Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ảnh hưởng của 17α-methyltestosteron lên chất lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia reticulata)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.57 KB, 7 trang )

VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

ẢNH HƯỞNG CỦA 17α - METHYLTESTOSTERON LÊN CHẤT
LƯỢNG MÀU SẮC CỦA CÁ BẢY MÀU (Poecilia reticulata)
Nguyễn Thị Kim Liên1*, Vũ Cẩm Lương2

TÓM TẮT
Sản xuất cá bảy màu toàn đực đã được ứng dụng cho mục đích thương mại, tuy nhiên hiện chưa có
nghiên cứu báo cáo về chất lượng màu sắc của cá bảy màu đực được chuyển đổi giới tính. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của 17α - Methyltestosteron (17α - MT) lên chất
lượng màu sắc của cá bảy màu (Poecilia reticulata). Trong nghiên cứu này, cá bảy màu mẹ đang
mang thai được cho ăn thức ăn có chứa 17α- MT với liều 300, 400 và 500 mg/kg thức ăn trong thời
gian từ 5 – 9 ngày trước khi đẻ. Kết quả sản xuất được 94,9 - 98,8% cá bảy màu đực, trong đó có
thể phân biệt được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày tuổi thơng qua kích thước thân và hình
dạng vây đuôi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến hành qua giao phối với cá cái XX đã cho
kết quả 96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm
chất lượng màu sắc của cá đực XY so với cá XY đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
đực XX được cải thiện tương đương với cá XY đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá XY
đối chứng ở các vây lưng và đi.
Từ khóa: Cá bảy màu, 17α – Methyltestosteron, chất lượng màu sắc.

I. GIỚI THIỆU
Tại thành phố Hồ Chí Minh, cá cảnh được
xem là một trong những đối tượng nuôi chủ lực và
đã trở thành một ngành kinh doanh mang lại hiệu
quả kinh tế cao. Trong 9 tháng đầu năm 2013,
thành phố đã xuất khẩu hơn 7 triệu cá cảnh, lượng
cá cảnh xuất khẩu trong 6 tháng đầu năm tăng đột
biến với mức hơn 32% so với cùng kỳ năm 2012
(Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2012). Trong các lồi cá cảnh


xuất khẩu, cá cảnh nước ngọt có 60 lồi (chiếm
99%), trong đó sản lượng chủ yếu là cá Bảy màu
(Poecilia reticulata), dĩa (Symphysodon spp), ơng
tiên (Pterophyllum spp.), hịa lan (Xiphophorus
spp.), hồng kim (Xiphophorus hellerii Heckel,
1848), moly (Poecilia spp.)…. Riêng về số
lượng xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, cá bảy màu
hiện đang đứng hàng đầu, với lượng xuất khẩu
hơn 2 triệu con/năm (Trung tâm tư vấn và hỗ trợ
Nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, 2012).
Cá bảy màu là một trong những loài cá cảnh
phổ biến nhất ở Việt Nam. So với cá cái, cá bảy
màu đực luôn được ưa chuộng và có lợi thế kinh
doanh vì có màu sắc vượt trội, cũng như có các
dạng vây đi và lưng thật đa dạng, đẹp mắt.

Nếu để cá sinh sản tự nhiên thì tỉ lệ cá đực và
cá cái trung bình là 1:1, điều này khơng có lợi
cho người ni và kinh doanh cá bảy màu vì
để nhận diện và loại cá cái thì phải ương ni
đến 90 ngày tuổi. Các nghiên cứu đực hóa cá
Bảy màu đã được nghiên cứu từ nhiều năm nay
(Pandian và Sheela, 1995; Dzwillo 1962; 1966)
tuy nhiên hiện vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá
về chất lượng màu sắc của cá bảy màu sử dụng
17α - MT trong q trình đực hóa. Việc nghiên
cứu đánh giá ảnh hưởng của 17α - MT lên chất
lượng màu sắc của cá bảy màu có thể là gợi ý về
tính hiệu quả của giải pháp này.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Chọn cá bố mẹ cho sinh sản là cá có kiểu
hình da rắn vì những hoa văn và màu sắc nổi bật
của kiểu hình này có thể giúp nâng cao hiệu quả
đánh giá chất lượng màu sắc của cá con. Cá bố
mẹ được nuôi vỗ riêng đực cái một tháng trước
khi tiến hành sinh sản. Tỷ lệ cá bố mẹ cho sinh
sản được là 1:1, bố trí thành 12 bể kính kích
thước 0,5 x 0,5 x 0,3 m, mỗi bể bố trí một cặp
cá bố mẹ.
Thí nghiệm gồm có 4 nghiệm thức, mỗi

Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Nông nghiệp Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh
Khoa thủy Sản- Trường Đại học Nơng Lâm TP. Hồ Chí Minh
*Email:
1
2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017

3


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

nghiệm thức có 3 lần lặp lại. Các nghiệm thức
bao gồm: (1) thức ăn không trộn 17α – MT; (2)
thức ăn trộn 17α – MT với liều 300 mg/kg thức
ăn; (3) thức ăn trộn 17α – MT với liều 400 mg/
kg thức ăn; (4) thức ăn trộn 17α – MT với liều
500 mg/kg thức ăn.

Thức ăn cho cá mẹ mang thai có thành phần
gồm bột cá (10 g), cám gạo mịn (20 g) và lòng
đỏ trứng gà ḷc (2 trứng). Cá thí nghiệm được
cho ăn 3 lần/ngày với monia, trùn chỉ và thức ăn
viên, cho ăn vừa đủ, thay nước 1 lần/ngày với
lượng 50%/lần.
Thời điểm tiến hành cho cá mẹ mang thai

ăn thức ăn có chứa 17α - MT là từ 5 - 9 ngày
trước khi cá đẻ. Việc pha thêm hormone 17α MT dựa theo phương pháp pha trong cồn và cho
bốc hơi của Guerrero (1975).
Sau khi sinh sản, cá mẹ được tách khỏi cá
con, từng đàn cá con thuộc một mẹ được ni
riêng biệt trong thời gian ba tháng, sau đó tiến
hành đánh giá chất lượng màu sắc của cá thí
nghiệm bằng thang điểm ở Bảng 1. Người đánh
giá là những người am hiểu về cá cảnh nói
chung và có kinh nghiệm ni cá bảy màu nói
riêng, chọn 5 người để đánh giá độc lập.

Bảng 1. Thang điểm đánh giá chất lượng màu sắc cá Bảy màu
Thang điểm (điểm)

Độ đậm nhạt của màu sắc

Độ sắc nét của hoa văn

1

Nhạt


Nhạt

2

Nhạt

Vừa

3

Nhạt



4

Trung bình

Nhạt

5

Trung bình

Vừa

6

Trung bình




7

Đậm

Nhạt

8

Đậm

Vừa

9

Đậm



* Thang điểm do chính cá nhân tự xây dựng để phục vụ cho nghiên cứu này. Điểm số màu sắc của
cá ở mỗi thí nghiệm là điểm trung bình cộng của 5 người tham gia đánh giá dựa theo thang điểm từ 1 - 9
điểm, 5 người tham gia đánh giá đã được chúng tôi hướng dẫn cụ thể trước khi cho điểm.

Số liệu thu thập sẽ được tính tốn bằng
phần mềm Excel và phân tích thống kê bằng
phương pháp ANOVA một yếu tố sử dụng phần
mềm thống kê Minitab 16. Sự khác nhau giữa
các nghiệm thức thí nghiệm được xác định bằng

trắc nghiệm Tukey với mức ý nghĩa 95% và trắc
nghiệm χ2.
III. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả đực hóa cá bảy màu bằng
17α - MT
Với các liều 300, 400 và 500 mg/kg thức

4

ăn cho cá mẹ mang thai ăn từ 5 - 9 ngày trước
khi đẻ, tỉ lệ đực hóa ở thế hệ con quan sát sau
90 ngày tuổi được trình bày trong Bảng 2. Tỉ lệ
cá đực trung bình đạt 96,9%, so với tỉ lệ cá đực
đạt 47,6% ở nghiệm thức đối chứng (P < 0,05).
Trong các nghiệm thức cá ăn 17α - MT, kết quả
ghi nhận cá đực chia ra làm hai nhóm hình thái
khác biệt, nhóm có hình thái bên ngồi giống với
cá đực ở nghiệm thức đối chứng được giả định là
cá đực XY; nhóm cịn lại cá có vi đi khơng xịe
rộng trong khi kích thước thân lớn hơn cá đực
XY đới chứng, được giả định là cá đực XX.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Bảng 2. Tỉ lệ đực cái trong các thế hệ cá con khi cá mẹ được ăn 17α - Methyltestosteron
Liều 17α MT (mg/kg
thức ăn)


