Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Giải pháp khai thác hợp lý nguồn lợi tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.61 KB, 9 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2

GIẢI PHÁP KHAI THÁC HỢP LÝ NGUỒN LỢI TÔM HÙM GIỐNG
TẠI VỊNH NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
Nguyễn Trọng Lương1, Trần Đức Phú1, Nguyễn Quốc Khánh1,
Nguyễn Y Vang1, Nguyễn Văn Nhuận1
TÓM TẮT
Bài viết thể hiện kết quả khảo sát thực trạng nghề đánh bắt làm cơ sở cho việc xây dựng định hướng khai thác
hợp lý nguồn lợi tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Trên cơ sở số liệu điều tra các hộ ngư
dân hoạt động khai thác tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang năm 2011-2012, kết quả thu được như sau: (1) Có
03 phương thức khai thác là lưới mành, bẫy và lặn bắt. Trong đó, nghề lưới mành có 172 hộ (chiếm 20,8%),
nghề bẫy 614 hộ (chiếm 74,2%) và nghề lặn 41 hộ (chiếm 5%); (2) Trình độ học vấn của lao động làm nghề
khai thác tôm hùm giống khá thấp, có tới 63,2% chưa hồn thành chương trình tiểu học, 27,1% chưa hồn
thành chương trình phổ thơng cơ sở và số cịn lại là có trình độ cao hơn; (3) Thu nhập của lao động nghề khai
thác tơm hùm giống khá cao, trung bình từ 20÷24 triệu đồng/tháng vào chính vụ; (4) Hàng năm, trung bình
mỗi hộ ngư dân khai thác tôm hùm giống bằng bẫy đã sử dụng khoảng 2,2 m3 rạn san hô tự nhiên, tác động
rất lớn đến môi trường sống của các lồi thủy sản nói chung và nguồn lợi tơm hùm nói riêng; (5) Sản lượng và
năng suất đánh bắt có xu hướng giảm mạnh. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, việc đặt bẫy khai thác tôm
hùm giống đã ảnh hưởng rất lớn đến cảnh quan môi trường và gây cản trở các hoạt động kinh tế khác tại vịnh
Nha Trang như ngành du lịch, giao thông đường thủy. Trên cơ sở thực trạng nghề, chúng tôi đã đề xuất một số
giải pháp nhằm khai thác hợp lý nguồn lợi tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hịa.
Từ khóa: ngư cụ, tơm hùm giống, rạn san hơ

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỉnh Khánh Hịa thuộc vùng Nam Trung
Bộ, có nghề khai thác tôm hùm giống phục vụ
nuôi thương phẩm phát triển mạnh nhất nước ta.
Năm 2011, nghề khai thác cung cấp nguồn giống
cho khoảng 27.700 lồng nuôi, với sản lượng tôm
hùm thương phẩm đạt gần 1.000 tấn và doanh
thu đạt trên 1.000 tỷ đồng [4]. Nghề nuôi tôm


hùm thương phẩm phát triển, kéo theo sự phát
triển mạnh mẽ của nghề khai thác tơm hùm
giống. Những lồi tơm được chọn là đối tượng
ni chính như: tơm hùm bơng, tơm hùm xanh,
tơm hùm đỏ… Trong q trình ương ni tỷ lệ
tơm chết khá lớn (từ 20÷50%) làm nhu cầu con
giống ngày càng tăng [3]. Điều này dẫn đến việc
1

khai thác tôm hùm giống một cách triệt để và trở
nên quá mức ở một số khu vực.
Vịnh Nha Trang là một trong những vịnh
đẹp nhất thế giới, là danh thắng quốc gia, với
diện tích khoảng 507 km² bao gồm 19 hịn đảo
lớn nhỏ là điều kiện lý tưởng để phát triển ngành
khai thác, nuôi trồng thủy sản, du lịch, giao thông
đường thủy [3]. Hơn nữa, vịnh Nha Trang là một
trong những hình mẫu tự nhiên hiếm có của hệ
thống vũng, vịnh trên thế giới, hội tụ hầu hết các
hệ sinh thái điển hình, quý hiếm của vùng biển
nhiệt đới như hệ sinh thái đất ngập nước, rạn san
hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, hệ sinh thái
cửa sông, hệ sinh thái đảo biển, hệ sinh thái bãi
cát ven bờ. Chính vì vậy, nguồn lợi thủy sản ở

