Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

(Luận văn thạc sĩ) tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào việc xây dựng văn hóa việt nam trong tiến trình hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (608.84 KB, 82 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôi chọn vấn đề này làm đề tài luận văn thạc sĩ vì những lý do sau:
Một là: Giao lưu văn hóa là quá trình tiếp xúc, trao đổi và ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các nền văn hóa, giữa các cộng đồng văn hóa khác nhau với
những phương thức sống khác nhau. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện
nay, giao lưu văn hóa giữa các nước trên thế giới lại ngày càng sôi động, Việt
Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế chung đó. Với truyền thống nghìn năm
văn hiến và ln chủ động tiếp thu, chắt lọc giá trị của các nền văn hoá khác
làm giàu nền văn hoá dân tộc đã và đang góp phần bảo vệ và phát triển, nâng
cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Hai là: Hiện nay nước ta đang trong tiến trình đẩy mạnh tồn diện cơng
cuộc đổi mới, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và
hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì hơn lúc nào hết chúng ta cần tận lực
phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc là nền tảng để giao lưu với con
người và văn hóa khác trên thế giới để nhân dân thế giới hiểu thêm về đất
nước, con người Việt Nam đồng thời chúng ta có cơ hội mở rộng thêm tầm
nhìn, lựa chọn tiếp nhận những nhân tố tiến bộ, khoa học và nhân văn trong
kho tàng văn hóa thế giới, xem đó là một trong những động lực quan trọng để
thúc đẩy sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới.
Ba là: Trong sự giao lưu giữa các nền văn hóa của q trình hội nhập,
văn hóa Việt Nam sẽ chịu sự ảnh hưởng của cả mặt tích cực và mặt tiêu cực,
trong đó ảnh hưởng trước hết và mạnh mẽ là văn hóa lối sống, văn hóa giáo
dục. Vì vậy chúng ta phải bảo tồn và phát triển văn hoá truyền thống nhưng
đồng thời phải biết tiếp nhận những giá trị văn hóa của nhân loại vào việc xây

1


dựng văn hóa Việt Nam vừa mang đậm bản sắc dân tộc vừa phù hợp với thời


đại.
Bốn là: Với quan điểm giáo dục là nhân tố quyết định sự phát triển của
đất nước, là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội và hội nhập quốc tế nên Đảng và Nhà nước ta đã coi giáo dục là quốc sách
hàng đầu, là nền tảng cơng nghiệp hố, hiện đại hố; đầu tư cho giáo dục là
đầu tư cho phát triển và giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; giáo
dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài và phải gắn
với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh. Việc
phát triển giáo dục theo hướng hiện đại hoá, nhất là bậc học giáo dục nghề
nghiệp và giáo dục đại học là yêu cầu tất yếu và trọng tâm để nguồn nhân lực
Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và có thể
tham gia thị trường lao động quốc tế.
Với những lý do trên, tơi chọn vấn đề: Tiếp thu giá trị văn hóa của thế
giới vào việc xây dựng văn hóa Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Văn hóa nói chung và bàn về việc giao lưu văn hóa với các nền văn hóa
trên thế giới nói riêng là một lĩnh vực đa dạng đã có nhiều học giả nghiên cứu
ở những khía cạnh khác nhau. Đặc biệt, tác phẩm “Đề cương văn hóa Việt
Nam” của Cố Tổng bí thư Trường Chinh đã nhấn mạnh ba nguyên tắc của
cuộc vận động văn hóa là: “Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa”. Đó
là định hướng cho sự ra đời của nền văn hóa mới.
Trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, xây dựng nền văn hóa
dân tộc được Đảng, Nhà nước đặt ở tầm vĩ mơ để từ đó góp phần giải quyết
các nhiệm vụ thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Vì thế cùng với
việc kế thừa văn hoá truyền thống, phát huy các giá trị văn hóa mới cịn phải
tiếp thu tinh hoa văn hóa các nước trên thế giới để xây dựng nền văn hóa mới
2