Số ngày cá
ăn
17α - MT

Tổng
số

0
0
0
5
8
9
6
7
9
8
5
7

21
35
30
27
36
39
34
37
28

27
31
32

0 (ĐC)
300
400
500

Cá con lúc thành thục
Cá đực

Tổng số
cái
XY
XX*
cá đực
11
10
0
10
18
17
0
17
16
14
0
14
2

13
12
25
1
18
17
35
2
20
17
37
0
17
17
34
2
17
18
35
1
14
13
27
1
14
12
26
0
16
15

31
0
15
17
32

Tỉ lệ
cá đực
(%)
47,6
48,6
46,7
92,6
97,2
94,9
100
94,6
96,4
96,3
100
100

Tỉ lệ cá đực
trung bình
(%)
47,6b± 1,0
94,9a± 2,3
97,0a± 2,8
98,8a± 2,1


Ghi chú: Các số liệu trên cùng 1 cột có chữ cái khác nhau là sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê
(P<0,05). XX* là cá đực XX giả định.

3.2. Tỉ lệ sống của cá được đực hóa ở 90
ngày t̉i
Tỉ lệ sống cá 90 ngày tuổi ở nghiệm thức xử
lý 17α - MT với liều 300 và 400 mg/kg thức ăn
là 96,3 và 95,8% còn tỷ lệ sống ở nghiệm thức
đối chứng là 94,5%, sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê. Nhưng ở nghiệm thức 500 mg/
kg thức ăn tỉ lệ sống cá là 79,3%, thấp hơn và
khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn
lại (P < 0,05).
Bảng 3. Tỉ lệ sống cá được đực hóa ở 90 ngày tuổi
Liều lượng 17α - MT
(mg/kg thức ăn)
0 (ĐC)
300
400
500

Tỉ lệ sống (%)
94,5a± 3,3
96,3a± 1,1
95,8a± 1,6
79,3b± 3,2

Ghi chú: Số liệu trình bày trong bảng là giá trị
trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số
liệu trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện

sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

3.3. Nhận dạng cá đực XY, cá đực XX và
cá cái XX
Cá đực XY: Vi lưng và đuôi của cá đực dài,
trên thân và vây đi có màu sặc sỡ, thân thn
dài và có kích thước nhỏ hơn so vớicá cái XX.
Cá cái XX: Thân màu xám nâu, vây đi
màu hồng nhạt, thân hình ống trịn và có kích
thước lớn hơn so với cá đực XY.
Cá đực XX: Vây đi khơng xịe rộng và
kích thước thân lớn hơn cá đực XY ở nghiệm
thức đối chứng. So với cá cái XX thì cá đực XX
có da rắn xuất hiện trên thân.

Hình 1. Cá đực XX, cá đực XY và cá cái XX
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017

5


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Để khẳng định tính chính xác khi lựa chọn
cá đực XX theo đặc điểm hình thái bên ngoài,
nghiên cứu đã cho phối với cá đực XX với cá

cái XX thì thế hệ con đạt 96,5% cá cái XX
(Bảng 4).


Bảng 4. Kết quả kiểm tra cá đực XX qua phép giao phối với cá cái XX
Cá con thành thục
Tổng số
Cá cái XX
Cá đực XX*
28
26
2
30
30
0
34
33
1
26
25
1
32
32
0
28
27
1
38
37
1
37
35
2
28

26
2
39
38
1
320
309
11
Trung bình

STT bầy
cá con
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Tổng số

Tỉ lệ % cá cái

χ2

92,9 ± 4,9
100,0 ± 0,0

97,1 ± 2,9
96,2 ± 3,8
100,0 ± 0,0
96,4 ± 3,5
97,4 ± 2,6
94,6 ± 3,7
92,9 ± 4,9
97,4 ± 2,5