Viện Khoa học và Công nghệ Khai thác Thủy Sản, Trường Đại học Nha Trang
Email:

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013


143


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
khu vực này khá dồi dào, đa dạng, có nhiều lồi
hải sản q hiếm, giá trị kinh tế cao như cá hồng,
cá mú, tơm hùm, ngọc trai, … và hình thành nên
các làng nghề khai thác và ni trồng thủy sản
điển hình.
Cũng giống như tình trạng chung của tỉnh,
nghề khai thác tơm hùm giống ở khu vực này
đã phát triển khá nhanh, cường lực khai thác
lớn, làm nguồn lợi tôm hùm giống ngày càng
cạn kiệt. Bên cạnh đó, nghề khai thác tơm hùm
giống ở vịnh Nha Trang đã và đang gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến vấn đề bảo vệ môi
trường, cản trở giao thông đường thủy nội địa
và làm mất cảnh quan môi trường tự nhiện, ảnh
hưởng đến các hoạt động du lịch, gây xung đột
lớn với các hoạt động kinh tế khác. Chính vì vậy,
việc nghiên cứu, đề xuất giải pháp khai thác tôm
hùm giống hợp lý, hạn chế sự xung đột, trả lại
cảnh đẹp tự nhiên cho vịnh Nha Trang là việc
làm cần thiết, phù hợp với chính sách của Nhà
nước, chính quyền địa phương.
Bài viết thể hiện kết quả đánh giá hiện
trạng nghề khai thác tôm hùm giống tại vịnh
Nha Trang làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp
nhằm đánh bắt hợp lý nguồn lợi này và giảm sự
xung đột với các hoạt động kinh tế xã hội khác

trong khu vực.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghề khai thác tôm hùm giống tại vịnh
Nha Trang. Trên cơ sở đó, tìm ra giải pháp hợp
lý để quản lý nghề khai và bảo vệ nguồn lợi
tôm hùm giống.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Số liệu thứ cấp
- Tổng hợp, thu thập các dữ liệu đã được
nghiên cứu và công bố liên quan đến nội dung
nghiên cứu.
- Tổng hợp từ các báo cáo của Sở
NN&PTNT, Chi cục KT&BVNLTS, Chi cục
nuôi trồng thủy sản.
144

2.2.2. Số liệu sơ cấp
- Phỏng vấn trực tiếp 270 hộ ngư dân tham
gia khai thác tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang
thông qua phiếu điều tra nhằm thu thập các
thông tin về sản lượng, mùa vụ, năng suất đánh
bắt, …
- Phỏng vấn 115 du khách và thuyền trưởng
tàu du lịch tham gia các tuyến biển đảo nhằm
thu thập các thông tin liên quan đến cảm nhận
của họ đối với việc khai thác tôm hùm giống
của ngư dân.
- Trực tiếp tham gia sản xuất 25 ngày trên

biển để quan sát, thu thập thông tin về sản lượng,
đối tượng khai thác và đánh giá về phương thức
khai thác tôm hùm giống.
- Thu 78 mẫu bẫy tôm hùm nhằm đo đạc,
tính tốn thể tích san hơ dùng làm bẫy,…
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu được xử lý theo phương pháp trung
bình số học và thống kê mơ tả bằng các công cụ
của phần mềm Microsoft Excel 2003.
2.4. Phương pháp xây dựng giải pháp
quản lý
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng nghề khai
thác tơm hùm, nhóm nghiên cứu đề xuất các giải
pháp nhằm quản lý khai thác và bảo vệ nguồn
lợi tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang.
- Tổ chức thăm dò ý kiến của các bên liên
quan để đánh giá tính khả thi của các giải pháp.
- Tham vấn chuyên gia và các bên liên quan
như chính quyền địa phương, nhà quản lý, ngư
dân và đại diện của các nghành du lịch, giao
thông đường thủy, bảo tồn thiên nhiên nhằm
đánh giá sự đồng thuận khi thực thi các giải
pháp quản lý.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu
3.1.1. Thực trạng nghề khai thác tôm hùm
giống
a. Lao động khai thác tơm hùm giống
Tỉnh Khánh Hịa có nguồn lực lao động


