Tải bản đầy đủ (.pdf) (172 trang)

(Luận án tiến sĩ) nghiên cứu phương thức chuyển dịch phát ngôn có hàm ý từ tiếng anh sang tiếng việt ( trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm văn học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 172 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
------------*-----------

TRỊNH THỊ THƠM

NGHIÊN CỨU PHƢƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH
PHÁT NGƠN CĨ HÀM Ý TỪ TIẾNG ANH
SANG TIẾNG VIỆT
(Trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm văn học)
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội, 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
------------*-----------

TRỊNH THỊ THƠM

NGHIÊN CỨU PHƢƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH
PHÁT NGƠN CĨ HÀM Ý TỪ TIẾNG ANH
SANG TIẾNG VIỆT
(Trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm văn học)
Chuyên ngành: Lý luận ngôn ngữ
Mã số: 62 22 01 01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS ĐINH VĂN ĐỨC

PGS.TS. NGUYỄN HỒNG CỔN

Hà Nội, 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Kết quả nghiên
cứu nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các thơng tin trích dẫn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trịnh Thị Thơm


LỜI CẢM ƠN
Tác giả luận án xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tập thể lãnh đạo Trường
Đại học Hồng Đức đã luôn động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hồn thành luận án.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn, người đã
hướng dẫn, góp ý trao đổi về phương pháp luận, nội dung nghiên cứu và các hướng
dẫn khoa học khác, đảm bảo cho luận án hồn thành có chất lượng.
Xin chân thành cảm ơn tất cả các nhà khoa học đã góp ý và tạo điều kiện cho

việc hồn thiện luận án.
Xin chân thành cảm ơn các thầy giáo cô giáo trong khoa Ngôn ngữ học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQGHN đã tạo mọi điều kiện
cho việc học tập nghiên cứu và hoàn thành luận án.
Cuối cùng, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã ln động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong suốt
quá trình thực hiện luận án.
Hà Nội, tháng

năm 2015

Tác giả luận án


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PNTA:

Phát ngôn tiếng Anh

PNTV:

Phát ngôn tiếng Việt

VBN:

Văn bản nguồn

VBĐ:

Văn bản đích


TGĐ:

Tiền giả định


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Tiêu chí phân biệt hàm ý quy ước với hàm ý hội thoại ............................14
Bảng 2.1. Tổng hợp phương thức dịch hàm ý quy ước ............................................69
Bảng 3.1. Tổng hợp phương thức dịch hàm ý hội thoại .........................................118


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1
2. Tính thời sự của đề tài ........................................................................................2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................3
4. Mục đích, đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu .....................................3
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .........................................................5
6. Bố cục của luận án ..............................................................................................7
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT..8
1.1. Tình hình nghiên cứu về hàm ý và dịch hàm ý.................................................8
1.1.1. Hàm ý và các vấn đề liên quan ...................................................................8
1.1.2. Hàm ý trong một số cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước ............15
1.1.3. Cơ chế tạo lập và tiếp nhận hàm ý ...........................................................16
1.1.4. Hàm ý của phát ngôn tiếng Anh và tiếng Việt: những tương đồng và
khác biệt .............................................................................................................23
1.2. Cơ sở lý thuyết về dịch thuật và dịch hàm ý ..................................................24
1.2.1. Dịch thuật và vấn đề dịch hàm ý ..............................................................24
1.2.2. Tình hình nghiên cứu về dịch hàm ý ........................................................32

1.3. Những khó khăn trong dịch hàm ý .................................................................34
1.4. Định hướng nghiên cứu của luận án ...............................................................34
1.5. Tiểu kết ...........................................................................................................36
Chƣơng 2. PHƢƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH HÀM Ý QUY ƢỚC TỪ TIẾNG
ANH SANG TIẾNG VIỆT .....................................................................................38
2.1. Hàm ý quy ước................................................................................................38
2.2. Các loại hàm ý quy ước ..................................................................................40
2.2.1. Hàm ý quy ước được tạo lập thông qua các phương tiện từ ngữ .............41
2.2.2. Hàm ý quy ước được tạo lập thông qua các cấu trúc ngữ pháp chuyên biệt 42
2.3. Phương thức dịch hàm ý quy ước từ tiếng Anh sang tiếng Việt ....................43
2.3.1. Dịch bảo toàn hàm ý quy ước...................................................................44


2.3.2. Dịch cải biên hàm ý quy ước ....................................................................52
2.3.3. Các trường hợp dịch bỏ qua hàm ý quy ước ............................................62
2.4. Tổng hợp phương thức dịch hàm ý của các biểu thức ngôn ngữ ...................69
2.5. Tiểu kết ...........................................................................................................70
Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC CHUYỂN DỊCH HÀM Ý HỘI THOẠI TỪ
TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT .......................................................................73
3.1. Hàm ý hội thoại ..............................................................................................73
3.2. Các loại hàm ý hội thoại .................................................................................74
3.3. Tương đương về chức năng và nghĩa trong dịch thuật và dịch hàm ý ...........75
3.4. Dịch bảo tồn hàm ý hội thoại ........................................................................76
3.4.1. Dịch phát ngơn đảm bảo tương đương về hình thức ................................76
3.4.2. Dịch phát ngơn khơng đảm bảo tương đương về hình thức .....................89
3.5. Dịch bảo tồn có bổ sung hàm ý hội thoại .....................................................92
3.5.1. Dịch phát ngơn đảm bảo tương đương về hình thức ................................92
3.5.2. Dịch phát ngôn không đảm bảo tương đương về hình thức ...................100
3.6. Dịch cải biên hàm ý hội thoại .......................................................................101
3.6.1. Dịch phát ngôn đảm bảo tương đương về hình thức ..............................101

3.6.2. Dịch phát ngơn khơng đảm bảo tương đương về hình thức ...................111
3.7. Dịch bỏ qua hàm ý hội thoại .........................................................................112
3.7.1. Dịch phát ngôn đảm bảo tương đương hình thức ...................................112
3.7.2. Dịch phát ngơn khơng đảm bảo tương đương về hình thức ...................115
3.8. Tổng hợp phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý hội thoại từ tiếng
Anh sang tiếng Việt .............................................................................................118
3.9. Tiểu kết .........................................................................................................118
Chƣơng 4. ĐỀ XUẤT HỆ THỐNG DẠNG BÀI TẬP DỊCH PHÁT NGƠN CĨ
HÀM Ý TỪ TIẾNG ANH SANG TIẾNG VIỆT................................................121
4.1. Những trở ngại sinh viên thường gặp khi dịch phát ngơn có hàm ý ............122
4.2. Một số lỗi sinh viên thường mắc khi dịch phát ngơn có hàm ý....................123
4.2.1. Lỗi dịch cấu trúc trong chuyển dịch Anh – Việt ....................................123


