Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

(Luận án tiến sĩ) văn học đàng trong thế kỷ XVII – XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 156 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------------------

TRẦN THANH THỦY

VĂN HỌC ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVII - XVIII
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC DÂN TỘC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
_______________________

TRẦN THANH THỦY

VĂN HỌC ĐÀNG TRONG THẾ KỶ XVII – XVIII
TRONG TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN
CỦA VĂN HỌC DÂN TỘC
Chuyên ngành:
Mã số:

Văn học Việt Nam
62 22 34 01


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS TRẦN NGỌC VƢƠNG
XÁC NHẬN NCS ĐÃ CHỈNH SỬA LUẬN ÁN
THEO QUYẾT NGHỊ CỦA HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ LUẬN ÁN

GS.TS Trần Ngọc Vƣơng

GS.TS Trần Nho Thìn
Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận án là kết quả
nghiên cứu của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung này.
Hà Nội, ngày 22 tháng 03 năm 2017
NGHIÊN CỨU SINH

Trần Thanh Thủy


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, cho tôi được gửi lời cảm ơn chân thành đến GS. TS Trần Ngọc Vương –
người thầy đã tận tình chỉ dạy, định hướng, góp ý cho tôi trong suốt thời gian học tập, làm
việc, giúp tơi hồn thành luận án trong điều kiện tốt nhất có thể.
Xin cảm ơn gia đình, người thân, các thầy cô, bạn bè đã động viên, ủng hộ và giúp
đỡ tơi trong q trình thực hiện đề tài.

Xin cảm ơn Khoa Văn học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho tơi hồn thành luận án.
Xin cảm ơn Thư viện Thông tin Khoa học xã hội (Viện Thông tin Khoa học xã hội
- Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian
thực hiện nghiên cứu.
Xin gửi lời cảm ơn tới thành viên trong các Hội đồng đánh giá luận án bởi những
góp ý của Hội đồng sẽ giúp tơi có những tiến bộ nhanh hơn trên con đường học tập và
nghiên cứu.
Trân trọng cảm ơn và kính chúc mọi điều tốt đẹp!
NGHIÊN CỨU SINH

Trần Thanh Thủy


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục

1

MỞ ĐẦU

4

1. Lý do chọn đề tài

4


2. Mục đích nghiên cứu

6

3. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

9

5. Đóng góp của luận án

10

6. Cấu trúc luận án

10

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1.

Một số thuật ngữ cơ bản

11
11

1.1.1. Đàng Trong – danh xưng miền đất mới


11

1.1.2. Văn học Đàng Trong

14

1.2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu

16

1.2.1. Văn học Đàng Trong và các cơng trình nghiên cứu văn học sử

16

1.2.2. Văn học Đàng Trong như một đối tượng khảo sát chuyên biệt

25

Chƣơng 2. VĂN HÓA – XÃ HỘI ĐÀNG TRONG THẾ KỶ

37

XVII - XVIII
2.1.

Nho học vùng đất mới và những dấu tích văn chương

2.1.1. Mơ hình Nho giáo khơng thuần nhất: điều kiện để văn


37
37

chương phát triển theo xu thế tự nhiên
2.1.2. Học phong không chuộng từ chương cử nghiệp: điều kiện để

43

văn học Nôm phát triển
2.2.

Sự đặc biệt trong thành phần cư dân: ưu thế vượt trội cho việc phát

46

triển các loại hình văn học diễn đạt bằng hình thức dân gian
2.3.

Xã hội thị dân: tiền đề cho sức trẻ của văn học Đàng Trong

1

48


Chƣơng 3. VĂN HỌC ĐÀNG TRONG XÉT TRONG MỐI TƢƠNG

53


QUAN VỚI VĂN HỌC ĐÀNG NGOÀI THẾ KỶ XVII – XVIII
3.1.

Lược thảo tiến trình văn học Đàng Trong

54

3.1.1. Từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1672

54

3.1.2. Từ năm 1673 đến năm 1777

56

3.1.3. Từ năm 1778 đến năm 1802

63

3.2.

Tương quan với văn học Đàng Ngồi: nhìn từ phương diện đội

65

ngũ tác giả
3.2.1. Nhà nho gốc Việt

66


3.2.2. Nhà nho gốc Minh hương

71

3.3.

Tương quan với văn học Đàng Ngồi: nhìn từ phương diện nội

76

dung phản ánh
3.3.1. Đề vịnh thiên nhiên

76

3.3.2. Tố cáo hiện thực

83

Tương quan với văn học Đàng Ngồi: nhìn từ phương diện thể loại

87

3.4.1. Sự phát triển song hành những thể loại truyền thống ở cả hai

87

3.4.

Đàng (thơ, phú, văn tế, tiểu thuyết chương hồi, truyện Nôm)

3.4.2. Lối đi riêng của văn học Đàng Trong với những thể loại đặc

92

thù phương Nam (vãn, vè, tuồng)
Tương quan với văn học Đàng Ngồi: nhìn từ phương diện ngơn ngữ

100

Chƣơng 4. VAI TRỊ CỦA VĂN HỌC ĐÀNG TRONG ĐỐI VỚI

108

3.5.

VĂN HỌC DÂN TỘC
4.1.

Hoàn chỉnh bản đồ văn học Việt

108

4.1.1. Đào Duy Từ và sự hình thành trung tâm văn học Thuận - Quảng

110

4.1.2. Mạc Thiên Tích, Chiêu Anh các và trung tâm văn học Hà Tiên

114


4.1.3. Gia Định tam gia và trung tâm văn học Gia Định

123

4.2.

Sáng tạo hình tượng văn học mới (người hào kiệt, người anh

128

hùng thời loạn)
4.3.

Khởi đầu hai thể loại tự sự trường thiên (tiểu thuyết chương hồi
và truyện Nôm bác học)

2

131


KẾT LUẬN

137

DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

141

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

142

TÀI LIỆU THAM KHẢO

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Đánh dấu sự ra đời tương đối muộn mằn so với văn học miền Bắc,
nhưng dường như văn học viết miền Nam1 chưa bao giờ phải “lép vế” trong thân
phận của kẻ “đến sau” với những giới hạn về giá trị. Nhìn lại lịch sử văn học Việt
Nam, có thể thấy, từ khi định hình, văn học miền Nam gần như ln có xu hướng đi
đầu cho những thể nghiệm mới mẻ của các thể loại văn học: từ truyện Nôm bác học,
vãn, tuồng… (thời trung đại) cho đến báo, tạp chí, truyện ngắn, truyện dài, truyện
phóng tác… (thời cận hiện đại) và dội tầm ảnh hưởng ngược trở lại miền Bắc. Có
thể, chính số phận lịch sử của miền Nam đã quy định cho tính tiên phong của vùng
văn học này trên rất nhiều góc độ, góp phần hình thành nên một vùng văn học mang
nhiều biệt sắc so với vùng văn học truyền thống ở miền Bắc.
Điều đó dẫn đến, dù là trên thực tế hay ở tầm lý luận, rằng: sẽ là bất khả thi
và thiếu thuyết phục nếu hình dung về sự phát triển của văn học Việt Nam vốn được
đánh giá là đa dạng, muôn màu mà không lưu tâm đến bộ phận văn học được sản
sinh trên mảnh đất phương Nam.
1.2. Có một thời kỳ, dường như văn học miền Nam chưa được đánh giá ở
đúng tầm của nó. Phần lớn các nghiên cứu chỉ căn cứ vào thành tựu văn học cụ thể
khi đánh giá về một vùng văn học, dẫn đến sự “xem nhẹ” văn học miền Nam trước
bề dày truyền thống của văn học miền Bắc, thậm chí, từng có người cho rằng “Văn
nghệ miền Nam khơng có q khứ”2. Mặc dù cùng với thời gian, văn học miền Nam
đã được các thế hệ nghiên cứu nhìn nhận lại với lối tư duy tồn diện, hệ thống và
thực sự cầu thị nhưng do khó khăn trong điều kiện tiếp cận và xử lý tư liệu, nên sự

quan tâm tới văn học miền Nam nói chung, và văn học giai đoạn Đàng Trong nói
riêng, chưa được đầy đủ. Hầu hết các cơng trình mới chỉ lẩy ra một “lát cắt”, một
đặc điểm, một điển hình nào đó, chứ chưa tái hiện một cách đầy đủ, tồn diện diện
Ở đây, chúng tơi tạm gọi là văn học miền Nam trong ý nghĩa bao hàm tổng thể nền văn học tại miền đất phía Nam của
Tổ quốc ở tất cả các thời kỳ, trong đó có giai đoạn Đàng Trong.
2
Phát biểu của Trần Thanh Hiệp, luật sư, nhà lý luận văn học của nhóm “Sáng tạo” chủ trương thơ tự do [Dẫn theo:
Nguyễn Văn Trung (2015), Hồ sơ về Lục Châu học – Tìm hiểu con người ở vùng đất mới dựa vào tài liệu văn, sử bằng
quốc ngữ ở miền Nam từ 1865 – 1930, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 52].
1