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
khai thác thủy sản khá đông, cơ bản đáp ứng
được nhu cầu tại chỗ. Tuy nhiên, trong những
năm gần đây do hiệu quả của hoạt động khai
thác thủy sản có xu hướng suy giảm, người dân
có xu hướng chuyển sang làm các nghề khác có
thu nhập ổn định hơn nên lực lượng lao động
trong lĩnh vực này ngày càng khan hiếm [2].

học, rất khó để giải quyết vấn đề xã hội và sinh
kế tại các địa phương ven biển. Do đó, khó có
thể thốt ra khỏi vịng luẩn quẩn “dân trí thấp”
 “nghèo đói”  “bám biển, tăng cường khai
thác”  “nguồn lợi thủy sản cạn kiệt”  “đói
nghèo”  “khơng đi học”  “dân trí thấp”,…

Qua khảo khảo sát, vịnh Nha Trang hiện có
827 hộ ngư dân làm nghề khai thác tơm hùm
giống với 1.450 lao động. Các hộ này chủ yếu
tập trung ở các xã, phường thuộc thành phố Nha
Trang, ngư dân các địa phương khác ít khai thác
trong khu vực này.

Nghề khai thác tơm hùm giống tại vịnh Nha
Trang có 3 phương thức chính đó là nghề lưới
mành, nghề bẫy và nghề lặn bắt. Mỗi loại nghề
gắn liền với ngư cụ và phương thức đánh bắt

khác nhau.

Cũng giống như các nghề khai thác khác,
trình độ học vấn của lao động làm nghề khai
thác tôm hùm giống khá thấp, 63,2% chưa hồn
thành chương trình tiểu học, 27,1% chưa hồn
thành chương trình phổ thơng cơ sở và số cịn
lại là có trình độ cao hơn.
Thu nhập của lao động nghề khai thác tơm
hùm giống khá cao, trung bình từ 20÷24 triệu
đồng/tháng vào chính vụ và từ 3÷5 triệu đồng/
tháng vào mùa phụ. Bởi nguồn thu nhập cao và
khá ổn định trong những năm gần đây nên nghề
này đã thu hút được khá lớn lao động và phương
tiện tham gia. Đây cũng là vấn đề căng thẳng
cho việc tìm kiếm các giải pháp quản lý khai
thác và bảo vệ nguồn lợi tôm hùm. Hơn nữa, lợi
ích kinh tế từ hoạt động khai thác càng lớn, dẫn
đến việc kiểm sốt càng khó khăn. Chính vì thế,
số lượng lao động đã tăng từ 1.052 người (năm
2009) tới 1.450 người (năm 2011).
Độ tuổi của lao động nghề khai thác tôm
hùm dao động từ 11– 65 tuổi. Trong đó, nhóm
tuổi từ 11÷18 chiếm trên 13%; nhóm tuổi từ
19÷30 chiếm 23,6%; nhóm tuổi từ 31÷50 chiếm
31%; nhóm tuổi 51÷60 chiếm 20% và cịn lại là
nhóm tuổi lớn hơn 60. Điều này gửi tới chúng
ta một thông điệp rằng: nghề khai thác tơm hùm
giống có khoảng 23% số người ngoài độ tuổi lao
động, đặc biệt là đối với những người đang ở độ

tuổi đi học chiếm tỷ lệ khá lớn. Nếu khơng có
biện pháp khuyến khích con em của ngư dân đi

b. Ngư cụ và phương thức khai thác

Hình 1: Năng lực khai thác tôm hùm giống
phân theo nghề
Phương thức khai thác bằng nghề lưới
mành
Khai thác tôm hùm giống bằng lưới mành là
hình thức kết hợp giữa lưới trủ (kích thước mắt
lưới 2a ≤ 4 mm) và ánh sáng để tập trung tơm.
Nói cách khác, để khai thác được tôm giống,
ngư dân sử dụng ánh sáng để tập trung và dẫn
dụ tôm vào lưới để đánh bắt.
Tàu thuyền nghề lưới mành có cơng suất
máy chính nhỏ, nhóm tàu có cơng suất < 20 CV
chiếm 61,5%; từ 20÷33 CV chiếm 29,5% và >
33 CV chiếm 9%. Trung bình, mỗi phương tiện
trang bị từ 6 ÷ 8
dùng thuyền nhỏ có trang bị hệ thống máy nổ,