20,6
30,0
30,1
22,2
32,0
24,1
34,1
29,4
20,6
35,1

96,5 ± 2,5

Ghi chú: XX* là cá đực XX giả định
3.4. Chất lượng màu sắc của cá đực XX
so với cá đực XY
Dựa vào độ đậm nhạt của màu sắc và độ sắc
nét của hoa văn trên thân và đuôi cá (xem thang
điểm ở phần phương pháp nghiên cứu), nghiên
cứu đã tiến hành đánh giá chất lượng màu sắc
của cá bảy màu đực XX so với cá đực XY ở

nghiệm thức đối chứng. Kết quả ở Bảng 5 cho
thấy, điểm số màu sắc trên thân cá ở các nghiệm
thức khơng có sự khác biệt về thống kê (P >
0,05). Cá đực XX dưới tác dụng của 17α - MT

có màu sắc và hoa văn trên thân khá giống cá
đực XY bình thường. Với các liều 17α - MT
khác nhau thì điểm số màu sắc trên thân và đi
cá cũng khác biệt khơng có ý nghĩa thống kê,
điều này chứng minh ở liều 300 mg/kg đủ để cá
thể hiện màu sắc. Tuy nhiên, màu sắc trên vây
đuôi và vây lưng của cá đực XX so với cá đực
XY thì khác biệt có ý nghĩa thống kê. Vây đi
cá đực XX có đường nét hoa văn không rõ so
với cá đực XY.

Bảng 5. Đánh giá chất lượng màu sắc của cá đực XX so với cá đực XY
Nghiệm thức

Cá đực XX
Cá đực XY

Liều lượng 17α - MT
(mg/kg)

Điểm số màu sắc trên
thân cá

Điểm số màu sắc trên vây
lưng và vây đuôi cá


300

8,1a ± 0,1

7,1b ± 0,1

400

8,2a ± 0,1

7,1b ± 0,1

500

8,0a ± 0,1

7,1b ± 0,1

0 (ĐC)

8,1a ± 0,1

8,0a ± 0,1

Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).

6


TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017


VIỆN NGHIÊN CỨU NI TRỒNG THỦY SẢN II

Hình 2. Cá đực XX so với cá đực XY

Hình 3. Cá đực XX ở các liều 17α - MT khác nhau

3.5. Chất lượng màu sắc của cá đực XY
ở nghiệm thức xử lý 17α – MT so với cá đực
XY đối chứng
Điểm số màu sắc của cá đực XY được sinh
ra từ cá mẹ ăn 17α - MT khác biệt không có ý
nghĩa thống kê so với cá đực XY ở nghiệm thức
đối chứng. Điều này có thể do, bản thân cá đực

XY đã mang nhiễm sắc thể giới tính Y mà tất
cả các gen màu trên Y đều trội (Kirpichnikov,
1987). Những cá đực XY có màu sắc được biểu
hiện rõ bởi những gen quy định màu sắc trên
nhiễm sắc thể Y. Do vậy, dưới tác dụng của 17α
- MT, thì chất lượng màu sắc của cá đực XY
khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

Bảng 6. Điểm số màu sắc của cá đực XY ở nghiệm thức xử lý 17α - MT so với cá đực XY đối chứng
Nghiệm thức
Cá đực XY (17α - MT)
Cá đực XY (Đối chứng)


Điểm số màu sắc
8,3a± 0,1
8,1a± 0,1

Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
3.6. Chất lượng màu sắc của cá đực XX
so với cá cái XX
Kết quả ghi nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm

số màu sắc ở cá đực XX cao hơn và khác biệt có
ý nghĩa với cá cái XX (P < 0,05).

Bảng 7. Điểm số màu sắc cá đực XX so với cá cái XX
Nghiệm thức
Cá đực XX
Cá cái XX (đối chứng)

Điểm số màu sắc trên vây
lưng và vây đuôi
7,1a± 0,1
4,2b± 0,1

Điểm số màu sắc trên thân cá
8,2a± 0,1
1,0b± 0,0

Số liệu trình bày trong bảng là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn của từng nghiệm thức, số liệu
trên cùng cột có các chữ cái khác nhau thể hiện sai khác có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).
TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017


