuôi
tôm vẫn chưa quan tâm nhiều tới chất lượng
tơm giống thả ni. Có tới 36,47% hộ khơng
quan tâm gì đến chất lượng tơm giống (cả cảm
quan và xét nghiệm, sốc Formalin), đây có thể
là một trong những nguyên nhân gây tôm bệnh
thường xuyên. Mật độ và số lần thả giống ở ba
vùng điều tra có cao hơn nhiều so với khuyến
cáo 2,0 con/m2 ở lần thả đầu và 1,5 con/m2 cho
2 lần thả tiếp theo (Thiều Lư và ctv. (2010).
Nước là môi trường sống của tơm, trong
đó độ mặn giai đoạn thả giống có ý nghĩa quan
trọng đến tỷ lệ sống, sinh trưởng và sức khỏe

tôm nuôi. Tuy nhiên, hầu hết nông hộ thả giống
khi độ mặn thấp. Hơn nữa, hầu hết hộ nuôi lấy
nước trực tiếp vào vuông nuôi không qua túi
(lưới) lọc, ao (kênh) lắng và một số khác sử
dụng thuốc nơng dược, thuốc diệt giáp xác để

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
xử lý nước nên có thể là ngun nhân gây tỷ lệ
sống tơm nuôi thấp, chậm lớn và bệnh.
Hầu hết người nuôi tôm quảng canh cải tiến
ít am hiểu về bệnh. Bệnh đỏ thân, đốm trắng,
đen mang, đóng rong, nhiễm khuẩn là những
loại bệnh mà người nuôi tôm nhận biết được.
Một số bệnh khác như bệnh đầu vàng và bệnh
gan tụy chưa có kinh nghiệm nhận biết bệnh.
Với tất cả các loại bệnh này, người ni đều
nhấn mạnh tới 3 ngun nhân chính là do: tôm
giống, nguồn nước và thời tiết. Tuy nhiên, theo
điều tra cho thấy cơng tác chăm sóc và quản lý
của hộ dân còn lỏng lẻo dù đây là nguồn thu
chính cho họ. Có 2,4% hộ khơng quan tâm tới
sức khỏe tơm ni, hơn 38% có quan tâm tới
bệnh nhưng không thường xuyên.
Trong năm 2011, tôm nuôi tại Kiên Giang
cho kết quả khả quan hơn so với Cà Mau và
Bạc Liêu. Kết quả khảo sát cho thấy năng suất
tôm nuôi cao hơn năng suất tơm ni trong mơ

hình T-L tại Cà Mau năm 2003 (88-100 kg/ha/
vụ) (Cao Phương Nam (2003), nhưng thấp hơn
năng suất của các nghiên cứu khác về mơ hình
T-L năm 2010 (Sở NN&PTNT Bạc Liêu, Cà
Mau và Kiên Giang, 2011). Mặc dù cả hai đối
tượng cua và cá thả nuôi bổ sung nhưng mang
lại thu nhập rất đáng kể cho hộ ni tơm, hai đối
tượng này có năng suất biến động lớn giữa các
địa bàn và các hộ nhưng kết quả cho thấy: Việc
ni ghép tơm–cua–cá ngồi giảm rủi ro trong
ni trồng thủy sản (Hồng Văn Long, 2011)
cịn giúp cải thiện thu nhập cho người ni tơm.
Tổng chi phí cho ni tơm bình qn
khoảng 17,3 tr.đ/ha/vụ và dao động khá lớn,
nhiều nhất ở Kiên Giang (23,2 tr.đ) và ít nhất
ở Cà Mau (12,0 tr.đ). Trong tổng chi phí thì có
tới 95,5% là chi phí biến đổi, với các khoản chi
phí lớn là: Tơm giống (30,4%), Cải tạo vng
(20,8%), Ước giá trị lao động gia đình (17,3%),
Bổ sung giống thủy sản (12,0% kể cả giống cua
và cá). Do hầu hết các hộ chỉ sử dụng cơng gia
đình nên việc thuê lao động thường xuyên cho
nuôi tôm là không đáng kể.