bình hơi và dây dẫn khí. Khi tới khu vực khai
thác người lặn mặc áo lặn, trang bị chì, ngậm
dây khí để thở, tay cầm đèn pin soi các hốc đá,
nếu phát hiện có tơm thì dùng vợt và tay lùa tôm
vào vợt để bắt.
Phương thức khai thác này khá đơn giản,
chi phí đầu tư thấp nhưng lại gặp nhiều rủi ro
trong quá trình lặn. Do đó, số lượng người tham

gia khai thác tơm hùm giống bằng phương thức
này không nhiều.
c. Năng suất đánh bắt và giá trị kinh tế.
Kết quả điều tra cho thấy, sản lượng đánh
bắt tôm hùm giống ở khu vực vịnh Nha Trang
có sự khác nhau rất lớn giữa các phương thức
khai thác. Sản lượng đánh bắt của nghề lưới
mành cao nhất (khoảng 65,5%), tiếp đến là nghề
bẫy (khoảng 32,7%) và nghề lặn bắt thấp nhất
(khoảng 2,8 %). Theo đó, năng suất khai thác
cũng có sự khác biệt giữa các phương thức khai
thác (hình 4).

Hình 4: Năng suất đánh bắt tơm hùm giống
Mặc dù số lao động tham gia khai thác
ngày càng tăng, trong khi đó số lượng con giống
đánh bắt được hàng năm lại giảm. Nếu năm
2008÷2009, sản lượng đạt được khoảng 720.000
con thì năm 2010÷2011 chỉ cịn lại 570.000 con.
Do đó, năng suất đánh bắt tơm hùm giống có
khuynh hướng giảm theo thời gian. Điều này có
thể lý giải là số phương tiện và lao động tham gia

khai thác tăng lên hàng năm nên năng suất đánh
bắt trên một đơn vị cường lực sẽ giảm xuống.
Năm 2011, do nhu cầu con giống cao và
nguồn giống khan hiếm nên giá bán khá cao,
dao động từ 180.000 – 220.000 đồng/con. Chính
vì vậy, thu nhập của người khai thác tăng lên
đáng kể. Ở các tháng chính vụ, trung bình mỗi

lao động có mức thu nhập từ 20÷24 triệu đồng/

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013

147


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
tháng. Nếu so với các nghề khai thác khác trong
khu vực, ngư dân làm nghề khai thác tơm hùm
giống có mức thu nhập cao nhất.
d. Mùa vụ và thời gian khai thác
Tôm hùm giống thường bắt đầu xuất hiện từ
tháng 8, rộ lên vào tháng 10 đến hết tháng 3 âm
lịch năm tới và giảm dần cho đến mùa vụ năm
sau. Đây cũng là mùa vụ khai thác chính của
tất cả phương thức khai thác từ lặn bắt, bẫy đến
khai thác bằng lưới mành. Tuy nhiên, khoảng
thời gian khai thác tôm hùm giống của mỗi loại
hình khai thác lại có sự khác biệt rõ ràng. Theo
kết quả điều tra, nghề lưới mành chỉ tập trung
vào những tháng chính vụ, hầu hết ngư dân bắt
đầu khai thác vào cuối tháng 10 đến hết tháng
3 âm lịch năm sau. Đối với các nghề bẫy và lặn
bắt thì mùa vụ khai thác chính cũng bắt đầu từ
cuối tháng 10 nhưng tới khoảng từ tháng 6÷7
âm lịch năm sau mới kết thúc.
Theo Thông tư số 02/2006/TT-BTS, từ
tháng 4÷8 hàng năm, thời điểm tơm hùm trong
thời kỳ sinh sản, khơng được phép khai thác dưới