là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta đối với cơng

tác văn hóa. Việc trao đổi văn hóa với các nước trên thế giới được chú ý ngay
từ sau hịa bình lập lại, đặc biệt kể từ khi Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới
(1986) đến nay. Đây là một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu
quan tâm. Một số cơng trình tiêu biểu là:
- Nguyễn Trọng Chuẩn: Vấn đề khai thác giá trị văn hóa truyền thống
vì mục tiêu phát triển.
- Mai Thị Quý: Vấn đề kế thừa và phát huy văn hóa truyền thống Việt
nam trong bối cảnh tồn cầu hóa.
- Hồ Sỹ Vịnh: Giao lưu văn hóa thời hội nhập.
- Phạm Thái Việt: Bản sắc văn hóa trong bối cảnh tồn cầu hóa.
- Trần Thị Kim Cúc: Giao lưu văn hóa quốc tế nhìn từ góc độ quản lý.
- Nguyễn Đình Hương: iệt Nam hướng tới nền giáo dục hiện đại.
- Đoàn Duy Lục: Giáo dục đại học Việt Nam.
- Phan Ngọc Liên: Hồ Chí Minh về giáo dục - Tồn thư
Những cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích nhiều vấn đề, dưới
những góc độ khác nhau về vai trò của sự giao lưu, hội nhập văn hóa Việt
Nam với các nền văn hóa trên thế giới. Song việc nghiên cứu vấn đề: Tiếp thu
giá trị văn hóa của thế giới vào việc xây dựng văn hóa Việt Nam trong tiến
trình hội nhập quốc tế ở lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
được đề cập đến dưới góc độ triết học chưa thật đầy đủ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
Xác định một số giá trị hiện đại, phổ biến của văn hóa thế giới trong
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và giải pháp để chủ động tiếp
thu những giá trị đó trong q trình phát triển văn hố giáo dục của Việt Nam
thời kỳ hội nhập quốc tế.
3


* Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích trên luận văn cần giải quyết các vấn đề sau:
- Luận chứng tính tất yếu của việc tiếp thu văn hố thế giới trong tiến
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.
- Xác định các giá trị hiện đại, phổ biến của văn hóa thế giới trong lĩnh
vực giáo dục, đặc biệt là trong giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học mà
Việt Nam cần tiếp thu để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước hiện nay.
- Trên cơ sở phương hướng của Đảng về giáo dục trong thời gian tới và
các vấn đề đặt ra từ thực tiễn giáo dục của nước ta, xác định các giải pháp
mang tính định hướng để tiếp thu các giá trị văn hóa giáo dục của thế giới vào
phát triển văn hoá giáo dục ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu các giá trị hiện đại, phổ biến của văn hóa thế giới ở lĩnh
vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học để tìm ra những giá trị mà Việt
Nam cần tiếp thu trong quá trình phát triển đất nước hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Văn hóa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học của một số nền giáo
dục tiên tiến trên thế giới và của Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNESCO về văn hóa; Tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa
và xây dựng nền văn hóa mới.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn

4


Luận văn sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, cùng các
phương pháp như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, lịch sử - logic, so

sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Xác định một số giá trị hiện đại, phổ biến của văn hóa thế giới trong
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học mà Việt Nam cần tiếp thu
trong quá trình phát triển đất nước.
- Xác định một số giải pháp mang tính định hướng nhằm chủ động tiếp
thu có hiệu quả những giá trị văn hóa giáo dục hiện đại, phổ biến của thế giới
vào việc xây dựng văn hóa giáo dục Việt Nam trong thời kỳ hiện nay.
- Có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy các
chuyên đề về văn hóa trong các nhà trường chuyên nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương, 5 tiết:
Chương 1: Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong q trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam và các giá trị văn hóa của thế giới trong lĩnh vực
giáo dục hiện nay.
Chương 2: Tiếp thu giá trị văn hóa của thế giới vào việc phát triển văn
hóa giáo dục trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.

5


Chương 1
TÍNH TẤT YẾU TIẾP THU VĂN HĨA THẾ GIỚI VÀ CÁC GIÁ TRỊ
VĂN HÓA HIỆN ĐẠI, PHỔ BIẾN CỦA THẾ GIỚI TRONG
LĨNH VỰC GIÁO DỤC HIỆN NAY

1.1. Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong q trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam.
Quan niệm chung về văn hóa và giá trị văn hóa thế giới