4.2.2. Lỗi dịch ngữ nghĩa .................................................................................126
4.3. Đề xuất hệ thống dạng bài tập dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang
tiếng Việt..............................................................................................................129
4.3.1. Bài tập phân tích văn bản có hàm ý .......................................................129
4.3.2. Bài tập xác định và tường minh hóa hàm ý ............................................134
4.3.3. Bài tập dịch phát ngơn có hàm ý ............................................................136
4.3.4. Bài tập đánh giá bản dịch có hàm ý .......................................................141
4.4. Tiểu kết .........................................................................................................143
KẾT LUẬN ............................................................................................................146
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN
LUẬN ÁN ...............................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Theo Grice (1975), hàm ý (implicature) là những gì người nói muốn ngụ ý
(imply), gợi ý (suggest) hay ngầm nói (mean), khác với những điều được nói ra
(bằng câu chữ). Lyons đồng tình với quan điểm của Grice khi cho rằng: “rất nhiều
thông tin từ người nói được truyền đạt đến người nghe trong hội thoại hàng ngày là
được ngầm hiểu chứ không phải được khẳng định một cách rõ ràng” [51, 282]. Với
chức năng là truyền tải những thơng tin mà người nói không muốn diễn đạt một
cách tường minh bằng câu chữ và là một loại nghĩa rất phổ biến, ưa dùng trong
ngôn ngữ hội thoại, hàm ý xuất hiện từ khi ngôn ngữ được sử dụng làm công cụ
giao tiếp và đã trở thành khái niệm được nhiều nghiên cứu quan tâm trong nhiều
lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là trong triết học ngôn ngữ và ngôn ngữ học.
Hàm ý cũng đã được các nhà ngôn ngữ Việt Nam quan tâm đặc biệt. Tuy
cách diễn đạt có khác nhau và tên gọi cũng như nội hàm ít nhiều khác biệt nhưng
các tác giả đều thống nhất ở việc gắn khái niệm hàm ý với nội dung thông báo mới
của phát ngôn và tính chất khơng “hiển hiện” bằng ngơn từ của nó. Và “trường hợp
một người nói hàm ý gì đó khi sử dụng ngơn ngữ thì chúng ta nói rằng phát ngơn
của người đó chứa đựng hàm ý” [20].
Dịch thuật, về bản chất, là một sự chuyển dịch nghĩa từ văn bản nguồn
(VBN) sang văn bản đích (VBĐ) sao cho ở hai văn bản có sự tương đương nhất
định được tạo lập. Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam từng có nhiều tranh luận trên
diễn đàn dịch thuật về việc chuyển dịch văn bản từ ngữ nguồn là tiếng Anh sang
ngữ đích là tiếng Việt, trong đó việc chuyển dịch một loại nghĩa rất phổ biến là
hàm ý cũng đã bước đầu được quan tâm. Cao Xuân Hạo (2005) bàn đến dịch thuật
như một q trình gồm bốn cơng đoạn và coi hàm ý hội thoại là một trong ba nội
dung ý nghĩa chứa đựng trong nguyên bản mà không được truyền đạt bằng ngôn
từ nhưng người nghe hay người dịch vẫn phục hồi được và hiểu được ngay khi
tiếp xúc với văn bản.
1


Hàm ý hội thoại thường được tạo ra trên cơ sở vi phạm nguyên tắc cộng tác

và phương châm hội thoại. Hàm ý quy ước được biểu đạt bằng đơn vị ngôn ngữ cụ
thể. Tiếng Anh sử dụng liên từ, tiểu từ tình thái và những hình thái cú pháp như
thời, thức làm phương tiện biểu thị hàm ý quy ước. Trong tiếng Việt, hàm ý quy
ước được biểu thị bằng nhiều phương tiện ngơn ngữ như qn ngữ tình thái, liên từ
và phó từ chỉ thời, thể.
Phương tiện biểu thị hàm ý quy ước khác nhau giữa những ngôn ngữ khác
nhau (như trường hợp giữa tiếng Anh và tiếng Việt nêu trên) và những khác biệt
này là “cực kỳ khó chuyển dịch thỏa đáng từ ngơn ngữ này sang ngôn ngữ khác” và
“... hai phát ngôn đồng nghĩa, khác nhau về độ dài, về độ phức tạp ngữ pháp hoặc
về tính chun sâu hay tính khó hiểu của từ ngữ được dùng, rất có thể cho những
hàm ý khác nhau ...”, và lúc đó, “... khơng thể thay thế phát ngôn này bằng phát
ngôn kia trong cùng một ngữ cảnh mà không làm thay đổi những hàm ý gắn với
chúng” [51, 286]. Đặc điểm văn hóa, xã hội cũng có nhiều ảnh hưởng đến cách biểu
đạt hàm ý hội thoại. Khác biệt văn hóa là những thử thách đối với dịch giả khi
muốn chuyển dịch phát ngơn có hàm ý từ ngơn ngữ của nền văn hóa này sang ngơn
ngữ của nền văn hóa khác.
Dù hàm ý và dịch thuật đều đã dành được nhiều quan tâm của các nhà ngôn
ngữ học, việc chuyển dịch hàm ý từ ngữ nguồn sang ngữ đích vẫn chưa được xem
xét với tư cách là đối tượng nghiên cứu. Việc xác định phương thức dịch hàm ý từ
ngữ nguồn (trong nghiên cứu của chúng tơi là tiếng Anh) sang ngữ đích (tiếng Việt)
chưa được quan tâm một cách thỏa đáng. Vì những lý do này, chúng tôi thực hiện
đề tài: “Nghiên cứu phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang
tiếng Việt” (trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm văn học).
2. Tính thời sự của đề tài
Việc nghiên cứu ngôn ngữ trong sự hành chức của nó (language in use) là xu
hướng nghiên cứu ngơn ngữ đang phát triển hiện nay, trong đó có nghiên cứu ngữ
nghĩa - ngữ dụng của các đơn vị ngôn ngữ trong việc thực hiện chức năng giao tiếp
của nó trong mối quan hệ với ngữ nguồn và ngôn ngữ dịch. Thực hiện đề tài, người
2