Tổng thu nhập từ thủy sản của mơ hình T-L
là 37,2 tr.đ/ha/vụ, trong đó ở Kiên Giang cao
hơn gấp đôi so với ở Bạc Liêu (59,1 tr.đ so với
21,6 tr.đ). Trong cơ cấu thu nhập từ thủy sản thì
tơm ni đóng góp nhiều nhất (69,1%), kế đó là
cua và sau cùng là cá. Tổng lợi nhuận từ thủy

sản bình quân đạt 19,9 tr.đ/ha/vụ, nhưng biến
động lớn giữa các địa bàn và giữa các hộ trong
từng địa bàn (±29,7 tr.đ/ha/vụ) vì có trung bình
22,4% hộ ni tơm bị thua lỗ.
 Đối với sản xuất lúa trong mơ hình T-L
năm 2010
Cải tạo đất, rửa mặn được xem là khâu mấu
chốt quyết định thành cơng của vụ sản xuất
lúa trong mơ hình T-L. Vụ mùa năm 2010, cho
thấy khâu chuẩn bị đất tại vùng Kiên Giang (có
74,6% hộ cày/bừa/trục) tốt hơn hai tỉnh Cà Mau
và Bạc Liêu. Ngược lại khâu chủ động rửa mặn
được số hộ ở Cà Mau và Bạc Liêu quan tâm
nhiều hơn. Cũng qua điều tra cho thấy khó khăn
nhất trong khâu cải tạo đất cho sản xuất lúa là:
phụ thuộc vào thời tiết (lượng mưa), thiếu nước
ngọt để rửa mặn cho đất và thiếu cơ giới để cải
tạo. Bên cạnh có tới 58% hộ cho rằng do đất bị
nhiễm mặn từ vụ tơm trước nên khó có thể rửa
mặn triệt để.
Tùy theo điều kiện chung của từng địa
phương và điều kiện kinh tế của từng nông hộ,
nông hộ có thể thể cấy hoặc xạ lan hoặc xạ
hàng, có thể sử dụng giống lúa mùa trung hay
dài ngày hay giống lúa cao sản ngắn ngày. Đối
với Cà Mau và Bạc Liêu, nông hộ thường cấy và
giống lúa là Một bụi đỏ, còn Kiên Giang chọn
phương pháp xạ lan với giống lúa cao sản ngắn
ngày là OM2517. Đối với cấy sẽ giúp giảm
chi phí lúa giống, có thời gian chuẩn bị đất và

rút ngắn được thời gian phát triển của lúa trên
ruộng, nhưng sản lượng thấp, dễ sâu bệnh và tốn
chi phí cơng cấy. Đối với giống lúa cao sản ngắn
ngày xạ lan sẽ giúp giảm chi phí cơng cấy, sản
lượng cao. Tuy nhiên tốn lúa giống, lúa giống
khó để giống, khi phát triển gặp nắng hạn cục
bộ sẽ khó phục hồi.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013

45


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Nhiều báo cáo trước chỉ ra rằng, việc sử
dụng thuốc nông dược (thuốc diệt cỏ, thuốc trù
sâu) ngay trong ruộng (vuông) nên cần được
xem xét đến khả năng tồn lưu trong đất và
nước để hạn chế ảnh hưởng đến đối tượng nuôi
(tôm), điều này được chính người canh tác T-L
đồng ý tới 60,17% và mức độ ảnh hưởng đến
tôm nuôi 33,75%. Tuy nhiên, đa phần người
dân vẫn sử dụng thuốc nông dược để phịng trị
bệnh cho lúa.
Thực tế cho thấy ruộng (vng) ni ln
canh T-L sẽ góp phần giảm chi phí phân bón cho
lúa bởi chất thải của vụ tôm sẽ được rễ lúa hấp
thụ. Điều này phù hợp với kết quả điều tra là
giảm 30,8 % chi phí phân bón cho lúa.
Năm 2010 được xem là năm khó khăn