* Định nghĩa về văn hóa:
Trong lịch sử, ở phương Đơng cũng như ở phương Tây xuất hiện rất
sớm khái niệm văn hóa. Trung Quốc thời kỳ Cổ đại, văn hóa được hiểu là
cách thức điều hành xã hội của tầng lớp thống trị, dùng “văn hóa” và “giáo
hóa”, dùng cái hay, cái đẹp để giáo dục và cảm hóa con người. Việt Nam gần
600 năm trước, Nguyễn Trãi cũng đã mơ ước một xã hội văn trị, lấy nền tảng
văn hiến cao, lấy trình độ học vấn và trình độ tu thân của mỗi người làm cơ sở
cho sự phát triển hài hịa của xã hội.
Ở phương Tây, văn hố bắt nguồn từ tiếng Latinh, có nghĩa là vun
trồng, tạo ra những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu của con người. Khái niệm
văn hóa về sau phát triển ngày càng phong phú. Đến nay đã có mấy trăm định
nghĩa khác nhau về văn hóa. Tuỳ cách tiếp cận khác nhau, mục đích khác
nhau mà người ta nghiên cứu đưa ra định nghĩa văn hoá hoặc lựa chọn sử
dụng định nghĩa đã có cho mục đích nghiên cứu của mình. Tuy các định nghĩa
khác nhau, nhưng đều thống nhất ở một điểm, coi văn hóa là cái do con người
sáng tạo ra, cái đặc hữu của con người. Mọi thứ văn hóa đều là văn hóa thuộc
về con người, các thứ tự nhiên khơng thuộc về khái niệm văn hóa. Văn hóa là
đặc trưng căn bản, phân biệt con người với động vật, cũng là tiêu chí căn bản
để phân biệt sản phẩm nhân tạo và sản phẩm tự nhiên.
6


Mỗi nhà nghiên cứu khi nghiên cứu về văn hóa đều xuất phát từ những
cứ liệu riêng, góc độ riêng, mục đích riêng cho phù hợp với vấn đề mình cần
nghiên cứu để đưa ra các định nghĩa về văn hoá nên việc xác định khái niệm
văn hoá là rất khó và khơng đơn giản. Vì vậy khi tiếp cận về văn hố, tuỳ vào
mục tiêu, mục đích cụ thể mà người nghiên cứu có thể dựa vào các cách tiếp
cận khác nhau, những định nghĩa khác nhau về văn hóa. Do đó, khi xét mối
tương quan giữa văn hố và xã hội chúng ta có thể lựa chọn ra bốn cách tiếp
cận chủ yếu là: Tiếp cận giá trị học, tiếp cận hoạt động, tiếp cận nhân cách và

tiếp cận ký hiệu học. Tuy có sự khác nhau ở bốn góc tiếp cận này nhưng tất cả
các cách tiếp cận đều dựa trên những nguyên tắc chung. Đó là dựa trên mối
quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, dựa trên hình thái kinh tế-xã hội
và những nguyên tắc hoạt động mà triết học Mác - Lênin đã xác định: nguyên
tắc thực tiễn.
Ở bốn cách tiếp cận trên thì cách tiếp cận văn hố ở góc độ giá trị học
có lịch sử từ rất lâu đời, đa dạng và đến nay vẫn thể hiện vai trị quan trọng
của mình. Cách tiếp cận theo góc độ này khơng chỉ thâm nhập vào triết học
mà cịn có cả lý luận văn hoá, mỹ học, đạo đức học cùng nhiều bộ môn khoa
học khác và đã nổi lên những cuộc tranh luận gay gắt đến tận bây giờ. Khi
tiếp cận văn hố ở khía cạnh giá trị học đã thể hiện được sự tìm kiếm bản chất
của văn hoá theo ba cấp độ đối tượng: cấp độ vật chất, cấp độ chức năng và
cấp độ hệ thống. Việc mơ tả văn hố như thế giới các đồ vật được con người
sáng tạo ra và sử dụng trong quá trình lịch sử là cấp độ tương ứng với cấp độ
vật chất của đối tượng. Iu.V.Brômlây và R.C.Pađôlưi đã khẳng định trong
cơng trình: " Được sáng tạo bởi nhân loại" là " Văn hoá trong ý nghĩa rộng rãi
nhất của từ này, đó là cái đã và đang được tạo ra bởi nhân loại". Hoặc theo
Trần Ngọc Thêm: "Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh
thần do con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn,
trong sự tương tác giữa con nguời với môi trường tự nhiên và xã hội" [31]
7