bất kỳ hình thức nào [1]. Nhưng kết quả điều tra
cho thấy, hoạt động khai thác tôm hùm trên địa
bàn vịnh Nha Trang vẫn diễn ra công khai. Mùa
vụ khai thác tôm hùm kéo dài tới 10 tháng/năm.
Đây có thể là một trong những nguyên nhân gây
nên sự suy giảm nguồn lợi tôm hùm giống.
e. Thành phần lồi và kích cỡ tơm khai thác
Theo kết quả điều tra, ngư dân khai thác
được nhiều loài tôm hùm khác nhau: tôm
hùm bông (Panulirus ornatus), tôm hùm đá
(Panulirus homarus), tôm hùm sỏi (Panulirus
stimpsoni) và tôm hùm đỏ (Panulirus longipes).
Trong đó, tơm hùm sỏi và tơm hùm đỏ có giá trị
thấp hơn rất nhiều so với tơm hùm bông và tôm
hùm đá, nên họ chỉ chú tâm khai thác hai đối
tượng này. Tỷ lệ khai thác của hai lồi tơm này
thay đổi theo các tháng trong mùa vụ khai thác.
Theo kinh nghiệm của ngư dân thì đầu vụ (cuối
tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch) tôm hùm đá
thường xuất hiện nhiều hơn tơm hùm bơng, vào
những tháng chính vụ tơm hùm bơng xuất hiện
148

nhiều hơn. Trung bình tồn vụ tôm hùm bông
chiếm khoảng 71%, tôm hùm đá chiếm 27% và
phần cịn lại là các lồi khác. Tuy nhiên, giá trị
của tôm hùm đá chỉ bằng 1/5 tôm hùm bơng nên
ngư dân thường ít để ý tới việc tính chính xác số
lượng con giống tơm hùm đá khai thác được. Vì
vậy, tỷ lệ tơm hùm đá theo kết quả điều tra có

thể thấp hơn so với thực tế đánh bắt.
Kích cỡ con giống có sự khác nhau giữa
các phương thức khai thác. Khai thác bằng lưới
mành, ngư dân sử dụng lưới có cỡ mắt nhỏ (2a
≤ 4 mm), đánh bắt được con giống cỡ nhỏ, có
chiều dài giáp đầu ngực từ 7÷8 mm, 100% con
giống có màu trắng hoặc trắng hồng. Phương
thức khai thác bằng bẫy, đánh bắt được con
giống có kích cỡ lớn hơn, gần 95% tơm giống
có màu trắng hồng và 5% tơm con có màu sắc
gần giống tôm trưởng thành.
3.1.2. Sự tác động của nghề khai thác tôm
hùm giống đến các hoạt động khác trong khu vực
Mỗi phương thức khai thác (lưới mành, bẫy
và lặn bắt) đều có những ưu, nhược điểm riêng.
Tất cả các phương thức khai thác này đã tạo
nên một chu kì khép kín, khai thác triệt để tơm
hùm giống từ giai đoạn ấu trùng (Puerulus) đến
tôm trưởng thành. Khi ấu trùng mới xuất hiện
ở ngoài cửa vịnh, đầm đã bị đánh bắt bằng lưới
mành, những con di chuyển được vào gần bờ
thì mắc phải các loại bẫy, một số ít thốt khỏi
lưới mành, bẫy thì bị ngư dân lặn bắt gần như
quanh năm.
Khai thác bằng lưới mành đạt được số lượng
con giống lớn, cỡ giống đồng đều nhưng có tỷ
lệ tơm chết cao (1,2%). Hơn nữa, lưới mành có
kích thước mắt lưới nhỏ (2a ≤ 4 mm) bắt được
tôm con ở giai đoạn Puerulus, chất lượng con
giống không cao, kết hợp với phương thức lưu

giữ và vận chuyển không đúng kỹ thuật đã làm
tôm giống yếu đi và bị chết nhiều khi đưa vào
ương nuôi. Mặt khác, những con giống không
đảm bảo chất lượng đưa vào nuôi thương phẩm
thường bị bệnh, nên có tỷ lệ hao hụt lớn trong
q trình ni. Chính điều này làm cho nhu cầu