4


mạo văn học miền Nam nói chung và văn học Đàng Trong nói riêng. Điều đáng
nói là, ngay trong một số giáo trình giảng dạy ở bậc đại học của các trường đầu
ngành khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề này cũng chưa được quan tâm đầy đủ,
đúng mức.
1.3. Lịch sử đã chứng minh, trong giai đoạn đối kháng Đàng Trong - Đàng
Ngoài, sự đối kháng diễn ra ở tất cả các mặt: quân sự - chính trị - kinh tế. Hiển
nhiên, xét về mặt biện chứng lịch sử, đó chính là điều kiện tồn tại của một vùng
lãnh thổ độc lập. Tuy nhiên, điều lý thú là trong suốt thời kỳ phân tranh ấy, chưa
bao giờ thấy thật sự đặt ra sự đối kháng, cạnh tranh văn hóa giữa hai Đàng. Có thể,
đó chính là yếu tố bảo lưu đậm đặc nhất, vững bền nhất sự thống nhất dân tộc và
diện mạo quốc gia, để rồi sau mấy trăm năm chia cắt, lại hợp nhất Trong - Ngồi về
một chỉnh thể văn hóa Việt.
Tuy nhiên, thực tế chia cắt 200 năm, dù muốn hay không, hẳn vẫn tạo ra
những sự khác biệt. Không chỉ xét trên tổng thể nền văn hóa nói chung, mà bản thân
văn học Đàng Trong cũng phát triển trong tình trạng lưỡng nan vừa thống nhất vừa
khác biệt như thế. Thống nhất nhờ sự bảo lưu những giá trị văn học, mà rộng hơn là

giá trị văn hóa truyền thống. Khác biệt vì trên đường hướng ly khai, người Việt ở
phương Nam phải không ngừng sáng tạo ra cái mới, để sinh tồn và cũng để khẳng
định sự tồn tại độc lập của vùng lãnh thổ - vùng thể chế. Vấn đề đặt ra là những sự
khác biệt có thực ấy trong văn học nơi vùng đất mới có tạo ra sự xung khắc với văn
học Đàng Ngồi nói riêng và với nền văn học dân tộc đã định hình từ lâu đời nói
chung; hay chính những biệt sắc đó lại góp phần vào sự phong phú của nền văn học
dân tộc? Nói cách khác, văn học Đàng Trong nằm ở vị trí nào và xác lập vai trị gì
trong nền văn học dân tộc? Chúng tôi tin rằng, lần giở lại những trang văn học
Đàng Trong thời kỳ phân tranh, sẽ là một trong những hướng đi hứa hẹn để tìm ra
lời giải cho những câu hỏi đó.
Trên đây là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi lựa chọn Văn học Đàng
Trong thế kỷ XVII - XVIII trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc làm đối
tượng nghiên cứu.

5


2. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện luận án này, chúng tơi hướng tới ba mục tiêu cơ bản:
2.1. Hình dung tổng thể về văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII. Tuy
nhiên, chúng tôi không viết lại văn học sử Đàng Trong theo cách các tác giả
Nguyễn Văn Sâm, Huỳnh Ái Tông, Nguyễn Văn Trung… đã làm mà chỉ lựa chọn
những dữ kiện, văn liệu, thi liệu phục vụ cho quá trình nhận thức, đánh giá một cách
cơ bản đặc điểm, vị trí, vai trị của văn học Đàng Trong đối với văn học dân tộc.
2.2. Đặt sự vận động của văn học Đàng Trong vào mối tương quan với văn
học Đàng Ngồi và trên lịch trình phát triển của văn học dân tộc để nhận thức
những biệt sắc, những dấu ấn chung, từ đó định vị vai trị của nó trong nền văn học
dân tộc. Mục đích của chúng tôi qua nghiên cứu này là vừa cụ thể hóa vùng văn học
quan trọng nhưng chưa được nghiên cứu đầy đủ này, vừa hình dung tồn diện về
văn học dân tộc một thời kỳ.

2.3. Đặt các dữ kiện văn học vào bối cảnh lịch sử - văn hóa khi ấy để hình
dung về sự phát triển thực sự của nền văn học và cố gắng trong chừng mực có thể,
tìm ra logic nội tại của sự phát triển ấy.
3. Hƣớng tiếp cận và phƣơng pháp nghiên cứu
3.1. Hướng tiếp cận
Đối tượng khảo sát của luận án là những dấu ấn văn chương ở một vùng đất
mới, trong một giai đoạn đặc biệt của tiến trình văn hóa khu vực. Vì vậy, nghiên
cứu chủ yếu được thực hiện theo hướng tiếp cận hệ thống trong miêu tả lịch sử văn
học và hướng nghiên cứu vùng văn học. Tuy nhiên, thực tế là cho đến nay, chưa
từng xuất hiện một công trình mang tính phương pháp luận nào bàn chun sâu về
những tiêu chí xác định một vùng văn học viết, cũng như đặt ra cơ sở lý thuyết cho
việc nghiên cứu văn học vùng. Vì vậy, để có thể giải mã vùng văn học Đàng Trong
ở các chiều cạnh khác nhau, chúng tơi tiếp thu một cách có chọn lọc những tác
phẩm mang màu sắc lý thuyết, thể hiện quan điểm nghiên cứu của các học giả uy tín.
Điển hình trong đó là các quan niệm:
- Quan niệm về một cơng trình văn học sử thực thụ
Theo Trần Ngọc Vương, một cơng trình văn học sử phải hình dung cho được
lịch sử vận động của đối tượng là văn học, vừa thơng qua việc trình bày diện mạo
tổng thể của từng thời đại, thời kỳ, giai đoạn, thời đoạn văn học, vừa giới thiệu và

6


đặt định vị trí của các tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong tiến trình văn học của thời
đoạn, giai đoạn, thời kỳ, thậm chí tác động của các tác giả ấy, tác phẩm ấy đến cả
thời đại văn học. Bên cạnh việc trình bày nội dung văn học, cơng trình văn học sử
cần trình bày cho được những gì làm nên diện mạo của bản thân văn học, tức thực
trạng chất nền và cấu trúc của nền văn học: ngôn ngữ và hệ thống thể loại [189, tr.
9]. Việc hình dung, đánh giá về văn học Đàng Trong cũng tiến hành theo xu
hướng đó.