Tóm lại, xem xét mối tương quan giữa văn hố và xã hội trên bình diện
phương pháp luận ta có thể đưa ra bốn cách tiếp cận về văn hóa như đã nêu
trên. Từ bốn cách tiếp cận về văn hố đó mà ta có những định nghĩa khác
nhau về văn hoá. Ta xem xét ở cách tiếp cận nào thì có định nghĩa về khái
niệm văn hố phù hợp. Ở từng khái niệm văn hố đều có khía cạnh khác nhau
và mỗi định nghĩa có những điểm mạnh, điểm yếu vì vậy ta có thể chỉ đề cập
đến khía cạnh này mà bỏ qua khía cạnh khác của khái niệm văn hố. Do đó,

nhiệm vụ của chúng ta là khi nghiên cứu về văn hoá phải xuất phát từ đối
tượng nghiên cứu mà chọn định nghĩa cho phù hợp, để qua đó giúp chúng ta
làm rõ được nội dung cần nghiên cứu và làm cho hướng nghiên cứu thuận lợi
và hiệu quả hơn. Nhưng dù các định nghĩa có khác nhau đi chăng nữa thì nó
cũng có những điểm chung nhất định đó là văn hố là cái do con người sáng
tạo ra và mọi thứ văn hoá đều thuộc về con người.
Với nội dung như vậy nên theo hướng nghiên cứu của mình tơi đã sử
dụng định nghĩa về văn hoá như sau:
"Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần được
sáng tạo, tích luỹ trong lịch sử nhờ q trình hoạt động thực tiễn của con
người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận hành trong đời sống
xã hội, được xã hội giữ gìn, trao chuyển cho thế hệ sau. Văn hố thể hiện
trình độ phát triển và những đặc tính riêng của mỗi dân tộc” [31, tr.20].
* Giá trị văn hố thế giới.
Văn hóa là những giá trị được chọn lọc và thẩm thấu rất sâu rộng trong
đời sống thực tiễn, trước hết là thực tiễn tồn tại và phát triển của con người.
Mặt khác, hoạt động tạo ra giá trị nên tiếp cận văn hóa từ hoạt động gắn liền
với tiếp cận văn hóa từ giá trị. Chỉ những hoạt động sáng tạo, tích cực, hướng
tới sự phát triển và tiến bộ mới được coi là hoạt động văn hóa. Do đó, về
phương diện giá trị, cái gọi là văn hóa phải đi liền với những giá trị đích thực,
những chân giá trị (chân - thiện - mỹ). Cần phải khẳng định rằng, văn hóa chỉ
8


dùng để nói về những gì tốt đẹp, đúng đắn, hướng tới phát triển và hồn thiện
nhân tính. Những gì đối lập với nó khơng thể gọi là văn hóa và giá trị văn
hóa.
Giá trị văn hố là những giá trị do con người sáng tạo ra và phải được
cộng đồng chấp nhận. Vì vậy ta có thể nói rằng giá trị văn hoá thế giới là
những giá trị thuộc về lĩnh vực vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra

và nhằm phục vụ con người, được mọi dân tộc trên thế giới công nhận và
hướng vào đó để học tập, tiếp thu, vận dụng vào dân tộc mình. Hơn nữa
những giá trị của văn hố thế giới là những giá trị tinh hoa của nhân loại được
kết tinh trong cuộc sống và được các tổ chức trên thế giới thừa nhận.
1.1.2. Tính tất yếu tiếp thu văn hóa thế giới trong q trình hội nhập
quốc tế của Việt Nam
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, Đảng ta đã khẳng định văn hóa là
nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực để thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển. Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội bởi vì văn
hố thể hiện sức sống, sức sáng tạo phát triển và bản lĩnh của một dân tộc.
Văn hoá có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị. Xây
dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu cuối cùng là văn hố, vì văn
hố có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người - nguồn nhân lực
quyết định sự phát triển xã hội. Trong Nghị quyết Hội nghị TW5 (Khoá VIII)
Đảng ta khẳng định: Văn hóa Việt Nam là tổng thể những giá trị vật chất và
tinh thần do cộng đồng các dân tộc Việt Nam sáng tạo ra trong quá trình dựng
nước và giữ nước…, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền
văn minh thế giới để khơng ngừng hồn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã
hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ
vang của dân tộc. Trong Nghị quyết Hội nghị đã nêu lên khái niệm văn hoá
trong một nội hàm rộng, bao quát đời sống tinh thần nói chung, tập trung vào
9