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
con giống của người ương luôn cao hơn thực
tế, đẩy giá bán con giống tăng, khuyến khích
ngư dân tìm mọi cách để đánh bắt với số lượng
càng nhiều, càng tốt mà không quan tâm đến
chất lượng con giống. Điều đó nói lên rằng, nghề
khai thác đã làm lãng phí một số lượng lớn tôm
hùm giống, làm suy giảm số lượng cá thể trong
quần thể tôm hùm ở tất cả các giai đoạn sống, từ
giai đoạn ấu trùng đến giai đoạn trưởng thành.
Các phương thức khai thác không chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến chất lượng con giống mà
còn ảnh hưởng tới sinh cảnh đáy biển bao gồm
rạn đá ngầm, vùng đáy sỏi, rạn san hô, thảm cỏ
biển, bọt biển - là nơi cư trú và phát triển tốt
của các loài thủy sản đáy, đặc biệt là đối với
tôm hùm ở giai đoạn tôm con. Mức độ tác động
của mỗi hình thức khai thác có khác nhau: lưới
mành nằm sát đáy suốt đêm cộng thêm 4 neo
cố định lưới và thuyền làm cho nền đáy bị tác

động rất lớn; bẫy đá, cọc, lưới trủ, mút, … ngâm
trong nước suốt vụ khai thác từ tháng 10 đến
tháng 6 năm sau, có thể tạo hình thức bẫy giả
khi các bẫy bị đứt hoặc thải bỏ ra biển khi khơng
cịn sử dụng, việc sử dụng rạn san hơ làm bẫy đã
hủy hoại các hệ sinh thái biển.
Hơn nữa, vịnh Nha Trang là 01 trong 29
vịnh đẹp nhất thế giới, góp phần thúc đẩy
ngành du lịch của địa phương phát triển mạnh
mẽ trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nghề
khai thác tôm hùm giống bằng bẫy đã và đang
tác động không tốt đến cảnh quan tự nhiên, môi
trường và giao thơng đường thủy nội địa. Theo
kết quả tham dị ý kiến của 115 du khách trong
và ngoài nước đến tham quan tuyến biển đảo ở
vịnh cho thấy, có 49,6% số người được hỏi cho
rằng: Cần nghiêm cấm hoạt động khai thác tôm
hùm giống tại vịnh Nha Trang để trả lại cảnh
quan tự nhiên vốn có; 35,6% cho rằng: Cần
phải quy hoạch lại ngư trường đánh bắt và cấm
khai thác ở gần bãi tắm, khu du lịch và nơi có
nhiều tàu thuyền qua lại; 14,8% du khách cho
rằng: Cho phép ngư dân tự do khai thác nhưng
cần phải tìm giải pháp kỹ thuật nhằm hạn chế
hệ thống phao nổi lên mặt nước và việc khai

thác đó khơng làm ảnh hưởng đến các bãi tắm
và đường đi của tàu thuyền.
Như vậy, các hoạt động khai thác đều có
tác động ít nhiều lên mơi trường sống của các

lồi tơm hùm, làm thay đổi hoặc hủy hoại nơi
cư trú của chúng và đồng thời làm mất cảnh
quan tự nhiên vùng vịnh. Do vậy, để nghề khai
thác tôm hùm giống, nuôi thương phẩm tại
vịnh Nha Trang phát triển ổn định và không
gây mâu thuẫn với các hoạt động kinh tế khác,
cần thiết phải thực hiện một số giải pháp quản
lý phù hợp.
3.1.3. Một số giải pháp nhằm quản lý khai
thác và bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống
Hạn chế hoặc cấm phát triển nghề khai thác
tôm hùm phát triển. Để làm được điều này, cần
kiểm soát bằng việc cấp phép, giao quyền quản
lý vùng nước cho người dân.
Quy định kích thước tối thiểu con giống
được phép khai thác và quản lý thông qua hệ
thống thu mua, nhà bè và người khai thác. Nếu
làm được điều này sẽ hạn chế được việc khai
thác tràn làn, gây hao hụt con giống, đặc biệt
là những con còn quá nhỏ dễ hao hụt trong quá
trình khai thác và ương ni.
Nâng cao trình độ, kỹ thuật ương, ni và
phương pháp bảo quản sau khai thác nhằm hạn
chế sự thất thoát con giống. Để làm được việc
này, cần tổ chức các lớp tập huấn, đào tạo nghề
ngắn hạn cho ngư dân.
Quy hoạch vùng cấm khai thác, vùng cho
phép khai thác và thời gian khai thác, quy định
khai thác luân phiên giữa các vùng,… nhằm
giữ lại nguồn giống bổ sung vào quần đàn tôm