- Quan niệm về việc “đọc” tác phẩm văn học bằng văn hóa, nói cách khác là
quan niệm về tính khả thi của phương pháp tiếp cận văn hóa học trong nghiên cứu
văn học trung đại
Theo Trần Nho Thìn, phương pháp này ưu tiên cho việc phục ngun khơng
gian văn hóa trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan
niệm triết học, tơn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mỹ quan niệm về con
người… từng tồn tại trong một khơng gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về
các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mơ típ, hình tượng, ngơn ngữ… Nó thiên về
nhiệm vụ giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nét thời đại của tác phẩm [189,
tr. 47]. Chọn góc độ văn hóa để quan sát và giải thích các hiện tượng văn học, đặc
biệt là văn học trung đại, sẽ giúp giảm thiểu khả năng suy diễn, khả năng hiện đại
hóa văn học quá khứ, cắt nghĩa văn học bằng cặp mắt của người hiện đại, chịu ảnh
hưởng cách nhìn của thế giới hiện đại, do vậy mà góp phần đưa người đọc “có
nhiều cơ may đến gần sự thật lịch sử văn học” [151, tr. 6].
- Quan niệm về sự phát triển khơng đồng đều của văn hóa dân tộc
Mặc dù việc phân biệt Nam - Bắc, trong một số bối cảnh, ở một vài thời
điểm lịch sử cụ thể, có thể bị coi là “trái đạo lý” khi “chia rẽ” tính thống nhất của
dân tộc, tuy nhiên, Trần Đình Hượu cho rằng, “ở một số mặt nào đó trong nghiên
cứu khoa học điều đó là cần thiết” [67, tr. 189]. Luận đề này đã chứng minh được
tính khả dụng khi áp dụng cho nghiên cứu trường hợp Nguyễn Thơng, xét “từ góc
độ phát triển khơng đồng đều của văn hóa dân tộc”1. Theo ơng, tư tưởng, phong
cách – phong cách làm việc, nghiên cứu và sáng tác – của Nguyễn Thơng có liên
quan với vùng đất mới Nam Kỳ và học phong ở đó, nơi mà “trong sự phát triển có

Xem thêm bài viết: “Từ góc độ phát triển khơng đồng đều của văn hóa dân tộc nhìn ánh sáng của ngơi sao Nguyễn
Thơng”, Tuyển tập, Tập 2, Trần Đình Hượu (2007), NXB Giáo dục, Hà Nội.
1

7



nhược điểm là thiếu truyền thống lâu đời nhưng vì là mới nên lại dễ tiếp nhận cái
đương đại nhanh chóng, đi vào tương lai nhẹ nhõm” [67, tr. 194]. Con người ở
những vùng đất ấy, có thể là chưa có cái nhuần nhị do truyền thống rèn giũa trở
thành tinh hoa, nhưng vì cịn chất phác nên lại hoạt bát, tự nhiên, năng động hơn.
Ngôi sao Nguyễn Thông, nếu có ánh sáng khác thường, so với các ngơi sao khác
của Bắc Hà lúc đó, thì chính là do đặc điểm đó. Nghiên cứu của chúng tơi tiếp tục
triển khai theo hướng tiếp cận về sự phát triển không đồng đều đó của các vùng văn
hóa – văn học.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp văn học sử
Để hình dung về văn học Đàng Trong đúng như “bản lai diện mục” vốn có,
chúng tơi triển khai nội dung khảo cứu theo các tiêu chí của văn học sử, từ đó chọn
lọc những dữ kiện, văn liệu, thi liệu hữu ích cho quá trình tư duy để đi đến nhận
thức, đánh giá về đặc điểm, vị trí, vai trị của văn học Đàng Trong.
3.2.2. Phương pháp so sánh
Đặt văn học Đàng Trong vào mối tương quan với văn học Đàng Ngoài thế kỷ
XVII – XVIII và trong tồn tiến trình văn học trung đại Việt Nam, chúng tơi hy
vọng có thể trên cơ sở đó thấy được những điểm tương đồng và khác biệt giữa tác
phẩm của các tác giả Đàng Trong và Đàng Ngoài giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII,
đồng thời chỉ ra được những điểm kế thừa, những sáng tạo mới, những dấu hiệu biệt
sắc của văn học – văn hóa phương Nam so với tổng thể văn học – văn hóa Việt. Từ
đó xác lập vị trí, vai trị của văn học Đàng Trong trong tiến trình phát triển của văn
học dân tộc.
3.2.3. Phương pháp liên ngành
Ở đây, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành văn
học - văn hóa. Một mặt, từ việc mơ tả, phân tích, đánh giá những đặc điểm đặc thù
của các tác phẩm văn học viết Đàng Trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII mà
“đọc” ra một số mã văn hóa của vùng đất này. Mặt khác, đặt tác phẩm văn học vào
bối cảnh ở đó nó đã phát sinh và phát triển, trên cơ sở đó nhận diện những đặc

điểm văn học mang tính quy luật, tính lịch sử cụ thể, nói cách khác là lý giải các
đặc trưng văn học từ góc nhìn văn hóa. Theo chúng tơi, đó là mối quan hệ biện
chứng hai chiều: văn học hàm chứa trong nó nhiều mã văn hóa, và văn hóa bao

8


hàm, chi phối, hình thành nên khơng ít đặc điểm của nền văn học. Điều này càng
đặc biệt có ý nghĩa với đối tượng là văn học Đàng Trong. Bởi vì khác với nhiều bộ
phận văn học địa phương khác, văn học Đàng Trong xuất hiện đúng vào một giai
đoạn có nhiều biến động trong lịch sử khu vực mà cũng là một thời kỳ mới của
tiến trình văn hóa Đại Việt và là một bộ phận địa phương đặc biệt tiêu biểu cho
một giai đoạn văn học đặc biệt, do đó “cũng mang trong các đặc điểm và giá trị
của nó những động thái văn hóa đặc thù” [142, tr. 270].
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng khảo sát chính của đề tài là các tác phẩm văn học Đàng Trong thời kỳ
1600 - 1802, trên các khía cạnh: đội ngũ sáng tác, nội dung phản ánh, thể loại,
ngôn ngữ… Đây thực chất đều là những vấn đề của văn học sử. Tuy không thể coi
là cách đặt vấn đề mới nhưng theo chúng tơi, là những thao tác cần thiết khi muốn
hình dung về một thời đoạn văn học, làm cơ sở cho sự định vị vai trị của vùng văn
học đó.
Do giới hạn về thời gian, khuôn khổ luận án, đặc biệt là năng lực nghiên cứu của
bản thân, nên trong luận án này, chúng tôi chỉ khảo sát sáng tác của những tác giả ở vùng
đồng bằng và chỉ giới hạn trong phạm vi những tác phẩm văn chương hình tượng. Còn
một bộ phận sáng tác của các tộc người khác, và những tác phẩm văn chương chức
năng, chúng tôi hy vọng sẽ có dịp hồn thiện ở một cơng trình nghiên cứu “dài
hơi” và hệ thống hơn.
4.2. Nguồn tư liệu
- Để có một cái nhìn đại lược về văn học Đàng Trong, chúng tôi tiếp cận tư

liệu về sáng tác của các tác giả Đàng Trong thời kỳ 1600 - 1802 và những tư liệu/
cơng trình nghiên cứu về vùng văn học này của các thế hệ đi trước. Về căn bản,
những phân tích, bình luận của chúng tơi được thực hiện chủ yếu trên cơ sở những
tư liệu đã được dịch ra quốc ngữ.
- Đồng thời, để có thể nhận biết biệt sắc của văn học Đàng Trong cũng như
xác định vai trị, vị trí của nó trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc, bên
cạnh việc khảo sát các tác phẩm Đàng Trong (đối tượng chính), chúng tơi cũng tiếp
cận các sáng tác văn học Đàng Ngồi cùng thời kỳ và nhóm tư liệu/ cơng trình
nghiên cứu về văn học cổ trung đại Việt Nam nói chung.