trong việc trồng lúa của cả 3 tỉnh Cà Mau,
Bạc Liêu và Kiên Giang. Kết quả trung bình
36,7% hộ thất mùa (mất trắng), cao nhất là
Kiên Giang (76,8%), đến Bạc Liêu (39,5%) và
Cà Mau (15,4%). Chính vì vậy nên sản lượng
lúa thu hoạch chỉ đạt bình qn 1,2±1,5 tấn/
ha. Có thể thấy rằng năng suất lúa thấp hơn
mức bình quân chung 3-4 tấn/ha từ kết quả của
các nghiên cứu trước đây về mơ hình T-L (Sở
NN&PTNT Bạc Liêu, Cà mau và Kiên Giang,
2011). Về mặt lợi nhuận trên vụ lúa năm 2010
cũng thấp, tổng lợi nhuận bình quân từ lúa chỉ
đạt 0,4±11,1 tr.đ/ha/vụ nhưng có độ chênh lệch
rất lớn giữa 3 tỉnh, Bạc Liêu là 7,4±15,8tr.đ/
ha/vụ, Cà Mau 1,2 ±9,7tr.đ/ha/vụ và thấp nhất
ở Kiên Giang – 4,1±10,1 tr.đ/ha/vụ. Nguyên
nhân thất mùa năm 2010 do nông hộ vội vàng
trong xuống giống khi đất chưa được rửa mặn
kỹ và do nắng cục bộ kéo dài, độ mặn xâm
nhập sớm. Việc canh tác lúa trên đất nuôi tôm
hiện nay của các tỉnh ven biển vùng bán đảo Cà
Mau cho thấy hoàn toàn phụ thuộc vào lượng
nước mưa hàng năm.
Trong tổng chi phí cho sản xuất lúa thì các
khoảng chi phí chủ yếu chiếm tỷ lệ cao là: Cải
tạo ruộng (21,9%), phân bón (21,6%), lúa giống
(15,1%), lao động (13,6%).
46

 Nhận định về mơ hình T-L và cách thử

nghiệm để cải tiến trong tương lai
Đa số (67,5%) người dân hiện đang canh
tác T-L nhận thức được rằng mơ hình T-L mang
tính bền vững (Cà Mau 90,5%, Kiên Giang
63,2%, Bạc Liêu 46,8%), nhưng 16,6% không
nhận thấy sự khác biệt so với sản xuất chuyên
canh và 11,5% không nhận thức được.
Tổng kết từ cả vụ nuôi tôm và trồng lúa cho
thấy bình qn mỗi ha ni tơm cần tới 68,1%
tổng chi phí sản xuất (Kiên Giang 71,1%, Bạc
Liêu 65,9%, Cà Mau 64,5%), mang lại 81,2%
tổng thu nhập (Kiên Giang 91,8%, Cà Mau
80,2%, Bạc Liêu 57,6%), và tổng lợi nhuận của
tồn mơ hình T-L là 98,0% (Kiên Giang 112,9%,
Cà Mau 94,1%, Bạc Liêu 41,1%) tương đương
20,3 tr.đ/ha/năm, lợi nhuận này nhìn chung thấp
so với một số báo cáo trước đây.
Bốn giải pháp cải thiện năng suất và lợi
nhuận từ tôm nuôi trong mùa khô mà người dân
quan tâm là: (i) Ương con giống trước khi lan ra
vuông (22,4%), (ii) Nuôi ngắt vụ (21,8 %), (iii)
Thả liên tục với mật độ thưa (17,3%), và (iiii)
Kết hợp cả ương giống và nuôi ngắt vụ (12,8%).
Kết quả nghiên cứu này sẽ là cơ sở cho các bước
thực nghiệm nghiên cứu tiếp theo.
Đối với sản xuất lúa, một tỷ lệ khá cao
(79,9%) hộ đồng ý thiết kế ao dự trữ nước ngọt
là cần thiết, ở Cà Mau (95,8%), Kiên Giang
(82,5%) và Bạc Liêu (59,1%). Việc nghiên cứu
này cũng là điểm nhấn cần quan tâm trong thiết