nghiên cứu đã tìm hiểu về mối quan hệ giữa hàm ý với các khái niệm có liên quan,
tìm hiểu cơ chế tạo lập, phương thức biểu thị hàm ý ở ngữ nguồn căn cứ vào hàm ý
được biểu thị ở ngữ đích dựa trên quan niệm về tương đương động và xác định một
số phương thức mà dịch giả đã sử dụng khi dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh
sang tiếng Việt. Đây chính là những biểu hiện mang tính thời sự của đề tài.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài có những đóng góp sau:
3.1. Về mặt lý luận
- Điểm luận các vấn đề lý luận và làm rõ hơn khái niệm hàm ý, dịch hàm ý.
- Bổ sung cơ sở lý thuyết về phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý
từ tiếng Anh sang tiếng Việt, đồng thời khái quát hóa những nhân tố ảnh hưởng đến
việc lựa chọn phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý trong tác phẩm văn học
từ tiếng Anh sang tiếng Việt của một số dịch giả.
3.2. Về mặt thực tiễn
- Vận dụng kết quả nghiên cứu vào việc đề xuất xây dựng hệ thống bài tập
chuyển dịch phát ngơn có hàm ý cho sinh viên ngành Sư phạm tiếng Anh, Trường
Đại học Hồng Đức nhằm đáp ứng mục tiêu môn Thực hành dịch và chuẩn đầu ra,
đảm bảo yêu cầu giáo dục và đào tạo theo hướng phát huy năng lực của người học.
- Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
tiếng Anh, chuyên ngành dịch thuật và những người quan tâm đến đề tài trong việc
nghiên cứu ứng dụng lý luận và phương thức dịch hàm ý.
4. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm mục đích xác định phương thức mà các dịch giả đã sử
dụng để chuyển dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang tiếng Việt trên cứ liệu
ngôn ngữ hội thoại trong mối quan hệ với ngữ nguồn và ngữ đích, góp phần bổ sung
cơ sở lý thuyết về dịch thuật, đồng thời lấy đó làm cơ sở để đề xuất hệ thống dạng
bài tập dịch hàm ý nhằm nâng cao kỹ năng dịch cho sinh viên các chuyên ngành
tiếng Anh và dịch thuật.

3


4.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là phương thức chuyển dịch phát ngơn có hàm ý từ
tiếng Anh sang tiếng Việt, dựa trên việc so sánh, đối chiếu và phân tích phát ngơn
có hàm ý ở VBN và VBĐ. Các phát ngơn chủ yếu được trích dẫn từ một số tác
phẩm văn học đã được dịch sang tiếng Việt.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
Hàm ý xuất hiện với tần suất cao, trong nhiều loại hình văn bản. Trong
khn khổ của một luận án, không thể nghiên cứu hàm ý trên tất cả các loại văn bản
từ các nguồn ngữ liệu. Ở các chương cốt lõi của luận án - chương 2 và chương 3,
chúng tôi chỉ xem xét hàm ý trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại trong tác phẩm văn
học, do vậy nguồn ngữ liệu được khảo sát là các phát ngôn ở VBN - tiếng Anh và
VBĐ - tiếng Việt, nhằm xác định phương thức mà các dịch giả đã sử dụng để dịch
phát ngơn có hàm ý. Nghiên cứu ở hai chương này sẽ chỉ đề cập đến phương thức,
thao tác hay sản phẩm dịch thuật liên quan đến dịch một chiều từ tiếng Anh sang
tiếng Việt.
4.4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nghiên cứu đã đề ra, chúng tôi xác định những
nhiệm vụ cụ thể và yêu cầu cần đạt, gồm:
1) Điểm luận một cách có hệ thống tình hình nghiên cứu, lý thuyết về hàm ý,
dịch thuật và dịch hàm ý.
2) Khảo sát phương thức dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang tiếng Việt.
3) Xác định các nhân tố tác động đến việc lựa chọn phương thức dịch phát
ngôn có hàm ý.
4) Đề xuất hệ thống dạng bài tập rèn luyện và nâng cao kỹ năng dịch hàm ý.
4.5. Câu hỏi nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án tập trung nghiên cứu và
trả lời bốn câu hỏi sau đây:

1) Hàm ý được tạo lập, nhận diện như thế nào trên cứ liệu ngôn ngữ hội thoại
trong tiếng Anh và tiếng Việt?
4


2) Các phát ngơn có hàm ý đã được dịch giả chuyển dịch từ tiếng Anh sang
tiếng Việt theo những phương thức nào?
3) Nhân tố nào ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức chuyển dịch phát
ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang tiếng Việt của các dịch giả?
4) Ứng dụng lý thuyết về dịch hàm ý và phương thức dịch phát ngơn có hàm
ý vào xây dựng hệ thống dạng bài tập luyện kỹ năng dịch như thế nào?
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tƣ liệu
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận án, ba phương pháp chính sau đây được sử dụng:
+ Phân tích mơ tả: Để làm rõ những tương đồng, dị biệt về cơ sở tạo ra hàm
ý cũng như xác định hàm ý của các phát ngôn khi được biểu đạt ở VBN và sau khi
được chuyển dịch sang VBĐ, chúng tôi phân tích, mơ tả phát ngơn dựa trên phân
tích tương đương về cấu trúc bề mặt (hình thức) và cấu trúc sâu (nội dung/ nghĩa)
của phát ngôn ở VBN và VBĐ.
+ Phân tích đối chiếu: Chúng tơi thực hiện so sánh đối chiếu phát ngôn ở
ngôn ngữ nguồn và ngôn ngữ đích, xác định mức độ tương đương của hàm ý trong
các phát ngôn tiếng Anh (PNTA) và phát ngôn tiếng Việt (PNTV). Phép so sánh đối
chiếu giúp xác định các phương thức mà các dịch giả đã sử dụng khi chuyển dịch
phát ngơn có hàm ý.
+ Phân tích tương đương dịch thuật: Mức độ thay đổi về hình thức và nội
dung là cơ sở để phân tích tương đương dịch thuật. Phân tích giúp xác định tính
tương đương về hình thức phát ngôn và tương đương về nghĩa. Chúng tôi xác định
phát ngơn tương đương về hình thức căn cứ trên dạng thức của phát ngôn và tương
đương về nghĩa là hàm ý. Chúng tôi tiên liệu là trong các cặp PNTA và PNTV có
những cặp tương đương cả hình thức và nghĩa, có những cặp khơng tương đương

hình thức nhưng hàm ý giống nhau, một số cặp tương đương hình thức nhưng hàm
ý lại khác nhau và sẽ có những cặp phát ngơn khác nhau ở cả hình thức và nội dung.
Những thao tác trên đều nhắm đến mục đích tìm ra phương thức mà dịch giả sử
dụng khi dịch phát ngơn có hàm ý.
5