9


- Mặt khác, để có thể hiểu hơn về bối cảnh văn hóa mà ở đó văn học Đàng
Trong đã phát sinh và phát triển, chúng tôi thấy cần thiết phải tiếp cận với nhóm tư
liệu về lịch sử - văn hóa Đàng Trong.
5. Đóng góp của luận án
Luận án góp phần nhận diện lại một lần nữa các yếu tố đặc trưng của văn học
Đàng Trong trên tiến trình vận động của văn học sử.
Dựa trên những kết quả thu được từ việc so sánh với văn học Đàng Ngồi
đương thời, luận án góp phần nhận diện những dấu hiệu biệt sắc của văn học vùng.
Đồng thời xác lập vai trị, vị trí của văn học Đàng Trong, cũng như vai trò của
những cá nhân tiêu biểu trên tiến trình phát triển văn học viết dân tộc.
Nhận diện bản chất, cội nguồn của văn học Đàng Trong với tư cách là một
thành tố văn hóa, một mặt chịu sự tác động và là hệ quả của những động thái văn
hóa đặc thù, mặt khác tác động ngược trở lại, tạo nên sự sinh động cho khơng gian
văn hóa vùng.
6. Cấu trúc luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính của luận án
được triển khai theo bốn chương:

- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
- Chương 2: Văn hóa - xã hội Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII
- Chương 3: Văn học Đàng Trong xét trong mối tương quan với văn học Đàng
Ngồi thế kỷ XVII - XVIII
- Chương 4: Vai trị của văn học Đàng Trong đối với văn học dân tộc

10


Chƣơng 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1. Một số thuật ngữ cơ bản
1.1.1. Đàng Trong - danh xưng miền đất mới
Thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, hai họ quân phiệt cát cứ hai miền Nam Bắc, lấy sông Gianh (tức Linh Giang, thuộc địa phận Quảng Bình) làm phân giới;
khu vực từ sông Gianh trở vào là xứ Đàng Trong/ Đường Trong, thời kỳ đó cịn gọi
là Nam Hà (nhiều tài liệu của người nước ngoài gọi là “Quảng Nam quốc”); và khu
vực từ sông Gianh trở ra là Đàng Ngồi/ Đường Ngồi, tức Bắc Hà. Theo đó, tên
gọi Đàng Trong/ Đường Trong - Đàng Ngoài/ Đường Ngoài, hay Nam Hà - Bắc Hà
chỉ có ý nghĩa lịch sử trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII, khi cục diện non sông
chia cắt làm đôi miền.
Vậy lịch sử Đàng Trong, lịch sử nửa phần đất phương Nam của Tổ quốc,
chính thức bắt đầu từ khi nào? Nhiều cơng trình nghiên cứu trước nay vẫn xác nhận
đó là thời điểm Nguyễn Hồng vào trấn thủ Thuận Hóa, năm 1558. Nhưng cũng có
ý kiến cho rằng, “sự phân kỳ ấy hồn tồn khơng có cơ sở”, rằng “lịch sử Đàng
Trong chỉ bắt đầu sau khi Nguyễn Hoàng ngầm đem binh thuyền về Thuận Quảng
năm 1600, khiến vết nứt rạn giữa hai phe Trịnh - Nguyễn trong nội bộ triều Lê
Trung hưng trở thành không sao hàn gắn được nữa” [142, tr. 271]. Lại có ý kiến cho
rằng, trong suốt thời kỳ Nguyễn Hồng cầm quyền ở Đàng Trong, khơng bao giờ
cơng khai công bố sự cát cứ, mà vẫn nhận mệnh lệnh của Lê - Trịnh. Phải đợi đến
khi chúa Nguyễn Phước Nguyên ngầm tuyên bố “Dư bất thụ sắc” (năm 1630) thì

cục diện Đàng Trong - Đàng Ngồi mới chính thức được phân định. Vậy cần phải
lựa chọn mốc giới khởi đầu như thế nào? Đứng từ giác độ của một người nghiên
cứu văn học, tìm hiểu về bối cảnh văn hóa của một vùng đất trong một thời kỳ lịch
sử đặc biệt, chúng tơi cũng mạo muội góp đơi lời bàn.
Thiết nghĩ, sự hình thành một vùng đất phải được tiếp nối trên những chặng
đường dài lịch sử. Không phải đến tận thế kỷ XVII, người Việt mới tiến về phương
Nam. Và sự kiện Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hóa theo lệnh chỉ của vua Lê (năm
1558), dẫu xuất phát từ mục đích tìm chốn dung thân, bảo tồn gia tộc sau những
biến loạn triều chính, nhưng xét về bản chất chính trị, có lẽ cũng khơng khác là mấy

11


so với quá trình “mang gươm đi mở cõi” của các triều đại Lý, Trần, Lê trước đấy
từng thực hiện. Bởi trên danh nghĩa, thiết chế chính quyền Đàng Trong lúc này, vẫn
nằm trong chính thể của triều đình nhà Lê, mà Nguyễn Hoàng, vẫn chỉ là một vị
tỉnh thần. Thậm chí từng có thời điểm, Nguyễn Hồng tự mình “đích thân đem
tướng sĩ, voi ngựa, thuyền ghe về Kinh lạy chào, đem sổ sách về binh lương, tiền,
lụa, vàng bạc, châu báu, kho tàng của hai trấn Thuận Hóa và Quảng Nam dâng nộp”
[31, tr. 287]. Từ đó cho đến tận năm 1600, Nguyễn Hoàng ở lại Thăng Long, tích
cực tham gia “tiễu phạt” các nhóm cát cứ ở Đàng Ngồi, trong đó có những trận do
ơng xung phong tình nguyện, cũng có những trận do Trịnh Tùng nhân danh vua Lê
mà ban lệnh.
Mặt khác, tuy rằng phải đợi đến năm 16301, Nguyễn Phước Nguyên mới
chính thức tuyên bố về sự bất tuân sắc chỉ của vua Lê mà thực chất là mệnh lệnh
của chúa Trịnh; nhưng thời điểm Nguyễn Hoàng quyết tâm “dứt áo ra đi”, ngầm
đem binh thuyền về Thuận - Quảng năm 1600 và không bao giờ trở ra Bắc, có thể
xem là mốc đánh dấu sự ly khai hoàn toàn và chấm dứt mối quan hệ quân thần trên
thực tế giữa lực lượng Nguyễn Hoàng với lực lượng Lê - Trịnh2. Ý niệm “Đàng
Trong” với tư cách là một khu vực địa - chính trị trong ý nghĩa phân biệt, đối sánh

và cả đối đầu với khu vực địa - chính trị Đàng Ngồi chính thức được xác lập.
Tương tự, về thời điểm khép lại lịch sử Đàng Trong, cũng có nhiều quan
điểm tiếp cận. Năm 1774, quân Lê - Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy đã đánh
đuổi tập đoàn chúa Nguyễn vào đất Gia Định. Lúc này, cấu trúc Đàng Trong về cơ
bản bị giải thể. Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, dẫn tới sự xác lập vương triều
Tây Sơn vào năm 1778 (đánh dấu bởi sự kiện Nguyễn Nhạc lên ngôi), đã làm chấm
dứt trên thực tế gần hai thế kỷ chia cắt đất nước; ý niệm Đàng Trong căn bản khơng
cịn. Nhiều người coi đây là những mốc đánh dấu sự tan vỡ của chính thể Đàng
Trong. Đó cũng là lý do nhiều nhà nghiên cứu coi năm 1778 là thời điểm khép lại
lịch sử văn học Đàng Trong; và các sáng tác trong giai đoạn 1778 - 1802 được xếp
là văn học thời nội chiến Tây Sơn - Nguyễn Ánh.