7


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

IV. THẢO LUẬN
Kết quả tỉ lệ sống cá 90 ngày tuổi ở nghiệm
thức xử lý 17α - MT (với 3 mức nồng độ 300,
400 và 500 mg/kg) cho thấy phương pháp cho
cá mẹ ăn 17α - MT ở liều 500 mg/kg có thể đã
ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá con. Kết quả
này có phần tương đồng với kết quả nghiên cứu
của Kavumpurath và Pandian (1992) khi dùng
Ethynylestradiol để cái hóa cá bảy màu với liều
500 mg/kg thức ăn thì tỉ lệ trung bình cá chết là
67,4%, có trường hợp toàn bộ cá con chết sau
khi được sinh ra.
Nhiễm sắc thể định đoạt giới tính ở cá bảy
màu là XY (Winge, 1992; Winge và Ditlevsen,
1947 qua Fernando và Phang, 1989). Nét độc
đáo ở loài cá này là sự tập trung đa số các gen
màu sắc, gen cấu tạo vi trên các nhiễm sắc thể
giới tính: 19 gen màu ln ln liên kết với
nhiễm sắc thể Y và trên 16 gen với nhiễm sắc
thể X và Y. Tất cả các gen trên Y đều trội, các
gen trội màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự
biểu hiện của các gen màu sắc được kiểm soát
bởi các hormon sinh dục đực (Kirpichnikov,
1987). Dzwillo (1962, 1966); Haskins và ctv

(1970) cho rằng việc thêm testosteron vào nước
hoặc thức ăn cho phép tạo ra những con đực
XX với những gen màu sắc được biểu hiện. Kết
luận này đã được khẳng định lại trong kết quả
thí nghiệm. Những cá bảy màu đực XX được
sinh ra từ cá mẹ mang thai ăn thức ăn có trộn
17α - MT trong thời gian 5 - 9 ngày trước khi đẻ
thì 17α - MT có tác dụng làm tăng chất lượng
màu sắc và xuất hiện tính trạng da rắn trên cá
đực XX (Bảng 5).
Theo kết quả nghiên cứu của Fernando và
Phang (1989; 1990) thì tính trạng da rắn (hoa
văn trên thân) ở cá là do gen trội nằm trên nhiễm
sắc thể Y qui định (gen Ssb), tính trạng da rắn
ở đi cũng do gen trội nằm trên nhiễm sắc
thể Y qui định (gen Sst). Theo dõi q trình thí
nghiệm, cá bảy màu đực có tính trạng da rắn ở
thân và đi, cá bảy màu cái thì khơng có tính
trạng này, chỉ có màu sắc thể hiện ở vây đi.
Quan sát thí nghiệm chúng tôi ghi nhận, cá đực
XX được tạo ra từ cá XX di truyền ăn 17α - MT
thì màu sắc và tính trạng da rắn trên thân đã biểu
hiện. Điều này có thể do tính trạng da rắn này
8

được biểu hiện khi có tác dụng của androgen
nội và ngoại sinh. Bình thường tính trạng này
chỉ xuất hiện ở cá đực, con cái khơng có. Cá
cái XX có thể cũng có gen Ssb tuy nhiên chúng
khơng biểu hiện được vì khơng có androgen

kích thích. Theo Kirpichnikov (1987) cho rằng,
tất cả các gen màu trên Y đều trội, các gen trội
màu sắc ở cá cái không hoạt động vì sự biểu
hiện của các gen màu sắc được kiểm soát bởi
hormon sinh dục đực. Vì thế những cá đực XX
tạo ra từ cá mẹ ăn 17α - MT trong một thời gian
thì tính trạng này được biểu hiện. Kết quả ghi
nhận qua Bảng 7 thể hiện điểm số màu sắc ở cá
đực XX cao hơn và khác biệt có ý nghĩa với cá
cái XX (P < 0,05).
V. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
Cá cái XX mang thai ăn 17α - MT với liều
300 - 500 mg/kg thức ăn trong thời gian 5 - 9
ngày trước khi cá đẻ có thể sản xuất được tỷ lệ
94,9-98,8% cá bảy màu đực. Có thể phân biệt
được cá đực XX so với cá đực XY ở 90 ngày
tuổi thơng qua kích thước thân và hình dạng vây
đi. Việc kiểm tra thêm cá đực XX được tiến
hành qua giao phối với cá cái XX đã cho kết quả
96,5% cá cái ở 90 ngày tuổi. Kết quả cũng chỉ ra
rằng 17α – MT đã không thể cải thiện thêm chất
lượng màu sắc của cá đực XY so với cá đực XY
đối chứng, trong khi chất lượng màu sắc của cá
đực XX được cải thiện tương đương với cá XY
đối chứng ở phần thân nhưng kém đẹp hơn cá
XY đối chứng ở các vây lưng và đuôi.
Việc tạo cá bảy màu toàn đực bằng17α MT đã chưa thể tạo được cá đực XX đẹp tương
đương cá đực XY. Đề nghị nên có hướng nghiên
cứu tạo cá siêu đực YY và cho giao phối cá siêu
đực YY với cá cái XX để tạo ra 100% cá đực