những lĩnh vực lớn: tư tưởng, đạo đức, giao lưu văn hoá với thế giới, các thể
chế và thiết chế văn hoá. Con người vừa là chủ thể của sự sáng tạo vừa là sản
phẩm của văn hoá. Trong quá trình vận động và phát triển, các quốc gia đều
xây dựng và phát triển các giá trị văn hoá của dân tộc mình, bảo lưu và truyền
đạt cho thế hệ tiếp nối, tạo thành một dòng chảy liên tục của lịch sử văn hóa
dân tộc. Các giá trị văn hóa này được kết tinh ở truyền thống văn hoá dân tộc

và được biểu hiện sinh động ở các giá trị văn hoá phi vật thể cùng phương
thức ứng xử của con người trong hoạt động thực tiễn. Toàn bộ các giá trị đó
tạo thành nền tảng tinh thần của dân tộc, là cơ sở liên kết và đúc kết các thế
hệ, tạo nên sức sống của một dân tộc, tạo nên bản sắc và bản lĩnh của dân tộc
trong cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng đất nước.
Văn hoá là kết quả của kinh tế, đồng thời là động lực của phát triển
kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống hoạt động xã
hội trên mọi phương diện giá trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương, biến
thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển.
Văn hoá là mục tiêu của sự phát triển, bởi văn hoá là đại diện cho trình
độ văn minh, là thước đo phẩm giá con người. Tuy nhiên xã hội khơng có
những cá nhân có những phẩm giá ngang nhau mà có người tốt, có người xấu,
hơn nữa trong mỗi con người bao giờ cũng có hai mặt: mặt tốt và mặt xấu.
Văn hố có trách nhiệm kích thích mỗi con người phát huy mặt tốt, kiềm chế
mặt xấu. Trong cuộc sống của mình con người bị môi trường xã hội tác động
mạnh mẽ. Dân gian đã đúc kết:“Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”. Hồ Chí
Minh cũng cho rằng: “Lúc ngủ ai cũng như lương thiện, tỉnh dậy phân ra kẻ
dữ hiền”. Ở đây, văn hố có vai trị điều tiết hành vi, mối quan hệ giữa người
với người bằng hệ giá trị và chuẩn mực xã hội. Sự điều tiết đó phải hướng tới
mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống, vì hạnh phúc của con người, nối dài

10


cuộc sống, an sinh xã hội, điều tiết các mối quan hệ hướng tới sự cơng bằng
xã hội.
Văn hóa là động lực của sự phát triển vì văn hố có vai trị trong sự
phát triển kinh tế - văn hóa xã hội, bởi lẽ mọi sự phát triển đều do con người
quyết định chi phối. Văn hóa khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo
của con người, huy động sức mạnh nội sinh to lớn trong con người đóng góp

vào sự phát triển xã hội.
Trước đây, để phát triển kinh tế, người ta thường nhấn mạnh và khai
thác yếu tố lao động của con người cho sự phát triển. Ngày nay, trong điều
kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, yếu tố quyết định
cho sự phát triển là trí tuệ, là thơng tin, là sáng tạo và đổi mới không ngừng
nhằm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao, đáp ứng nhu
cầu đa dạng và phong phú của mỗi người cũng như của toàn xã hội.
Trong thời đại ngày nay, một nước giàu hay nghèo không chỉ ở chỗ có
nhiều hay ít lao động, vốn, kỹ thuật và tài nguyên thiên nhiên, mà chủ yếu ở
chỗ có khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực
con người hay không? Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu
thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự lực, tự cường và khả năng hiểu biết,
trong tâm hồn, đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả
cộng đồng.
Một chính sách phát triển đúng đắn là chính sách làm cho các yếu tố
cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người:
văn hóa trong sản xuất, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong lối sống, văn hóa
trong giao tiếp, văn hóa trong sinh hoạt gia đình và ngồi xã hội, văn hóa
trong giao lưu và hợp tác quốc tế… Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, hàm
11


lượng văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống con người càng cao bao nhiêu
thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.
Vì vậy giao lưu văn hố và tiếp thu những giá trị văn hoá là tất yếu và
đặc biệt quan trọng, trong bối cảnh nước ta tham gia vào quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng. Tiếp thu văn hóa là sự bổ sung các giá trị văn hố
giữa các dân tộc. Thơng qua q trình này mà mỗi nền văn hố dân tộc có dịp
quảng bá các giá trị văn hố của riêng mình ra ngồi phạm vi truyền thống và
đồng thời tiếp nhận những giá trị mới từ các nền văn hoá khác mà vẫn khơng