- Các thủ pháp nghiên cứu
+ Thống kê: Chúng tôi lựa chọn, thống kê và xác định hàm ý của PNTV và
PNTA, nhóm các phát ngơn này theo mục đích phát ngôn, gồm: trần thuật, hỏi, cầu
khiến, cảm thán và theo mức độ tương đương (hình thức và nội dung).
+ Phân tích ngữ cảnh: Hàm ý phụ thuộc vào ngữ cảnh nên chúng tôi dựa vào
ngữ cảnh của phát ngôn ở VBN và VBĐ để xác định hàm ý của chúng. Phân tích
ngữ cảnh là cơ sở để xác định hàm ý phù hợp nhất của phát ngôn.
5.2. Nguồn tƣ liệu nghiên cứu
Để thu thập dữ liệu phục vụ mục đích so sánh, đối chiếu nhằm tìm ra phương
thức mà các dịch giả đã dùng khi chuyển dịch phát ngôn có hàm ý từ tiếng Anh
sang tiếng Việt, chúng tơi khảo sát các đơn vị ngơn ngữ có chứa hàm ý quy ước và
phát ngơn có hàm ý hội thoại trong 16 truyện ngắn thuộc tuyển tập Truyện ngắn
chọn lọc của Hemingway, cùng 05 tác phẩm văn học khác, gồm: tiểu thuyết Giã từ
vũ khí và Chng nguyện hồn ai (Hemingway), Phía bên kia nửa đêm (Sydney
Sheldon), Đồi gió hú (Emily Bronte) và Annabella – người phụ nữ tuyệt vời
(Danielle Steel).
Do vấn đề nghiên cứu là hàm ý - loại nghĩa được cho là xuất hiện từ buổi sơ
khai khi con người sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và rất phổ biến trong hội thoại
hàng ngày, chúng tôi đã thu thập nguồn ngữ liệu là các phát ngôn trong tác phẩm
văn học ở những thời điểm khác nhau trải dài từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 21,
trong những thể loại tác phẩm văn học khác nhau, với văn phong của nhiều tác giả
để có nguồn tư liệu phong phú, đa dạng. Cũng tương tự như vậy, đối với bản dịch
chúng tôi cũng lựa chọn những bản dịch của nhiều dịch giả khác nhau, với nhiều

mục đích dịch khác nhau để có cái nhìn tổng thể về những phương thức được sử
dụng trong dịch thuật nói chung, dịch phát ngơn có hàm ý nói riêng . Tổng số tài
liệu được lựa chọn để khảo sát là 5.642 trang, trong đó có 2.701 trang tiếng Anh và
2.941 trang tiếng Việt. Qua khảo sát, chúng tôi đã chọn ra được 1018 lượt biểu thức
ngôn ngữ mang hàm ý quy ước và 451 phát ngơn có chứa hàm ý hội thoại để đưa
vào quá trình nghiên cứu.
6


6. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận án gồm bốn chương:
Chương 1 trình bày tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết về
hàm ý và dịch thuật, dịch hàm ý. Các nhà ngơn ngữ có chung quan điểm rằng hàm ý
là loại nghĩa thêm vào sau câu chữ của phát ngôn. Vì vậy, hàm ý rất khó được dịch
một cách thỏa đáng từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Dịch thuật, với vai trị là
một hoạt động giao tiếp, có nhiệm vụ truyền tải hàm ý một cách tương đương từ
VBN sang VBĐ. Một số kết quả nghiên cứu về hàm ý và dịch hàm ý của tác giả
trên thế giới và trong nước cũng được đề cập đến trong chương này. Với việc thống
kê, mơ tả, phân tích phát ngôn ở VBN và VBĐ, chúng tôi làm rõ những tương đồng
và khác biệt liên quan đến hàm ý trong tiếng Anh và tiếng Việt.
Chương 2, 3 nghiên cứu phương thức dịch giả sử dụng để dịch phát ngơn có
hàm ý từ tiếng Anh sang tiếng Việt. Phân tích đối chiếu phát ngôn, chúng tôi đã
bước đầu khảo sát một số phương thức dịch phát ngơn có hàm ý từ tiếng Anh sang
tiếng Việt, gồm dịch bảo toàn, dịch cải biên và dịch bỏ qua hàm ý.
Ở chương 4, chúng tôi đề xuất hệ thống bài tập dịch hàm ý nhằm rèn luyện
và nâng cao kỹ năng dịch hàm ý cho người học, góp phần nâng cao chất lượng đào
tạo ngành tiếng Anh tại Trường Đại học Hồng Đức.