XY cung cấp cho thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trung tâm tư vấn và hỗ trợ nơng nghiệp Thành
phố Hồ Chí Minh, 2012. Xuất khẩu cá cảnh
thành phố Hồ Chí Minh, tiềm năng cơ hội và
thách thức
Dzwillo M., 1962. Uber kiinstliche Erzeugung
funktioneller Mannchen weiblichen
Genotyps bei Lebiates reticuzatus. Bioz. zentrazbz.
81: 575 - 584.

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017


VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN II

Dzwillo M., 1966. Uber den Einfluss von
Methyltestosteron auf primare und sekundare
Geschlechtsmerkmale wahrend verschiedener
phasen der embryonal - entwickiung von lebiates
reticuzatus. Zooz. Anz., Suppl. 29: 471 - 476.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1990. Inheritance
of red and blue caudal fin colourations in two
domesticated varieties of the guppy, Poecilia
reticulata. J. Aqua. Trop. 5: 209 - 217.
Fernando A.A. and Phang V.P.E., 1989. X - linked
inheritance of red and blue tail colourations of
domesticated varieties of the guppy, Poecilia
reticulate and its implications to the farmer.
Singapore J. Pri. Ind. 17 (1): 19 - 28.

Guerrero R.D., 1975. Use of androgens for the
production of all male Tilapia aurea. Trans.
Am. Fish. Soc. 104: 342 - 348.

Haskins C.P., Young P., Hewitt R.E. and Haskins
E.F., 1970. Stabilizer heterozygosis of
supergenes mediating certain Y - linked colour
patterns in population of Lebistes reticulatus.
Heredity, Vol. 25: 575 - 589.
Kavumpurath S. and Pandian T.J., 1992.
Production of YY male in the Guppy poecilia
reticulata by Endocrine sex reversal and
progeny testing asi. Fish sci 5: 265 - 276.
Kirpichnikov V.S., 1987. Di truyền và chọn giống
cá (Nguyễn Tường Anh dịch) Nxb Lêningrad,
98 - 129.
Pandian T.J. and Sheela S.G., 1995. Hormnal
Induction Of Sex Reversal. In Fish Aquaculture
138: 1 – 22

THE EFFECT OF 17α - METHYLTESTEOSTERON ON THE
COLOR QUALITY OF GUPPIES (Poecilia reticulata)
Nguyen Thi Kim Lien1*, Vu Cam Luong2

ABSTRACT
Sex-reversal was applied for guppies fish to produce all male guppies for trading purpose. However, the color quality of sex-reversal male guppies was not reported. This study was conducted to
evaluate the effects of17α - Methyltestosteron (17α - MT) on the color quality of guppies (Poecilia
reticulata). In this study,17α – MT was used by the feeding method for gravid females with dose
of 300, 400 and 500 mg/kg feed during 5-9 days prior to parturition.The 17α - MT can produce
94.9-98.8% male phenotype guppies, in which the 90-day-old XX male can be distinguished with

XY male throughout the body size and caudal fin shape. Further test of XX male by mating with
XX female resulting 96.5% of 90-day-old female guppy. The results also showed that the 17α - MT
can not improve the color quality of XY male guppies comparing with original XY male, while the
color quality of XX male guppies was similar with original XY male at the body and less than with
the original XY male at the dorsal and caudal fins.
Keywords: Guppy,17α – Methyltestosteron, color quality.

Người phản biện: ThS. Nguyễn Thanh Vũ
Ngày nhận bài: 25/11/2016
Ngày thông qua phản biện: 13/12/2016
Ngày duyệt đăng: 05/01/2017

Research and Development Center for High Technology Agriculture, HCMC
Faculty of Fisheries, Nong Lam University
*Email:
1
2

TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SƠNG CỬU LONG - SỐ 9 - THÁNG 02/2017

9



×