kế hệ thống mơ hình T-L trong bước tiếp theo.
Vì ngồi việc chứa nước ngọt dự trữ cho tưới
tiêu cho cây lúa, ao cịn có thể ni tơm mật độ
cao hơn để góp phần nâng cao năng suất sản
lượng tơm và tăng thu nhập cho hộ dân.
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
Kết luận
(1) Việc chú trọng nâng cao trình độ chun
mơn cho canh tác Tôm-Lúa của người dân chưa
cao. Người đảm nhiệm “kỹ thuật” chính là chủ
hộ trong gia đình có trình độ học vấn thấp.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
Trong khi tuổi trẻ có trình độ cao thì làm những
cơng việc khác khơng liên quan đến canh tác
Tơm-Lúa.
(2) Chỉ 22,4% hộ có thiết kế thêm mương
trong trảng cho tôm trú ẩn. Không có mương
phèn để rửa phèn và mặn cho vụ trồng lúa.
(3) Việc gia cố bờ bao nhằm quản lý nước
chưa đảm bảo, 62,5% vuông (ruộng) không
đảm bảo giữ nước.
(4) Tôm giống thả nhiều lần trong vụ, mật
độ tôm giống thả cho tất cả các lần thả cao 16,3
con/m2 (khơng tính thu tỉa). Lúa giống được
chọn để giống từ năm (vụ) trước. Nông hộ vội
vàng thả tôm giống và xuống giống lúa khi độ

mặn chưa đảm bảo.
(5). Tổng chi phí cho ni tơm bình qn
17,3 tr.đ/ha/vụ, trong đó chi phí tơm giống cao
nhất 30,4% và sau đó cải tạo vng 20,8%.
Năng suất tơm thu được bình qn 172,8 kg/
ha/vụ. Năng suất cua trung bình 74,1 kg/ha/vụ,
năng suất cá 230,0 kg/ha/vụ. Tổng thu nhập từ
thủy sản là 37,2 tr.đ/ha/vụ, trong đó thu nhập
từ tơm chiếm 69,1%, kế đó là cua 28,6%. Tổng
lợi nhuận trên đối tượng thủy sản bình quân đạt
19,9 tr.đ/ha/vụ.
(6) Tổng chi phí cho sản xuất lúa bình qn
8,14 tr.đ/ha/vụ, trong đó chi phí cải tạo ruộng
cao nhất 21,9% và sau đó phân bón 21,6%.
Trung bình có tới 36,7% số hộ thất mùa (Kiên
Giang 76,8%, Bạc Liêu 39,5% và Cà Mau
15,4%) nên doanh thu từ lúa bình quân trong
nghiên cứu thấp, chỉ 8,6 tr.đ/ha/vụ.
(7) Việc trồng lúa vào mùa mưa (năm
2010) và nuôi tôm mùa khô (năm 2011) của
các huyện giáp biển vùng bán đảo Cà Mau
có nhiều rủi ro, tỷ lệ xuất hiện bệnh trên tôm
nhiều, điều tiết nước ngọt rửa mặn và tưới tiêu
cho lúa thụ động, hoàn toàn phụ thuộc thời tiết
trong năm.

Đề xuất
(1) Nghiên cứu thiết kế tỷ lệ diện tích mương
hoặc ao chứa nước so với hệ thống vng phù
hợp để góp phần cải thiện năng suất, sản lượng

và tăng thu nhập cho hộ canh tác Tơm-Lúa.
(2) Triển khai thực nghiệm các mơ hình
ni tơm khác nhau như: ương tôm giống trong
ao trước khi thả ra vuông nuôi quảng canh cải
tiến, thả giống trực tiếp vuông nuôi quảng canh
cải tiến với mật độ thưa, nuôi tôm trong ao ở
mật độ cao, hoặc kết hợp các mơ hình trên.
(3) Nghiên cứu các bộ giống lúa cao sản có
năng suất cao, kháng trừ sâu bệnh và chịu phèn,
chịu mặn cao tại các vùng sinh thái nhiễm mặn
khác nhau của ĐBSCL.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Nông nghiệp và PTNT, 2011. Báo cáo tổng kết năm
2010 và phương hướng năm 2011.
Hoàng Văn Long, 2011. Đánh giá hiệu quả kinh tế của
mơ hình canh tác Lúa - Tơm sú và Lúa - Tôm
sú - Cua biển tại vùng U Minh Thuợng, tỉnh Kiên
Giang. Luận văn cao học, Khoa Kinh Tế & Quản
Trị Kinh Doanh, Trường Ðại học Cần Thơ, 76
trang.
Thiều Lư, Trình Trung Phi, Nguyễn Cơng Thành, Đỗ
Văn Hồng, Ngơ Minh Lý, Trần Quốc Bình,
Nguyễn Trọng Nghĩa, 2010. Nghiên cứu một số
giải pháp phát triển bền vững các mơ hình ni
tơm trên vùng chuyển đổi tại huyện Đầm Dơi,
tỉnh Cà Mau. Báo cáo khoa học, Viện Nghiên Cứu
Nuôi Trồng Thủy Sản 2. 103 trang.
Cao Phương Nam, 2003. Xây dựng mơ hình ứng dụng
tiến bộ khoa hoặc kỹ thuật để phát triển NTTS hai
huyện Ngọc Hiển và Cái Nước. Báo cáo tổng kết