7



Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Tình hình nghiên cứu về hàm ý và dịch hàm ý
1.1.1. Hàm ý và các vấn đề liên quan
Grice là người đầu tiên đưa ra khái niệm hàm ý và giới thiệu nguyên tắc cộng
tác hội thoại với dạng tổng quát như sau: “Hãy làm cho phần đóng góp của anh/chị
đúng như nó được địi hỏi ở giai đoạn mà nó xuất hiện, phù hợp với đích hay phương
hướng của cuộc hội thoại mà anh/chị đã chấp nhận tham gia vào” [105]. Nguyên tắc
này bao gồm bốn phạm trù và mỗi phạm trù ấy lại tương ứng với một “tiểu nguyên
tắc” hay còn gọi là “phương châm hội thoại” (maxims), đó là: phương châm về
lượng, phương châm về chất, phương châm quan hệ và phương châm cách thức.
Grice cho rằng nguyên tắc và phương châm cộng tác của ông có thể giúp “nhận biết
và lý giải những hàm ý” của phát ngôn. Theo ông, trong giao tiếp người ta phải tuân
thủ nguyên tắc cộng tác và các phương châm hội thoại nhưng việc vi phạm chúng
cũng rất phổ biến. Hàm ý hội thoại được tạo ra nhờ những vi phạm đó. Ví dụ: (A và B
đang nói chuyện với nhau về một người bạn khác, tên C, làm việc tại một ngân hàng)
A. How is C getting on in his job?
B. Oh, quite well, I think; he likes his colleagues, and he hasn‟t been to
prison yet.
Nghe câu trả lời, A có thể hiểu được những gì B muốn ngụ ý, gợi ý hay
muốn nói khi nói rằng Hắn chưa phải vào tù (he hasn‟t been to prison yet). Câu trả
lời có thể hàm ý C là loại người không chịu nổi sự cám dỗ mà công việc của anh ta
tạo ra, hay Đồng nghiệp của C là những người xấu tính và bất trung, v.v.
Một số nhà ngơn ngữ khác đưa ra các nguyên tắc liên quan đến giao tiếp và hội
thoại như nguyên tắc lịch sự của Lakoff (1973) hay của Leech (1983). Đây là nguyên
tắc gần với kết cấu nguyên tắc và phương châm hội thoại của Grice. Phép lịch sự là hệ
thống những phương thức mà người nói đưa vào hoạt động nhằm điều hịa và gia tăng
giá trị của đối tác. Phép lịch sự có hiệu lực giải thích phát ngơn, cách thức nói năng và
giải thích cái mà ngữ dụng học thường đề cập tới: hàm ngôn, hành vi gián tiếp.

8


Orecchioni (1986), khi bàn về tính quan yếu, nhận định rằng một phát ngơn
có thể có tính quan yếu về ngữ dụng, lập luận, hứng thú hay đề tài, trong đó tính
quan yếu về đề tài là phương diện gần gũi nhất với phương châm quan yếu (maxim
of relevance) của Grice.
Sperber và Wilson (1995) đã phân tích và tìm ra những hạn chế trong lý
thuyết của Grice và bổ sung vào “lỗ hổng” đấy bằng quy tắc quan yếu – được cho là
bao quát cả phương châm quan hệ của Grice. Hai tác giả này chia hoạt động thuyết
giải các phát ngôn của chúng ta thành hai giai đoạn: Giai đoạn giải mã phát ngơn để
rút ra hình thức lơgic của phát ngơn đó và hình thức lơgic này sẽ đảm nhận vai trò
làm “đầu vào” cho giai đoạn kế tiếp – giai đoạn suy ý, giai đoạn trung tâm của hoạt
động thuyết giải. Họ cũng nhấn mạnh là bất kể phát ngơn nào – dù nó có vi phạm
các phương châm hội thoại hay không, đều phải trải qua giai đoạn suy ý từ nghĩa
theo câu chữ để tìm ra tính quan yếu của chúng và khẳng định rằng mỗi người
chúng ta khi giao tiếp, chúng ta đều có ý định tìm cách lơi kéo sự chú ý của người
nghe và ngầm cho rằng điều chúng ta nói sẽ đủ quan yếu xứng đáng với sự chú ý đó
của họ. Theo hai tác giả thì trong trường hợp đó, nhiệm vụ của người nghe là phải
suy cho ra cái ý định của người nói và đó là lý do để nói rằng thuyết giải một phát
ngơn là suy ý để tìm ra ý nghĩa thỏa đáng mà người nói muốn truyền đạt. Ở giai
đoạn suy ý trung tâm, việc làm giàu thêm theo ngữ cảnh hình thức lơgic được mã
hóa để từ đó xây dựng được giả thuyết về ý định thơng tin của người nói là rất quan
trọng. Và hai ông đã kết luận rằng những biểu diễn ngữ nghĩa được mã hóa bằng
ngơn ngữ đều là những cấu trúc tinh thần trừu tượng cần được làm giàu bằng suy ý
để có thể có được một giá trị nào đó.
Đặc biệt, Davis (1998/2014) đã có những cơng trình nghiên cứu công phu về
hàm ý và ông đã xác định vị trí quan trọng của hàm ý trong ngữ dụng học. Theo
ông, “Hàm ý là điều được ám chỉ, ngụ ý hay gợi ý khác biệt với điều được nói. Hàm
ý có thể là một phần nghĩa của câu hay phụ thuộc vào ngữ cảnh giao tiếp, và có thể

theo quy ước hay trái với quy ước. Hàm ý hội thoại đã trở thành một trong những
chủ đề chính của ngữ dụng học” [96]
9


Như vậy, cho dù các nhà ngơn ngữ có những quan điểm khác nhau về các
nguyên tắc giao tiếp và hội thoại, có thể ở phạm vi rộng hẹp khác nhau nhưng việc
tuân thủ các nguyên tắc này cũng như việc vi phạm chúng cũng vẫn là cơ sở để xem
xét một loại ý nghĩa rất phổ biến trong hội thoại hàng ngày, đó là hàm ý.
1.1.1.1. Thuật ngữ hàm ý
Thuật ngữ implicate được Grice (1989, 1975) sử dụng với chức năng là một
động từ chỉ hành động biểu đạt ngầm một điều gì đó khác với điều được nói ra một
cách hiển ngơn trong một hồn cảnh giao tiếp nhất định nào đó (được gọi là điều
được hàm ý). Thuật ngữ implicature là một danh từ, biểu thị điều được hàm ý trong
phát ngôn. Back K. (2006) đã bàn về ý nghĩa của thuật ngữ này như sau: “Dù sao,
Grice đã thận trọng khi sử dụng động từ implicate (hàm ý) chứ khơng phải là imply
(nói bóng gió) để chỉ điều mà người nói đã làm, và ơng đã đặt ra thuật ngữ
implicature (hàm ý) để sử dụng thay cho việc ngụ ý cái mà người nói hàm ý” [77]
Hầu hết các nhà nghiên cứu ngôn ngữ trên thế giới khi nghiên cứu về thuyết
hàm ý hội thoại của Grice cũng như vận dụng nó vào việc tìm hiểu một số vấn đề về
ngôn ngữ cụ thể đã sử dụng thuật ngữ implicate như một động từ với nghĩa là hàm
(ý) hoặc hàm (cái) ý và implicature như một danh từ với nghĩa là hàm ý một cách
thống nhất như cách dùng của Grice.
Thuật ngữ implicature được dịch sang tiếng Việt theo nhiều cách khác nhau:
hàm ngôn – một loại nghĩa hàm ẩn trong đối lập với tiền giả định (Đỗ Hữu Châu,
2005); hàm nghĩa và ẩn ý (Cao Xuân Hạo, 1998); hàm ý (Nguyễn Đức Dân, 1998;
Hoàng Phê, 1989).
Đặc biệt, một số nhà nghiên cứu ngôn ngữ học dùng thuật ngữ hàm ý để chỉ cả
implicate (hàm (cái) ý – động từ) và implicature (hàm ý – danh từ). Chúng ta có thể
thấy rõ cách dùng tương tự như vậy của Hồng Phê khi ơng viết: “(…) khi đó, người