làm phương hại đến bản sắc văn hố của mỗi dân tộc.
Sự giao lưu văn hóa thế giới là một trong những động lực quan trọng
nhất của sự phát triển và là điều kiện tiên quyết để phát huy năng lực sáng tạo
độc đáo trong quá trình sản xuất các giá trị mới về vật chất cũng như về tinh
thần. Xây dựng đất nước Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay,
việc tiếp thu những giá trị văn hố của thế giới là tất yếu vì bởi những lý do
sau:
Thứ nhất: nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội vừa kết tinh truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh
hoa của văn hóa nhân loại, nhằm khẳng định được tầm vóc, trình độ, bản lĩnh
và bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lưu và hợp tác quốc tế.
Quá trình mở cửa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, Đảng ta đã khẳng định hội nhập quốc tế là xu thế khách quan để đẩy
mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, tạo điều kiện thuận lợi cho đổi
mới tư duy về kinh tế, tạo cơ hội trong quá trình đổi mới tư duy về văn hoá và
mở rộng giao lưu văn hoá trong xu thế hội nhập quốc tế. Đây là cơ hội rất lớn
để chúng ta xem xét, đánh giá vai trị của văn hóa trong phát triển kinh tế - xã
hội, gắn kết chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa với nhiệm vụ
12


phát triển kinh tế và xây dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị, khai thác văn
hóa như một động lực, như một nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đặc
biệt trong thời kỳ kinh tế thị trường và xã hội thông tin, khoa học - công nghệ,
thì sự sáng tạo văn hóa trở thành nguồn lực trực tiếp thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển. Hội nghị lần thứ 10 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá
IX ) đã khẳng định: “phát triển văn hóa gắn liền với phát triển kinh tế và xây
dựng Đảng, củng cố hệ thống chính trị”. Đảm bảo thực hiện tốt ba lĩnh vực
trên là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Thứ hai: chúng ta đều biết, hội nhập quốc tế là cơ hội tốt để nước ta
tiếp cận và tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, nhằm làm phong phú thêm nền
văn hoá dân tộc - hiện đại, đậm đà bản sắc của người Việt Nam và tạo cơ hội,
khả năng tiếp xúc, giao lưu; làm xích lại gần nhau và hiểu biết lẫn nhau giữa
các dân tộc, qua đó góp phần nâng cao dân trí và tự khẳng định mình trước
cộng đồng quốc tế. Trước đây, nhiều người trên thế giới mới chỉ biết đến Việt
Nam như một đất nước có chiến tranh liên miên và dân tộc Việt Nam đã giành
thắng lợi to lớn trong các cuộc chiến tranh đó. Ngày nay, nhờ mở rộng việc
giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế mà thế giới đã biết đến Việt Nam như
một đất nước u chuộng hịa bình, yêu độc lập, tự do, tôn trọng công lý,
khoan dung, đầy năng động với một kho tàng các giá trị văn hóa vật thể và
phi vật thể hết sức phong phú, đầy bản sắc riêng. Vì vậy hội nhập là một xu
thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các quốc gia. Chủ động để hội nhập là
một thái độ tích cực, khơn ngoan, là khẳng định đường hướng có chiến lược,
có chiến thuật, có kế hoạch cho từng bước đi. Chủ động hội nhập sẽ khai thác
được nhiều nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc có nhiều lợi ích
nhất, hạn chế được đến mức thấp nhất những thách thức, những tiêu cực nảy
sinh. Công cuộc đổi mới của đất nước ta gần 25 năm qua chính là sự chủ động
hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự

13


hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển
khá cao, cơ cấu kinh tế được dịch chuyển theo hướng tích cực phát triển công
nghiệp và dịch vụ, tốc độ hiện đại hố cơ sở hạ tầng, khoa học cơng nghệ với
những bước đi dài... tất cả đã tạo điều kiện chín muồi để Việt Nam vững bước
trên tiến trình hồ nhập thương mại quốc tế trở thành thành viên của WTO.
Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình hội nhập văn hố cũng là một tất
yếu khách quan. Tiến trình giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn hoá không