trưởng thành.
Quy định ngư cụ khai thác hợp lý cho từng
khu vực trong vịnh.
3.2. Thảo luận
Trình độ dân trí của ngư dân thấp, có thể rất
khó khăn khi thực hiện các chính sách của Nhà
nước, các quy định của ngành và địa phương
trong việc quản lý hoạt động khai thác tơm hùm

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013

149


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
giống và các vấn đề liên quan khác như chuyển
đổi cơ cấu nghề nghiệp, tạo sinh kế bền vững,
… Do đó, cần kiểm soát chặt chẽ số lượng ngư
dân và số lượng ngư cụ của họ khi tham gia khai
thác, không nên để họ phát triển tự phát rồi tiến
hành kiểm tra, xử lý và cưỡng chế.
Với cường độ khai thác cao, ngư dân đã
đánh bắt triệt để nguồn lợi tôm hùm giống,
không giữ lại con giống ở ngoài tự nhiên để bổ
sung vào quần đàn tôm trưởng thành, tham gia
sinh sản tái tạo nguồn giống cho những năm sau.
Điều này có thể là nguyên nhân làm biến động
lớn về số lượng con giống khai thác hàng năm
của ngư dân ven biển miền Trung nói chung và
ngư dân ở vịnh Nha Trang nói riêng. Do đó, các

hộ ni tơm hùm thương phẩm khơng thể chủ
động được nguồn giống, ảnh hướng lớn đến
ngành nuôi biển tại vịnh Nha Trang. Như vậy,
để có nguồn giống ổn định cần phải có chương
trình nghiên cứu sản xuất giống thử nghiệm cho
đối tượng này.
IV. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận
- Nghề khai thác tôm hùm giống tại vịnh
Nha Trang có 827 hộ, với 03 hình thức chính:
Lưới mành, bẫy và lặn bắt.
- Trình độ học vấn của lao động làm
nghề khai thác tôm hùm giống thấp, là vấn đề
khó khăn cho việc quản lý hoạt động khai thác
tôm hùm trong vịnh Nha Trang.
- Thu nhập của lao động nghề khai thác
tôm hùm giống khá cao, là điều kiện để thu hút
số lượng lao động vào hoạt động nghề, làm mất
cân bằng xã hội.
- Hàng năm, ngư dân khai thác số lượng
rạn san hô khá lớn để bổ sung làm ngư cụ khai
thác con giống, tác động rất lớn đến môi trường
sống của các lồi thủy sản nói chung và nguồn
lợi tơm hùm nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng,
việc đặt bẫy khai thác tôm hùm giống đã ảnh
hưởng rất lớn đến cảnh quan môi trường và
150

gây cản trở các hoạt động kinh tế khác tại

vịnh Nha Trang như ngành du lịch, giao thông
đường thủy.
- Nghiên cứu cũng đưa ra một số giải
pháp có tính khả thi cao để quản lý hoạt động
khai thác và bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống
cũng như trả lại cảnh quan tự nhiên cho vịnh.
Trước mắt, Chính quyền địa phương cần quy
hoạch lại vùng khai thác, tiến hành cấp phép
khai thác, đồng thời xử lý nghiêm minh đối với
các đối tượng vi phạm vùng cấm.
4.2. Kiến nghị
- Nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở việc
đánh giá thực trạng nghề khai thác tôm hùm
giống, mà chưa đi vào thực thi các giải pháp
quản lý. Để thực hiện có hiệu quả các giải pháp
nói trên cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các
cơ quan, ban ngành và thực hiện trong thời gian
dài nhằm tìm kiếm hạt nhân đi đầu, gương mẫu
làm cơ sở áp dụng rộng rãi trên tồn vùng nước.
Đồng thời, tìm hướng giải quyết việc làm cho
ngư dân nhằm giảm sự phụ thuộc hồn tồn vào
nghề khai thác tơm hùm giống.
- Cần đầu tư, nghiên cứu và thiết lập
khu bảo vệ nguồn lợi tôm hùm giống dưới dạng
khu bảo tồn nhằm lưu giữ và bổ sung vào nguồn
tôm trưởng thành.
- Giao quyền khai thác và trách nhiệm
bảo vệ mặt nước cho các hộ ngư dân được cấp
phép, nhằm phát giác, hạn chế các hộ ngư dân
khác xâm nhập đánh bắt.