nói nói P nhưng hàm ý (implicate) Q, nếu Q là cần thiết để cho những phương châm
bị vi phạm trở thành khơng cịn bị vi phạm nữa” [55, 102] và dẫn chứng thêm rằng
“Grice nêu khái niệm conversational implicature (tạm dịch là hàm ý hội thoại) để chỉ
các hiện tượng thường thấy sau đây trong sử dụng ngôn ngữ thường ngày để giao
10


tiếp: khi nói điều này, thật ra, chúng ta muốn nói điều khác” [55, 100] hay “ …
thường có hàm ý (implicature) khi người nói có ý thức và nhằm một mục đích nhất
định, khơng tn theo đầy đủ các phương châm nói trên” [55, 101].
Để thống nhất cách dùng thuật ngữ, chúng tơi sử dụng cách dùng của Hồng
Phê đối với thuật ngữ hàm ý với hai nghĩa: chỉ hành động tạo ra hàm ý, hay hàm
(cái) ý (tương đương với implicate trong tiếng Anh) và chỉ cái được hàm ý (tương
đương với implicature trong tiếng Anh) trong toàn bộ nghiên cứu này.
1.1.1.2. Khái niệm hàm ý
Hàm ý là một trong những phạm trù phổ biến trong ngôn ngữ. Theo Grice
(1975), hàm ý (implicature) là những gì người nói muốn ngụ ý, gợi ý hay ngầm nói,
khác với những gì người ấy nói ra qua câu chữ. Sau này, nhiều nhà ngôn ngữ học
khác như Bouton (1988, 1990, 1992), Back (1994), Blackwell (2002) cũng đã sử
dụng, đồng thời củng cố, bổ sung hoặc mở rộng khái niệm này. Hàm ý là một trong
những vấn đề trọng tâm của ngữ dụng học. Horn (2004) đã tổng kết rằng: “Nói về
hàm ý, những gì một phát ngơn hàm ý thường đồng nhất với những gì người nói ám
chỉ hơn là cái câu đó ám chỉ. Chính vì vậy mà một số tác giả giới hạn thuật ngữ
“hàm ý” là hàm ý của người nói (speaker implicature)” [129, 3-4]. George Yule
(1997) cũng cho rằng hàm ý là những gì được truyền đạt ngồi phát ngơn cịn
Ducrot (1972) nhận định hiển ngơn là cái người ta nói ra, cịn hàm ý là cái người ta
muốn mà khơng nói ra. Như vậy, hàm ý là những gì người nghe có thể phân tích
suy luận và tự hiểu ra từ phát ngôn.
Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về
hàm ý. Đỗ Hữu Châu (2003/2005) quan niệm hàm ý là những hiểu biết hàm ẩn có

thể suy ra từ ý nghĩa tường minh. Nếu khơng có ý nghĩa tường minh và tiền giả định
của nó, khơng thể suy ra được hàm ý thích hợp. Nguyễn Thiện Giáp (2000) nhận
xét rằng hàm ý chính là điều người nghe phải tự mình suy ra qua phát ngơn, để hiểu
đúng và đầy đủ ý nghĩa của phát ngơn đó. Đỗ Thị Kim Liên định nghĩa hàm ý là “ý
nghĩa có được nhờ suy ý trong ngữ cảnh cụ thể nhằm đưa lại một sự nhận thức mới
và đó là nội dung đích thực mà người nói muốn hướng đến người nghe” [50].
11


Chung quy lại, hàm ý là ý nghĩa ngoài câu chữ, muốn suy ra hàm ý phải dựa
vào ý nghĩa tường minh, các loại ý nghĩa hàm ẩn khác như tiền giả định, thao tác
suy ý, ngữ cảnh, ngôn cảnh và các quy tắc điều khiển hành vi ngôn ngữ, lập luận.
1.1.1.3. Các loại hàm ý
Là người đầu tiên giới thiệu lý thuyế t về hàm ý , Grice đã chia hàm ý thành
hàm ý quy ước và hàm ý hội thoại.
 Hàm ý quy ước
Hàm ý quy ước là loại hàm ý nảy sinh do việc sử dụng những biểu thức nhất
định nào đó trong phát ngơn, do đó hàm ý quy ước đươ ̣c biể u hiê ̣n bằ ng các từ ngữ
nhấ t đinh.
̣ Grice (1975) đã đưa ra ví du ̣:
He is an Englishman; he is, therefore, brave.
Ơng phân tích rằng nếu một người nói He is an Englishman; he is, therefore,
brave thì người đó đã thông qua nghĩa của các từ được dùng mà tự gán vào mình
một trường hợp thơng tin rằng việc anh ta kiên cường (he is brave) chính là kết quả
tất yếu của việc anh ta là người Anh (He is an Englishman). Tuy nhiên, khi nói rằng
anh ta là người Anh và rằng anh ta kiên cường thì người nói khơng muốn nói ra
rằng mình đã nói rằng kết quả tất yếu của việc anh ta là người Anh là anh ta kiên
cường, do vậy, người nói chắc chắn đã biểu hiện ra (indicated), và do vậy, đã hàm ý
(implicated) điều đó. Như vậy, từ therefore được dùng trong ví dụ này mang hàm ý
quy ước về một mối quan hệ nhân – quả tất yếu đối với hai nội dung mệnh đề mà nó

kết nối.
 Hàm ý hội thoại
Theo Grice (1975), “Hàm ý hội thoại là khi nói một điều này, thật ra chúng
ta muốn nói một điều khác” và “… hàm ý là nói những lời nói nào đó có phần
khơng đầy đủ, khơng bình thường mà ngun nhân là thiếu đi hoặc còn thiếu một
nội dung nào đó, chính cái nội dung này là hàm ý mà người nghe phải suy luận mà
đoán ra”. Hàm ý hội thoại được tạo ra do có sự vi phạm nguyên tắc cộng tác và
phương châm hội thoại, phụ thuộc vào ngữ cảnh mà nó được sinh ra.
12