tách rời mà đồng thời và bổ sung cho nhau nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì
đất nước sẽ chậm thốt nghèo. Cịn coi nhẹ hội nhập văn hố đơi khi lại nguy
hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn hố khác đồng hố. Vì vậy tồn cầu hoá,
hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy nhanh tốc độ tăng
trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo nên những thách thức không nhỏ về văn
hoá.
Mặt khác trong bối cảnh quốc tế hiện thời, trào lưu hội nhập quốc tế
không chỉ mang lại thời cơ lớn mà cịn tạo ra những thách thức khơng nhỏ đối
với tất cả các quốc gia, đặc biệt là với các nước đang phát triển. Hội nhập
đang đặt chúng ta trước những thách thức lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, nhất là lĩnh vực văn hoá. Đảng và nhân dân Việt Nam nhận thức sâu
sắc rằng, đối với một nước đang phát triển như nước ta thì thách thức nhiều
hơn thời cơ, khó khăn hơn nhiều hơn thuận lợi. Trong xu thế toàn cầu hiện
nay, văn hố Việt Nam có cơ hội nhập và giao lưu với các nền văn hoá khác
của thế giới để làm giàu và khẳng định bản sắc của mình. Song hơn lúc nào
hết, đây cũng là giai đoạn mà các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
phải đối diện với những tác động tiêu cực của tồn cầu hố, của hội hội nhập
quốc tế như là một tất yếu khách quan; nó địi hỏi chúng ta phải mở cửa, giao
lưu với cộng đồng thế giới để đón nhận và tiếp thu những giá trị mới, tiến bộ
của nhân loại. Tuy nhiên một dân tộc nào đó sẽ khơng cịn là chính mình nếu

14


đánh mất bản sắc văn hố dân tộc. Theo đó hội nhập quốc tế và giữ gìn bản
sắc văn hố dân tộc là những đòi hỏi tất yếu, khách quan để một dân tộc có
thể tồn tại và phát triển trong xu thế tồn cầu hố.
Q trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và tham gia hội nhập
quốc tế đã tạo cho nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển đáng kể, đời sống
vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, có mặt được nâng cao và điều

này đã có tác động tích cực đối với việc đảm bảo sự ổn định chính trị - xã hội.
Xét từ phương diện văn hoá, hội nhập quốc tế đang tác động mạnh mẽ tới
những giá trị truyền thống tốt đẹp - cái làm nên bản sắc văn hố riêng của tất
cả các dân tộc, trong đó có dân tộc Việt Nam. Một mặt nó góp phần nâng cao
trình độ tư duy khoa học của xã hội cơng nghiệp, thể hiện ở việc phổ biến các
giá trị văn hố cơng nghiệp, văn hố thơng tin cùng các hoạt động và loại hình
văn hố mới phục vụ cho việc nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân và
qua đó, góp phần làm giàu thêm, phong phú thêm các giá trị văn hoá Việt
Nam truyền thống nhưng cũng là thách thức lớn đối với Việt Nam là làm thế
nào để nền văn hố dân tộc vừa có thể tiếp thu được các giá trị thời đại, tinh
hoa văn hoá nhân loại, vừa có thể giữ được bản sắc dân tộc vốn có; tiếp tục
phát triển trong sự giao lưu với cộng đồng thế giới mà khơng bị hồ tan,
khơng bị nhấn chìm các nền văn hố khác hoặc trở thành cái bóng mờ của dân
tộc khác, nền văn hố khác.
Thứ ba: trong tiến trình hội nhập quốc tế bên cạnh sự phát triển khoa
học công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin đã tạo ra những cơ
hội, trở thành cầu nối cho các quốc gia, dân tộc mở rộng giao lưu, sự hiểu biết
và xích lại gần nhau hơn. Chính nhờ cơ hội này mà nền văn hố Việt Nam có
điều kiện để giao lưu rộng rãi với nhiều nền văn hoá khác trên thế giới. Thơng
qua đó, con người Việt Nam có điều kiện học tập, tiếp thu những giá trị, tinh