LỜI CẢM ƠN
Trân trọng cảm ơn ông Tiến sĩ Trần Đức
Phú – Chủ nhiệm đề tài “Đánh giá tác động của
nghề khai thác tôm hùm giống đến cảnh quan
môi trường và nguồn lợi thủy sản vịnh Nha
Trang” đã cung cấp số liệu và các nhà nghiên
cứu đã đóng góp ý kiến cho bài viết này. Chúng
tôi trân trọng cảm ơn các hộ ngư dân khai thác,
thu mua và ương nuôi tôm hùm giống tại vịnh
Nha Trang đã hỗ trợ, giúp đỡ và cung cấp số liệu
để chúng tơi hồn thành nghiên cứu.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THAÙNG 7/2013


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Thủy sản, 2006. Thông tư số 02/2006/TT-BTS ngày
20 tháng 3 năm 2006 của Bộ Thủy sản. Hướng dẫn
thực hiện Nghị định của Chính phủ số 59/2005/
NĐ-CP ngày 04 tháng 5 năm 2005 về điều kiện
sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thuỷ sản.
Nguyễn Trọng Lương và Nguyễn Văn Nhuận, 2012.
Thực trạng và giải pháp khai thác hợp lý nguồn
lợi tôm hùm giống tại vịnh Nha Trang. Tuyển tập

Hội nghị khoa học trẻ ngành thủy sản toàn quốc
lần thứ III, 634 trang, trang 572-580.
Phòng Kinh tế Thành phố Nha Trang, 2011. Báo cáo
kết quả thực hiện Kế hoạch tháo dỡ bẩy nhử tôm

hùm đặt trái phép trên vùng biển vịnh Nha Trang
năm 2011.
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thơn Khánh Hịa.
Báo cáo thường niên.

SOLUTIONS FOR SUSTAINABLE LOBSTER FISHING IN NHA TRANG BAY,
KHANH HOA PROVINCE
Nguyen Trong Luong1, Tran Duc Phu1, Nguyen Quoc Khanh1,
Nguyen Y Vang1, Nguyen Van Nhuan1
ABSTRACT
The paper presents the status of lobsters fishing and subtainable fishing plans in Nha Trang bay,
Khanh Hoa province. The data is collected through catch and landings reports, port sampling, and
sea sampling with the following results: (1) The lobters fishery has 03 fishing methods: Lift net
(20,8%), traps (74,2%) and dive-fishing (5%); (2) The education level of lobtermen is low. Specifically, only 27,1% of them have gone through primary education while 63,2% did not, less than
10% graduated from high school, vocational schools or universities; (3) The income of lobtermen
is rather high, average from 20 to 24 millions VND/ month in the main season; (4) The result also
shows that, the lobtermen use alot of coral reef to do fihsing traps, yearly average 2,2 m3/household;
(5) The fishing traps also impacts on natural landscape of Nha Trang bay, and others field such as
tourism, shipping. The paper also presents solutions for subtainable lobters fishery in Nha Trang
bay, Khanh Hoa province.
Key words: Coral reef, fishing gear, lobster juveniles.

Người phản biện: ThS. Nguyễn Văn Trọng
Ngày nhận bài: 6/6/2013
Ngày thông qua phản biện: 21/6/2013
Ngày duyệt đăng: 8/7/2013

1

Institute of Marine Science and Fishing Technology, Nha Trang University,

Email:

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - 1 - THÁNG 7/2013

151



×