1.1.1.4. Hàm ý trong mối quan hệ với các loại thông tin ngầm ẩn
Đa số các nhà nghiên cứu đều nhất trí với quan điểm là trong sự đối lập với
cái được nói ra một cách hiển ngơn thì hàm ngôn – tức là thông tin hàm ẩn, gồm
bốn loại: dẫn ý, tiền giả định, hàm ý quy ước và hàm ý hội thoại.
Với chiến lược giao tiếp “nói mà làm như khơng nói”, người phát ngơn có
thể vận dụng cách biểu đạt hàm ý thông qua chuyển nghĩa như ẩn dụ hay thông qua
việc biểu đạt các loại nghĩa hàm ẩn khác như tiền giả định (TGĐ). Ẩn dụ được coi
là một trong những công cụ dùng để diễn đạt hàm ý vì trong chuyển nghĩa, người
nói thường khơng muốn truyền đạt bằng câu chữ những gì mà họ muốn nói ra mà
họ muốn người nghe phải nhận ra điều đó. Ví dụ phát ngơn “He is a snake” là
trường hợp ẩn dụ - dùng tên gọi của sự vật/đối tượng này để gọi tên sự vật/đối
tượng khác. Ở phát ngôn này, đối tượng he được dùng để ngầm so sánh với a
snake – một con vật có đặc tính rất riêng: di chuyển bằng cách trườn, bị và có
nọc (có thể là nọc độc). Khi đưa ra phát ngơn này, người nói khơng trực tiếp đưa
ra thơng tin về anh ấy như anh ấy nguy hiểm, anh ấy là kẻ giỏi luồn lách mà
người tiếp nhận phát ngôn phải tự suy luận và tìm ra những hàm ý này. Tiền giả
định cũng là một loại thông tin ngầm ẩn với 6 loại, gồm: TGĐ tồn tại, TGĐ từ
vựng, TGĐ cấu trúc, TGĐ thực hữu, TGĐ phi thực và TGĐ phản thực. TGĐ có
vai trị nhất định như làm công cụ để biểu đạt hàm ý của phát ngôn một cách hữu

hiệu. Ví dụ phát ngơn “Where did you go last night?” tiền giả định rằng hôm qua
anh đã đi đâu đó và có thể có hàm ý là một lời trách móc, rằng sao anh khơng rủ
tơi đi cùng với? hoặc sao anh khơng nói cho tơi biết?
Bằng những ví dụ cụ thể, Nguyễn Văn Hiệp (2012) đã phân biệt các loại
nghĩa hàm ẩn một cách rõ ràng như sau:
- Dẫn ý: Một câu A được coi là dẫn ý một câu B khi A đúng thì B tất yếu
đúng. Ví dụ: Câu “Bill giết chết tổng thống” (A) sẽ dẫn ý “Tổng thống chết” (B) vì
nếu “Bill giết chết tổng thống” là đúng thì tất yếu “Tổng thống chết” cũng đúng.
Tiếng Anh khơng thể hình dung ra một thế giới khả hữu nào đó, trong đó câu A
đúng mà câu B lại sai.
13


Như vậy ta nói: câu A là dẫn ý của câu B.
- Tiền giả định: Theo nghĩa hẹp, TGĐ của một câu là điều kiện cần thiết để
câu đó có thể được đánh giá là đúng hay sai. Ví dụ: câu “Con anh Nam là học sinh
giỏi nhất lớp” sẽ có các TGĐ sau: (1) Có một người tên là Nam; (2) Anh Nam có
con; (3) Con anh Nam là học sinh. Câu nói “Con anh Nam là học sinh giỏi nhất lớp”
sẽ không thể được đánh giá là đúng hay sai nếu thiếu một trong ba TGĐ nêu trên.
- Hàm ý quy ước: Là loại hàm ý nảy sinh do việc sử dụng những biểu thức
nào đó trong phát ngơn. Liên từ và trong ví dụ sau đây có thể làm nảy sinh hàm ý về
quan hệ nhân quả giữa hai vế của câu ghép: “Nam đến muộn (A) và nhỡ tàu (B)”.
- Hàm ý hội thoại: là loại hàm ý phụ thuộc vào ngữ cảnh, nảy sinh trên cơ sở
người nói cố tình vi phạm phương châm hội thoại, vốn là những phương châm được
giả định là nền tảng cho hội thoại có thể diễn tiến. Ví dụ phát ngơn “Ở đây ngột
q” có thể có những hàm ý hội thoại khác nhau tùy theo ngữ cảnh giao tiếp cụ thể,
nó có thể là: (1) Lời đề nghị mở cửa sổ ra (khi được nói trong một căn phịng kín);
(2) Lời đề nghị kín đáo rằng nên đi chơi ở đâu đó ngồi trời (khi là lời của một cơ
gái nói với chàng trai).
Từ những mơ tả tương đối rạch ròi về bốn loại nghĩa hàm ẩn trên đây, Nguyễn

Văn Hiệp đã đề xuất ba tiêu chí phân biệt chúng với nhau, gồm: Tiêu chí về tính hàm
chân trị (dẫn ý mang tính hàm chân trị theo cái nghĩa nó phụ thuộc vào chân trị của câu
đi trước); Tiêu chí về tính có thể khử bỏ (Dẫn ý và TGĐ là loại thơng tin khơng thể khử
bỏ cịn hàm ý quy ước và hàm ý hội thoại mang tính có thể khử bỏ); Tiêu chí về sự phụ
thuộc vào ngữ cảnh (hàm ý hội thoại phụ thuộc vào ngữ cảnh cịn các loại nghĩa hàm
ẩn cịn lại khơng phụ thuộc vào ngữ cảnh). Những phân tích, lập luận trên đây là cơ sở
để chúng tôi xác định các tiêu chí nhận diện hàm ý như sau:
1) Phân biệt hàm ý quy ước và hàm ý hội thoại
Bảng 1.1. Tiêu chí phân biệt hàm ý quy ước với hàm ý hội thoại
Tính hàm
chân trị