Đó là chưa kể, giai thoại “Dư bất thụ sắc” xảy ra vào năm 1630, gắn liền với Phùng Khắc Khoan, trong khi đó vào lúc
này, họ Phùng đã mất từ lâu. Do vậy, thực có việc này hay khơng, có lẽ vẫn cịn là một nghi án!
2
Sự kiện này đã gây nên cú sốc lớn cho triều đình nói chung và cho chính Trịnh Tùng nói riêng, thậm chí, Trịnh Tùng
cịn đưa vua Lê quay trở lại Tây Đô.
1

12


Tuy nhiên, trên thực tế, sau năm 1774, ở khu vực “Đàng Trong cũ” có sự tồn
tại của ba thế lực chính trị: thế lực thừa hành sự cai trị của Lê - Trịnh (từ Phú Xuân
trở ra), thế lực Tây Sơn, và thế lực các chúa Nguyễn (dù yếu ớt, mờ nhạt). Cần phải
thừa nhận rằng, nếu như vào thời điểm Tây Sơn khởi nghĩa, thiết chế quyền lực của
chúa Nguyễn ở Thuận Quảng đã suy thoái trầm trọng thì ở khu vực đồng bằng sơng
Cửu Long đất rộng người thưa, sự suy thoái này hiện ra một cách mờ nhạt hơn.
Trong khi đó, do sự bất lực và thiển cận của chính quyền Đơng Định vương Nguyễn
Lữ, lực lượng Tây Sơn ở Nam Bộ lại không tạo được ảnh hưởng chính trị rộng rãi

và sâu sắc đủ để đẩy lùi và đánh bại ảnh hưởng của thế lực chúa Nguyễn đã tồn tại
hai trăm năm. Tất cả những điều này khiến cho ngay cả trước năm 1789, một bộ
phận trí thức và nhân dân vùng này vẫn thừa nhận họ Nguyễn như vương triều
chính thống. Đặc biệt từ sau khi Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Định lần cuối (1788),
xây dựng chính quyền “qn quản”, văn hóa nơi đây đồng thời cũng có những bước
chuyển mình, và Gia Định đã nhanh chóng trở thành trung tâm văn hóa - chính trị
dưới thiết chế chính quyền Nguyễn Ánh - hậu nhân của dịng dõi Nguyễn Hồng.
Do vậy, trên thực chất, ý niệm về quyền lực và ngôi vị chúa Nguyễn vẫn tồn tại,
thậm chí là quyết liệt trong niềm tin chân thành của phần lớn cư dân ở phía Nam Tổ
quốc. Hệ quả là, thời kỳ này, trong văn học vẫn tồn tại một bộ phận sáng tác chống
Tây Sơn, tiếp tục cảm hứng khẳng định các thời kỳ của chúa Nguyễn, đặc biệt là
vẫn giữ được những dấu hiệu biệt sắc của văn học thời kỳ Đàng Trong đặt dưới
quyền cai trị chính thức của các chúa Nguyễn, mà Hoài Nam khúc (của Hoàng
Quang) là một tác phẩm tiêu biểu. Do vậy, theo chúng tơi, sự hình thành, tồn tại của
ý niệm Đàng Trong song hành cùng với sự tồn tại của ý niệm về ngôi vị chúa
Nguyễn. Bởi vậy, dù Đàng Trong đã trải qua mấy thập kỷ biến loạn, suy tàn, nhưng
phải đợi đến khi Gia Long lên ngơi, hồn thành sự nghiệp thống nhất sơn hà (năm
1802) cả trên thực tế lẫn chính trị, khép lại hai thế kỷ tồn tại ngơi vị “Chúa Nguyễn”
thì hồi niệm về Đàng Trong mới có cơ sở ép buộc phải chấm dứt và những sáng
tác mang hơi hướng Đàng Trong cũng chấm dứt từ đây.
1.1.2. Văn học Đàng Trong
Với quan điểm về sự tồn tại của danh xưng Đàng Trong như đã nói ở trên,
nên “văn học Đàng Trong” mà chúng tôi đề cập đến trong luận án này là chỉ toàn bộ

13


những sáng tác (bằng chữ Nôm và chữ Hán)1, được viết tại khu vực địa - chính trị
Đàng Trong, tức khu vực phía Nam sơng Gianh trở vào trong (về mặt địa lý),
khoảng thời gian từ 1600 – 18022.

Tuy nhiên, phải chăng tác phẩm nào ra đời tại mảnh đất phía Nam sơng
Gianh cũng có thể coi là thuộc về văn học Đàng Trong? Một phép cộng như thế,
tưởng chừng quá giản đơn!
Nếu nói rằng một trong những yếu tố quan trọng tạo nên vùng văn hóa chính
là những đặc trưng chung (có thể phân biệt với các vùng văn hóa khác) thể hiện
trong sinh hoạt văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân – những phương
diện cấu thành văn hóa, thì chắc chắn, một trong những yếu tố quan trọng tạo
“vùng” văn học cũng phải là những đặc trưng chung của những đại lượng cấu thành
văn học, đó là hệ thống những tư tưởng mang tính thẩm mỹ và quan niệm văn học,
chủ đề - đề tài, hình tượng trung tâm, thể loại và ngơn ngữ. Tuy nhiên, tất cả những
tiêu chí này vận động như thế nào trong lịch sử văn học lại phụ thuộc rất lớn vào sự
vận động của hệ thống loại hình chủ thể sáng tạo, tức loại hình tác giả. Nói cách
khác, những đặc trưng chung hình thành nên một vùng văn học phụ thuộc rất lớn
vào chủ thể sáng tác, tức đội ngũ tác giả. Theo đó, việc khoanh vùng văn học có
liên hệ trực tiếp với việc xác định tọa độ tác giả. Điều này càng phù hợp với trường
hợp văn học Đàng Trong – nền văn học được tạo sinh trên mảnh đất thường xuyên
có sự mở rộng về không gian và thành phần dân cư.
Chúng tôi cho rằng, một tác giả chỉ có thể được coi là tác giả Đàng Trong khi
họ sáng tác với tâm thức mình là người Đàng Trong. Họ có thể là những người sinh
trưởng tại Đàng Trong, thụ hưởng bầu không khí, văn hóa, chính trị và nền giáo dục
Đàng Trong từ nhỏ (nên đương nhiên họ đã là người Đàng Trong từ trong bản chất)
như những tác giả thế kỷ XVIII, bất kể tư tưởng hướng đến ngôi vị chúa Nguyễn
(như Nguyễn Cư Trinh, Ngô Thế Lân, Nguyễn Dưỡng Hạo, Phạm Lam Anh, Hồng
Văn học Hán Nơm mà chúng tơi đề cập đến ở đây là chỉ những sáng tạo nghệ thuật được sáng tác một cách có ý thức
bởi những tác giả cụ thể (có thể khuyết danh hoặc hữu danh). Nó khơng đồng nhất với khái niệm “thư tịch Hán Nơm” có
phạm vi rộng hơn, bao gồm cả những loại văn bản hành chính như hộ tịch, cơng văn, hoặc sách thuốc, sách bói, sách gia
lễ, sách Lỗ Ban… được biên soạn hay sao chép bằng chữ Hán – Nôm.
2
Mặc dù đề tài nghiên cứu của chúng tôi là Văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII trong tiến trình phát triển của văn
học dân tộc, nhưng chúng tôi nhận thấy những sáng tác xuất hiện ở dải đất phía Nam sơng Gianh trong khoảng vài năm

đầu thế kỷ XIX (1800 - 1802) như sáng tác của Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Thành, Trịnh Hồi Đức, Ngơ Nhơn Tịnh,
Lê Quang Định…, căn bản vẫn mang âm hưởng, khơng khí, chất liệu, cảm hứng và những đặc sắc của văn học vùng thế
kỷ XVII – XVIII nói chung; hơn nữa, bộ phận “văn học Đàng Trong”, theo quan điểm của chúng tôi, chỉ tồn tại trong
khoảng thời gian hơn 200 năm ấy (1600 - 1802), vì vậy, chúng tôi tiến hành khảo cứu thêm một số trường hợp kể trên,
để có thể nhận diện trọn vẹn hơn về diện mạo chỉnh thể của văn học Đàng Trong.
1