khoa học.
Sở NN&PTNT Bạc Liêu, 2011. Báo cáo tổng kết năm
2010 và phương hướng năm 2011.
Sở NN&PTNT Cà Mau, 2011. Báo cáo tổng kết năm
2010 và phương hướng năm 2011.
Sở NN&PTNT Kiên Giang, 2011. Báo cáo tổng kết
năm 2010 và phương hướng năm 2011.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013

47


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

CURRENT TECHNICAL AND SOCIO-ECONOMIC STATUS OF THE RICESHRIMP ROTATION MODEL IN COASTAL DISTRICTS OF CAMAU PENINSULA
Nguyen Cong Thanh1, Ngo Minh Ly1, Nguyen Van Hao2
ABSTRACT
The study was carried out through random survey of 170 households in order to analyze the current status of technical and socio-economic aspects of the rice-shrimp rotation model in the coastal
border districts of the three provinces of Bac Lieu, Ca Mau and Kien Giang. The results indicate
that it is not priority focus on improving of technical knowledge for the local farmers in shrimp-rice
rotation practices. Majority of technical farmers are the household owners who have low education
(up to 44.2% of the technical farmers are primary school level). Up to 62.5% of rice fields does
not guarantee of water retention. Most households stock shrimp postlarvae for several times (4.1
times) per crop with the first stocking was high density (4.2 shrimp/m2) and very little attention was
concerning for seed quality (36.5%). Most households in a hury to stock first shrimp postlarvae and
culture when the salinity of water was not yet suitable. Shrimp yield obtained at the three provinces
was averaged at 172.8 kg/ha/crop. Total average production cost of 17.3 million VND/ha /crop.
The income from aquaculture reached 37.2 million VND/ha/crop (of which shrimp accounted for
69.1%). The average profit was at 19.9 million VND/ha/crop with 77.7% of the households in success of aquaculture. Average rice yield for the three provinces was 1.2 ton/ha/crop. Unsccessful rice

crop was up to 36.7%. The production cost of rice was 8.1 million VND/ha/crop and only 40.3% of
households have their own profits. General assessment on the collected data show that the average
production cost per ha for shrimp farming activity was taken of 68.1% of the total rice-shrimp rotation costs (particularly in Kien Giang was 71.1%, Bac Lieu was 65.9%, and Ca Mau was 64.5%),
consequently shrimp farming brings about 81.2% of total rice-shrimp income for the farmer in
average (particularly Kien Giang was 91.8%, Ca Mau was 80.2%, and Bac Lieu was 57.6%). Average percentage of the total profits of the rice-shrimp rotation model was 98.0% (Kien Giang was
112.9%, Ca Mau was 94.1%, and Bac Lieu was 41.1%), correspond to 20.3 million VND per ha
per year.
Key words: cost, salinity, profit, yield, rice-shrimp.

Người phản biện: ThS. Đỗ Quang Tiền Vương
Ngày nhận bài: 6/6/2013
Ngày thông qua phản biện: 20/6/2013
Ngày duyệt đăng: 8/7/2013

1

Minh Hai Sub-Institute for Fisheries Research, Research Institute for Aquaculture No2
Email:
2 Research Institute for Aquaculture No2

48

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013



×