Tính có thể bị
khử bỏ

Tính phụ thuộc
vào ngữ cảnh

Vi phạm quy
tắc giao tiếp

Hàm ý quy ước

-

+

-

-


Hàm ý hội thoại

-

+

+

+

14


2) Các tiêu chí nhận diện hàm ý hội thoại
- Có thể bị khử bỏ.
- Phụ thuộc vào ngữ cảnh.
- Được tạo ra do sự vi phạm quy tắc giao tiếp và phương châm hội thoại.
1.1.2. Hàm ý trong một số cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước
Những lý thuyết về hội thoại và hàm ý, đặc biệt là lý thuyết của Grice, đã trở
thành lý thuyết nền cho các nghiên cứu về hàm ý trên nhiều thể loại ngôn ngữ hội
thoại sau này như nghiên cứu về hàm ý trong hội thoại của Cooper (1977) hay hàm
ý trong phát ngơn tại các cuộc nói chuyện trên truyền hình (talk show) của Ary
Azhari (2011), hay Steven Reiber (1997) đã nhóm các từ có chứa hàm ý quy ước
thành các “kết tử” (connectives) và ông cho rằng các kết tử này khi được sử dụng
trong phát ngơn đều có hàm ý nhất định, ví dụ “John‟s door is open, so he is in his
office” (Cửa phòng John đang mở, như vậy thì, anh ta đang ở trong phịng). „Như
vậy thì‟ mang hàm ý của mối quan hệ nhân – quả vì theo tác giả này, việc John đang
ở trong phịng là hậu quả của việc cửa phòng của anh ta mở. Một ví dụ khác được
ơng phân tích là “Barbara‟s research is impressive; moreover, she is a gifted

teacher” (Nghiên cứu của cô Barbara rất ấn tượng; hơn nữa, cô ấy là một giáo viên
có tài). Hàm ý của từ „moreover‟ là chỉ sự thêm vào, rằng „cái tài‟ của cô Barbara
chỉ được coi là yếu tố bổ sung cần xem xét chứ khơng phải là yếu tố chính.Tác giả
này đã đưa các trạng từ „still‟ và „even‟ vào nhóm kết tử chứa hàm ý.
Ở Việt Nam, nghĩa hàm ẩn nói chung và hàm ý cũng đã được rất nhiều nhà
ngữ dụng học quan tâm. Trần Ngọc Thêm coi hàm ý là “bộ phận của cái mới không
được thể hiện tường minh trong sản phẩm ngôn ngữ” [60, 40]. Với Cao Xuân Hạo
thì hàm ý là “những ý nghĩa được chuyển đạt không trực tiếp thông qua nguyên
văn, bằng cách dùng nội dung nghĩa của nguyên văn để làm cho người nghe từ đó
suy ra một ý khác” [22, 62]. Điều này cũng có nghĩa là một câu nói có hàm ý khi mà
nội dung thông báo lớn hơn hoặc không trùng với ý nghĩa thể hiện qua câu chữ
(nghĩa tường minh). Đỗ Hữu Châu nhận định rằng rõ ràng, trong các câu nói hàng
ngày chúng ta đã “truyền báo nhiều hơn là điều chúng ta nói ra” [5] và ơng đã trình
15


bày lý thuyết về nghĩa hàm ẩn, loại nghĩa mà theo ông, được tạo ra với sự vi phạm
các quy tắc hội thoại, quy tắc chiếu vật – chỉ xuất, quy tắc lịch sự, v.v. Ông đã phân
biệt nghĩa hàm ẩn tự nhiên với nghĩa hàm ẩn không tự nhiên và phân loại nghĩa hàm
ẩn thành tiền giả định, sự kéo theo, dẫn ý và hàm ý. Với hàm ý, ông chia thành 2
loại: hàm ý quy ước và hàm ý hội thoại [7]. Hoàng Phê (1982) xem xét tiền giả định
và hàm ý tiềm tàng trong ngữ nghĩa của từ và sau đó lấy làm cơ sở cho việc dẫn lời
của Feuer Bach: “Viết một cách thơng minh có nghĩa là tiền giả định người đọc
cũng thông minh, là khơng nói hết, là để người đọc tự nói với mình những quan hệ,
những điều kiện, những giới hạn – chỉ với những điều kiện, những giới hạn này thì
một câu nói mới có giá trị, có ý nghĩa” [dẫn theo 55, 96].
Dựa trên lý luận về hàm ý, một số cơng trình nghiên cứu của các tác giả Việt
Nam đã khảo sát hàm ý và xác định cơ chế tạo lập, nhận diện và lý giải hàm ý trong
phát ngôn như Huỳnh Công Hiển (2000), Từ Thu Mai (2000), Đặng Thị Hảo Tâm
(2003), Lê Anh Xuân (2005), Nguyễn Thị Tố Ninh (2014). Theo các tác giả này, để

tạo lập, nhận diện hay lý giải hàm ý, người nói/nghe phải vận dụng những ngữ năng
như ngữ năng tu từ – dụng học, ngữ năng bách khoa, dựa vào ngữ cảnh, v.v.
Khảo sát phát ngơn có hàm ý trong tác phẩm văn học, Nguyễn Thị Bé (2008)
xác định 9 nhóm nghĩa hàm ngôn với 8 phương thức tạo hàm ý, gồm: phương thức
chơi chữ, phương thức kết hợp tạo sự bất thường về nghĩa, phương thức vi phạm
các nguyên tắc chiếu vật và chỉ xuất, phương thức vi phạm các quy tắc hội thoại,
phương thức vi phạm quy tắc lập luận và phương thức suy luận. Trong một cơng
trình nghiên cứu của mình [64], tác giả luận án đã tiến hành khảo sát các phát ngơn
có hàm ý trong truyện cười của Hills L.A. và đưa ra nhận định ban đầu rằng việc vi
phạm các phương châm hội thoại chiếm tỷ lệ cao trong phát ngơn có hàm ý, trong
đó vi phạm phương châm về lượng là phổ biến nhất.
1.1.3. Cơ chế tạo lập và tiếp nhận hàm ý
Trong lý thuyết của mình, Grice (1981, 1989) cho rằng có tồn tại một cơ chế
để tính tốn các hàm ý và Thomas (1995) bổ sung thêm rằng cái cơ chế này không
phải lúc nào cũng có thể minh định được. Nhiều nhà ngôn ngữ học hậu Grice đã đề
16


×