14


Quang…) hay vọng tưởng vương quyền chúa Trịnh (như Lý Minh, Lê Duy
Trung…). Họ có thể là những nhân sĩ Bắc Hà đến Đàng Trong từ buổi đầu, tuy
hành trang mang theo chủ yếu là kinh nghiệm sáng tác của Đàng Ngồi nhưng lại
sẵn tâm thế ly khai chính quyền Lê - Trịnh, hướng về phụng sự chúa Nguyễn, chủ
động gắn bó, hịa hợp với Đàng Trong, coi Đàng Trong là vùng đất sống, là tiền đồ
tương lai, như Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật… Họ có thể di trú từ Trung Hoa sang,
hoặc tổ tiên vốn người Trung Hoa, nhưng đã có quãng thời gian đủ dài để gắn bó,
hịa nhập, thấu hiểu cuộc sống ở Đàng Trong, từ bỏ tâm sự di thần, coi Đàng Trong
là quê hương, là Tổ quốc, như cha con họ Mạc, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh...
Với quan niệm như thế, nên chúng tôi không coi tất cả những tác giả - tác
phẩm xuất hiện ở phương Nam khoảng thế kỷ XVII – XVIII đều thuộc về văn học
Đàng Trong. Như trường hợp hịa thượng người Quảng Đơng Thích Đại Sán (từng
lưu trú ở Đàng Trong một năm để hoằng dương Phật pháp), hay những vị quan
Đàng Ngồi đến “cơng cán” sau khi Hồng Ngũ Phúc vượt sơng Gianh, đánh đuổi
tập đồn chúa Nguyễn chạy vào Nam (Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du)..., mặc dù
từng trước tác tại dải đất Đàng Trong, ghi lại phong tục tập quán, đời sống văn hóa,
xã hội, thuế khóa, lịng sùng đạo của người dân xứ Đàng Trong (Hải ngoại kỷ sự Thích Đại Sán), ghi lại sự tích khai thiết khơi phục hai xứ Thuận Hóa – Quảng Nam,
cùng hình thế, núi sơng, thành lũy, bến đị, đường sá, số ngạch cơng tư điền trang,
hình thức, nhân tài, thơ văn, vật sản, phong tục… (Phủ biên tạp lục – Lê Quý Đôn),
tức đối tượng miêu tả, ghi chép đều là đất và người xứ Đàng Trong, nhưng tâm thế

của họ là ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy tại “xứ người”. Thời gian lưu
lại dải đất này quá ngắn, chưa đủ để tạo nên bất kỳ dấu ấn nào, nên tác phẩm của
họ, thực chất vẫn thuộc về và chịu sự chi phối của một truyền thống sáng tác ở xứ
sở khác.
Sau khi nhà Tây Sơn chiếm được Phú Xuân, đặt làm “kinh đô”, tập đoàn
chúa Nguyễn rút chạy vào Gia Định, đặc biệt sau khi Nguyễn Ánh xác lập được địa
vị ở Gia Định, trên dải đất Đàng Trong khi đó xuất hiện hai trung tâm chính trị Phú Xuân và Gia Định. Một bộ phận lớn cư dân Gia Định vẫn có niềm tin chân
thành vào vương nghiệp của chúa Nguyễn, do thế tâm thức Đàng Trong được khẳng
định một cách mạnh mẽ và quyết liệt. Theo đó, các tác phẩm văn học xuất hiện ở
Gia Định thời kỳ này vẫn tiếp tục mạch nguồn của văn học Đàng Trong giai đoạn

15


trước đó. Trong khi đó, các văn thần, nhân sĩ Tây Sơn ở Phú Xuân, vốn dĩ không
mang tâm thức Đàng Trong, chưa bao giờ coi mình là người Đàng Trong, lại càng
khơng có tâm lý phân biệt hai đàng Trong - Ngoài biệt lập… (như Nguyễn Văn
Danh, Lê Ngọc Hân…), không thể coi là tác giả của văn học Đàng Trong. Hơn nữa,
các tác phẩm của họ mang một âm hưởng khác gắn liền với hào khí Tây Sơn, không
giống giọng điệu chung của văn học Đàng Trong hai thế kỷ. Sáng tác của họ thuộc
về một nền văn học khác mà nhiều nhà nghiên cứu đã định danh là “Văn học thời
Tây Sơn”.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.2.1. Văn học Đàng Trong và các cơng trình nghiên cứu văn học sử
Văn học Đàng Trong nói riêng, văn học miền Nam cho đến những năm 30
đầu thế kỷ XX nói chung, vốn từng một thời bị xem nhẹ, “bỏ quên” và thậm chí là
“bỏ qua”. Tuy rằng cùng với thời gian, các nhà nghiên cứu đã tỏ ra lưu tâm hơn tới
vùng văn học đặc biệt này, song căn bản vẫn còn khá khiêm tốn so với vùng văn
học Đàng Ngồi truyền thống. Có thể dễ dàng nhận thấy điều này ở tần suất xuất
hiện và mức độ quan tâm đối với các dữ kiện về văn học Đàng Trong trong các

cơng trình văn học sử vốn được coi là “cẩm nang” của nhiều thế hệ nghiên cứu.
Việt Nam văn học sử yếu1 (Dương Quảng Hàm, Bộ Quốc gia Giáo dục xuất
bản, Hà Nội, 1950) là một trong những cơng trình văn học sử đầu tiên, quy mơ và
“toàn diện nhất”2 Việt Nam từ năm 1945 đến 1954. Trong đó, thơng tin liên quan
đến văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII được đề cập ở chương thứ chín: “Hán
văn trong thời kỳ Lê trung hưng” và chương thứ mười: “Việt văn trong thời kỳ Lê
trung hưng” (thuộc thiên thứ tư: “Thời kỳ Nam Bắc phân tranh - thế kỷ XVII và
XVIII”), với những giới thiệu vắn tắt về Mạc Thiên Tích, Nguyễn Cư Trinh, Hồng
Quang, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn Thành, mà tổng dung lượng có lẽ chỉ được
chừng đôi ba trang. Diện khảo sát như thế có phần chưa thích đáng. Tuy nhiên,
chúng tơi khơng cho rằng điều đó đồng nghĩa với việc tác giả coi nhẹ khu vực văn
học này. Bởi xét trong mục tiêu lập một “bức bản đồ giản ước theo đó các bạn
thanh niên biết được phương hướng và đường lối chính để đi vào khu vườn văn

Bản in đầu tiên năm 1943, Học chánh Đông Dương xuất bản, Hà Nội. Chúng tôi tham khảo bản in năm 1950 của Bộ
Quốc gia Giáo dục, Hà Nội.
2
Nhận xét của Nguyễn Đình Chú, dẫn theo Lê Quang Tư (2008), Một thế kỷ nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam (qua
một số công trình văn học sử), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, tr. 32.
1

16


học” [47, tr. 6], tương ứng với chương trình giảng dạy của trường công thời Pháp
thuộc, lại mong muốn khái quát được hết các vấn đề về tư liệu, đối tượng (các tác
phẩm văn học có giá trị về tư tưởng và văn từ), thể loại văn học, ngôn ngữ văn học,
phân kỳ văn học... thì việc phải “chia vụn” kiến thức ra thành nhiều phân mảnh (dẫn
theo sự trích lược tư liệu về văn học Đàng Trong) cũng là điều dễ hiểu.
Việt Nam văn học sử trích yếu (Hạo Nhiên Nghiêm Toản, Nhà sách Khai Trí,

Sài Gịn, 1968)1, đúng như tinh thần tựa sách, chỉ có “tính chất trích yếu, để dành
riêng cho các bạn khơng có nhiều thì giờ rảnh, nhưng muốn có một cái nhìn gọn
gàng, khái quát về văn học Việt Nam” [142, tr. 5], nên tiến trình văn học Việt Nam
được tái hiện như một “bản giản lược các nhận định thống quan” [163, tr. 6]. Tuy
nhiên, ngay cả trong q trình “trích yếu” ấy, tỷ lệ quan tâm tới văn học Bắc Hà vẫn
dày dặn và đậm đặc hơn hẳn. Trong tổng cộng 329 trang sách, chỉ có chưa đầy chục
trang điểm tên và giới thiệu sơ lược về nội dung một số tác phẩm của các tác giả
Mạc Thiên Tích, Trịnh Hồi Đức (trong phần “Văn học bác học - Chữ Nho”,
chương 2: “Những tác phẩm bằng Hán văn”, mục III: “Thời kỳ Nho học độc tôn”),
và Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Cư Trinh, Hồng Quang (phần “Văn
học vừa bình dân vừa bác học - Chữ Nôm và quốc ngữ”, chương I: “Chữ Nôm”,
mục II: “Thời kỳ thứ hai: từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII”). Trong đó khơng có
những đánh giá, biện luận theo chiều sâu. Về sự thiên lệch này, bản thân tác giả
cũng ý thức rất rõ ràng rằng: “Đứng về phương diện tỷ lệ, hình như chúng tơi nói
về các tác phẩm và soạn giả Trung bộ, Nam bộ quá sơ sài; nhiều chương, nhiều
mục hầu như bị hy sinh; đó là một điều khổ tâm, vì đi lại bất tiện, hồn cảnh khó
khăn, sách vở nghiên cứu chúng tơi khơng có quyển2, vậy thiếu sót là sự bất đắc
dĩ, chứ khơng phải cố tình” [163, tr. 8]. Vì thế, với chúng tơi, cơng trình chủ yếu
có ý nghĩa về mặt tư liệu tham khảo, cung cấp cái nhìn tổng lược.
Ba tập Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam của nhóm Lê Q Đơn, trình
bày khái quát về các thời đoạn văn học, từ nguồn gốc đến năm 1945. Trong đó,
cuốn tập II: “Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX” (Vũ Đình Liên - Đỗ Đức Hiểu Lê Trí Viễn - Huỳnh Lý - Trương Chính - Lê Thước, NXB Xây dựng, Hà Nội, 1957)
có liên quan đến giai đoạn khảo sát của đề tài. Tuy nhiên, “nhặt” trong hơn 300
Bản in đầu tiên năm 1949, NXB Vĩnh Bảo, Sài Gịn. Chúng tơi tham khảo bản in năm 1968 của Nhà sách Khai Trí, Sài
Gịn.
2
Phần in nghiêng do tác giả luận án nhấn mạnh.
1

17



trang sách, chúng tơi chỉ có thể tham khảo chút ít tư liệu về Đào Duy Từ (trình bày
trong sự đối sánh với Nguyễn Hàng ở Đàng Ngoài) và Nguyễn Cư Trinh (trong
phần “Các tác giả phụ”).
Bộ sách Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam của Ban Văn - Sử - Địa (7 quyển,
xuất bản từ năm 1957 đến 1964) bước đầu sưu tầm tài liệu nghiên cứu và lược trình
tồn bộ lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến nửa đầu thế kỷ XIX. Chúng tôi
đặc biệt chú ý đến Quyển II (lược về các tác giả, tác phẩm Hán - Nôm từ thế kỷ XV
đến hết thế kỷ XVII), Quyển III (lược về các tác giả, tác phẩm Hán văn thế kỷ
XVIII) và Quyển IV (lược về các tác giả, tác phẩm văn học Nôm thế kỷ XVIII).
Trong q trình phân chia nhóm tác giả, các soạn giả đã nhắc đến một số tác giả văn
học Đàng Trong như Đào Duy Từ, Nguyễn Cư Trinh, Chiêu Anh các, Ngô Thế Lân
(tác giả Hán văn), Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Cư Trinh (với tác phẩm Sãi Vãi), Mạc
Thiên Tích, Hồng Quang (phần sáng tác bằng chữ Nơm). Tuy nhiên, mọi phân tích
chỉ trải trên trục ngang, coi tất cả trong một chỉnh thể văn học Việt, chứ khơng phân
biệt hai miền văn học, do đó, khơng cung cấp một cái nhìn tồn cảnh, trực diện đối
với văn học Đàng Trong. Dù vậy, các soạn giả cũng đã đưa ra cho chúng tôi những
gợi ý rất ý nghĩa khi kết luận: “Người Việt Nam hồi thế kỷ XVIII ở Đường Ngoài
cũng như người Việt Nam hồi thế kỷ XVIII ở Đường Trong tuy sống ở hai khu vực
hoàn tồn cách biệt, nhưng vẫn có chung một ngữ ngơn và khi sáng tạo nghệ thuật
vẫn vận dụng những phương pháp chung của cả dân tộc1” [136, tr. 286].
Văn học Việt Nam - văn học sử giảng văn của Phạm Văn Diêu (Tân Việt xuất
bản, Sài Gòn, 1960), thực chất là một cuốn giáo trình văn học sử để giảng dạy ở các
cấp trung học I, II và đại học Văn khoa khi đó. Mặc dù khơng dành một mục khảo
sát về văn học Nôm Đàng Trong nhưng một số tác giả Đàng Trong đã được Phạm
Văn Diêu viết riêng trong mục “Các tác giả và các tác phẩm”, như Đào Duy Từ,
Hoàng tử Tứ, Nguyễn Cư Trinh, Hoàng Quang, Đặng Đức Siêu, Nguyễn Văn
Thành; trong đó, Văn tế Võ Tánh và Ngơ Tịng Châu (Đặng Đức Siêu), Văn tế trận
vong tướng sĩ (Nguyễn Văn Thành) được chọn giới thiệu riêng ở mục “Giảng văn”.

Theo ông, sự xuất hiện của những Song Tinh Bất Dạ, Hoa tình... đã “tỏ rõ dấu hiệu
của văn chương sắp phát đạt: văn chương không cịn là mơn độc quyền của Đường
Ngồi và đã lan vào đến Đường Trong”, “báo hiệu cho những tác phẩm văn học sắp
1

Phần in nghiêng do tác giả luận án nhấn mạnh.

18


tới mang lại trong văn học nước Việt cái khí sắc mới mẻ của hoàn cảnh thiên nhiên
và xã hội riêng mình” [23, tr. 592]. Đây là một nhận định hồn tồn chính xác. Tuy
nhiên, do chỉ giới hạn trong văn học Nơm, lại khảo sát tồn bộ lược sử nền văn học
Việt, nên đối tượng quan tâm của chúng tơi - tức tồn bộ nền văn học Đàng Trong
giai đoạn XVII - XVIII mới chỉ được dựng nên với đơi ba phác thảo chưa hồn
thiện. Giá trị tham khảo, với chúng tơi, vì thế cịn hạn chế.
Bùi Văn Ngun khi khảo cứu về văn học Việt Nam thế kỷ XVI - giữa thế kỷ
XVIII, trong cuốn Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam - Tập II của Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội (Bùi Văn Nguyên - Phan Sĩ Tấn biên soạn, NXB Giáo dục, Hà
Nội, 1961) khẳng định: “Văn học từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII đã phân ra thành
văn học Bắc và Nam sông Gianh. Văn học Đàng Ngoài kế tục và phát triển văn học
viết từ xưa của dân tộc nên phong phú và có chất lượng hơn nền văn học Đàng
Trong, là nền văn học xây dựng trên cơ sở mới khai thác” [107, tr. 193]. Điểm đáng
q của cơng trình này là tác giả đã dành hẳn một mục riêng tìm hiểu về “Văn học
Đàng Trong hay văn học bên kia sơng Gianh”. Trong đó, các gương mặt tiêu biểu
cho văn học Đàng Trong thời kỳ này lần lượt được giới thiệu: một Đào Duy Từ
đóng “vai trị quan trọng trong việc phát triển văn hóa buổi khai nghiệp của chúa
Nguyễn” [107, tr. 221], một Mạc Thiên Tích tiên khởi cho sự hình thành tao đàn
Chiêu Anh các ở xứ Hà Tiên, một Nguyễn Cư Trinh nổi tiếng với bài hoạt kê Sãi
Vãi, một Nguyễn Hữu Hào mở đầu cho sự hình thành của thể loại truyện Nơm bác

học với tác phẩm Song Tinh Bất Dạ... Dù chưa thực sự khảo sát sâu, nhưng Bùi Văn
Nguyên đã khái quát được một số đặc điểm tiêu biểu của văn học Đàng Trong thời
kỳ này: “tuy về số lượng cũng như chất lượng chưa cao, nhưng đã phát triển được
khá đầy đủ các mặt như tình u thiên nhiên đất nước, tính tiết tháo, tính trữ tình,
tính tố cáo hiện thực xã hội, và do đó đã phản ánh được phần nào chế độ phong kiến
Đàng Trong thời bấy giờ” [107, tr. 228]. Chúng tơi khơng hồn tồn tán thành cách
đánh giá văn học nói chung và văn học Đàng Trong nói riêng từ quan điểm mác xít
cơ giới như thế nhưng cũng phải thừa nhận đóng góp của các tác giả khi nỗ lực đặt
văn học Đàng Trong vào một góc nhìn riêng.
Tuy nhiên, đến cuốn tập III của bộ giáo trình này (Lê Trí Viễn - Phan Cơn Đặng Thanh Lê - Phạm Văn Luận - Lê Hoài Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1962),
nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ giữa thế kỷ XVIII đến 1858, thì chỉ có một

19


số tác giả văn học Đàng Trong được điểm tên khi cần minh định cho một vấn đề
nào đó. Chẳng hạn, Phong trúc tập của Ngô Thế Lân được nhắc đến khi nhóm
nghiên cứu phân tích khuynh hướng đấu tranh và tố cáo hiện thực; Hoài Nam khúc
của Hoàng Quang là điển hình cho khuynh hướng bi quan và bảo thủ phản động.
Khơng có bất kỳ tác giả nào được nhắc đến ở phần viết riêng. Cũng như khơng có
bất kỳ đánh giá nào dành riêng cho văn học Đàng Trong thời điểm này.
Tình hình như thế tiếp tục tái diễn ở bộ giáo trình của Trường Đại học Tổng
hợp Hà Nội (sau này là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, thuộc Đại
học Quốc gia Hà Nội) 1.
Trong cuốn Văn học cổ Việt Nam, Tập II (Thế kỷ XVI - thế kỷ XVII) (Đinh
Gia Khánh - Bùi Duy Tân, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1964), nhóm tác giả khơng có
bất kỳ một nhận định hay một lưu ý đặc biệt nào về sự xuất hiện của vùng văn học
Đàng Trong trên bản đồ văn học Việt. Mặc dù đã dành một mục riêng giới thiệu về
Đào Duy Từ như một gương mặt “tiêu biểu của văn học miền Nam sơng Gianh thế
kỷ XVII”, nhưng ngồi việc cung cấp hiểu biết thông dụng về hai tác phẩm nổi bật

của họ Đào - Ngọa Long cương vãn và Tư Dung vãn, ấn tượng để lại không thực sự
sắc nét. Người đọc khó có thể có những hình dung tổng lược về diện mạo của một
vùng văn học. Về sau, khi tái bản, lập thành bộ giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam,
giai đoạn văn học này gần như được viết lại trong hai tập Văn học Việt Nam thế kỷ
thứ X nửa đầu thế kỷ thứ XVIII (Đinh Gia Khánh - Bùi Duy Tân - Mai Cao Chương,
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Tập I - năm 1978, tập II - năm 1979),
nhưng thành tựu của nhóm tác giả chủ yếu tập trung ở việc khắc họa diện mạo văn
học Đàng Ngoài/ miền Bắc các thế kỷ. Sáng tác của các tác giả Đàng Trong/ miền
Nam vẫn còn là một “vùng đất trống” chưa được “canh tác” kỹ lưỡng. Mặc dù Bùi
Duy Tân khi khảo về “Văn học từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII” đã nhắc
đến khu vực văn học này, thậm chí tần suất nhắc đến các tác giả, tác phẩm Đàng
Trong có phần dày đặc và thường xuyên hơn nhiều cơng trình nghiên cứu khác,
Riêng trong phần trình bày về bộ giáo trình của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chúng tôi không tuân thủ cách sắp
xếp theo trật tự thời gian xuất bản. Để thuận tiện cho tư duy logic, chúng tơi trình bày hai cuốn do Đinh Gia Khánh chủ
biên, khảo về “Văn học cổ Việt Nam (thế kỷ X - thế kỷ XVII)” (xuất bản lần đầu năm 1964) trước cuốn của Hoàng Hữu
Yên - Nguyễn Lộc, khảo về “Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX” (xuất bản lần đầu năm 1962).
Và cũng vì mục đích tương tự, nên chúng tơi trình bày “liền khối” những cuốn sách liên quan trong bộ giáo trình văn
học sử kể trên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chứ không xen kẽ cuốn Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
Tập II: “Văn học lịch triều – Việt văn” của Phạm Thế Ngũ, và Lịch sử văn học Việt Nam sơ giản của nhóm Văn Tân Hồng Phong, dù lượt in đầu tiên là năm 1963, trước cuốn của Hoàng Hữu Yên – Nguyễn Lộc và cuốn của Đinh Gia
Khánh chủ biên.
1

20


nhưng căn bản chỉ coi đó như những cứ liệu cần thiết minh chứng cho “Sự phong
phú về mặt đề tài và thể loại văn học biểu hiện những xu thế mới của xã hội Đại
Việt từ thế kỷ XVI đến nửa đầu thế kỷ XVIII” 1. Và dù rằng Bùi Duy Tân đã khẳng
định: “Nói về văn học trong các thế kỷ này cần chú ý đến lực lượng sáng tác ở
Đàng Trong”, nhưng với cách trình bày về các tác giả, tác phẩm lẩn khuất giữa

đông đảo tác giả - tác phẩm Đàng Ngoài vốn đã quá quen thuộc với nhận thức
thơng thường, người đọc chưa thể có một ấn tượng đặc biệt nào về vùng văn học
Đàng Trong.
Tương tự, trong giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ
XIX (Hoàng Hữu Yên - Nguyễn Lộc, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1962), về sau Nguyễn
Lộc tái bản, chỉnh sửa, bổ sung thành hai tập Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XVIII nửa đầu thế kỷ XIX (NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội,
1976 - 1978)2, chất liệu nghiên cứu chủ yếu là các sáng tác ở Đàng Ngoài. Ngoại
trừ “Tuồng” (chương mười hai) [89, tr. 391 - 420] là chương duy nhất được Nguyễn
Lộc dành riêng để khảo sát về một loại hình văn học - nghệ thuật đặc biệt khởi phát
từ Đàng Trong, còn tất cả các dẫn liệu liên quan đến văn học Đàng Trong khác chỉ
được điểm xuyết một cách sơ sài. Hoàng Hữu Yên khi “Sơ bộ giới thiệu văn học
chữ Hán thế kỷ thứ XVIII và nửa đầu thế kỷ thứ XIX”, đã xếp những sáng tác miêu
tả xã hội Đàng Trong nửa đầu thế kỷ XVIII của Ngô Thế Lân vào “bộ phận thơ văn
chữ Hán ưu tú” [193, tr. 379] và bản thân Ngô Thế Lân cũng được xếp vào lớp “nhà
thơ ưu tú” [193, tr. 384]. Nhưng cũng chỉ có hai bài thơ của ông (Thiệp thế ngâm Từng trải việc đời, Trư điểu đề - Tiếng chim lợn kêu) được dẫn trong phần chú
thích. Cùng với Ngơ Thế Lân, chỉ cịn nhóm Chiêu Anh các với chùm thơ “Hà Tiên
thập vịnh” được nhắc qua khi đề cập đến bộ phận thơ vịnh cảnh [193, tr. 394]. Ngơ
Thế Lân, Hồng Quang cũng được Nguyễn Lộc điểm tên khi trình bày chung về
“Các xu hướng trong văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu
thế kỷ XIX”; đặc biệt, Ngô Thế Lân được đánh giá là “nhà thơ xuất sắc nhất” của
văn học Đàng Trong cuối thế kỷ XVIII [88, tr. 132]. Ngồi những trình bày sơ lược
nhằm chứng minh cho một luận điểm nghiên cứu nào đó (mà chúng tôi vừa kể ở
trên), không một tác giả nào của văn học Đàng Trong được đề cập ở phần viết
Tên các chương mục trong cuốn sách.
Năm 1999, NXB Giáo dục tập hợp hai cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX nói trên và
cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX thành một cuốn Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ XIX.
1
2


21


×