15


hoa văn hoá của các dân tộc để làm phong phú thêm nền văn hố của dân tộc
mình.
Đồng thời, thơng qua hội nhập quốc tế, các dân tộc có thể thấy được cả
những giá trị truyền thống cần phải bảo tồn, cần được phát huy, lẫn những
hạn chế của những truyền thống có khả năng cản trở sự tiến bộ. Tuy nhiên,
cũng chính q trình hội nhập quốc tế hiện nay, dưới áp lực và do sự áp đặt

của một số nước giàu, do sức lan truyền của những phản giá trị nhờ các
phương tiện truyền thông hiện đại, mà khơng ít những giá trị truyền thống lâu
đời của các dân tộc, hoặc các giá trị có tính chất chung khu vực, đang đứng
trước những thách thức, đang có nguy cơ bị xói mịn. Vì vậy, nhiệm vụ bảo vệ
và làm phong phú thêm các giá trị truyền thống bằng cách tiếp thu có chọn lọc
giá trị của các nền văn hóa khác cũng có tầm quan trọng giống như các biện
pháp nhằm chống lại sự đồng hóa thơng qua sức mạnh mềm của các nền văn
hóa của những nước đang có nhiều lợi thế.
Trong điều kiện như hiện nay, nếu biết kết hợp hài hòa các giá trị
truyền thống với các giá trị hiện đại trên cơ sở bảo tồn bản sắc văn hóa dân
tộc, giữ lấy những gì là tinh hoa, loại trừ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường
giao lưu với bên ngồi thì sẽ vượt qua được những thách thức, sẽ khơi dậy
được vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến bộ
xã hội. “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát
huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ
và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc”, có thể coi đây là một giải pháp hữu hiệu để
phát huy vai trò động lực của các giá trị truyền thống cho sự phát triển và tiến
bộ xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ tư: phải thấy rằng, hội nhập quốc tế hiện nay là một quá trình đi
lên của lịch sử nhân loại, cho nên, sẽ là sai lầm nếu có một nước nào đó tự
16


mình tách ra đứng ngồi tồn cầu hóa, từ chối hợp tác, hội nhập hoặc đóng
cửa với thế giới. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề sự phát triển chung và sự tiến bộ
của lịch sử các nước, căn cứ vào mục tiêu phát triển và khả năng thực tế của
mình, mà đề ra chính sách hội nhập quốc tế một cách có lợi nhất trong điều
kiện tồn cầu hóa hiện nay. Hội nhập với thế giới, tranh thủ tối đa các cơ hội
do tồn cầu hóa hiện nay mang lại là cách tốt nhất để các dân tộc, các quốc

gia cùng tiến bước, cùng phát triển. Đây cũng là cách có hiệu quả giúp cho
các nước chậm tiến thực hiện con đường phát triển rút ngắn, có cơ may thu
hẹp khoảng cách và từng bước đuổi kịp các nước tiên tiến về kinh tế. Bài học
của các nước công nghiệp mới ở châu Á (NICs) là minh chứng rõ ràng nhất
cho điều vừa nói. Qua những bài học đó, từ khi tiến hành công cuộc đổi mới,
Việt Nam đã dứt khốt chọn cho mình một con đường hội nhập quốc tế và
khu vực trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay.
Trái lại, có một số nước bảo thủ, quá lo sợ những tác động tiêu cực của
mở cửa của hội nhập quốc tế đến tình hình chính trị ở trong nước nên đóng
cửa với thế giới, kết quả là họ gặp phải vơ vàn khó khăn, khơng chỉ nghèo và
tụt hậu về kinh tế, mà còn lạc hậu về văn hóa, khoa học, kỹ thuật và cơng
nghệ. Dù ở thời nào chăng nữa thì sự biệt lập hồn tồn với thế giới cũng đều
mang lại những hậu quả trái với mong muốn của những người chủ trương tiến
hành sự biệt lập đó. Biệt lập tuyệt nhiên khơng đưa lại sự phồn vinh về văn
hóa, cũng khơng làm tăng thêm các giá trị văn hoá.
Như chúng ta biết, thời cổ đại, trong khi Athens, nhờ việc mở rộng cửa
đón mọi ảnh hưởng từ khắp các nơi, đã trở thành biểu tượng của sự phồn vinh
về mọi mặt như nghệ thuật, triết học, chính trị, sử học, và nói chung về các
giá trị văn hóa, thì Sparte, vì cố chấp để giữ những nét độc đáo của mình, đã
ngăn cấm ảnh hưởng từ bên ngoài, nên trở thành thành phố duy nhất của Hy
Lạp khơng có lấy một nhà tư tưởng, một nhà văn hóa có khả năng tạo nên một
17


giá trị văn hóa hay khoa học có tiếng nào. Chẳng hạn, Myanma ở châu Á,
Anbani ở châu Âu, đã tự cơ lập mình đến mức cực đoan vì sợ những ảnh
hưởng và tác động từ bên ngoài vào làm xói mịn các giá trị dân tộc, đồng thời
cũng cịn vì sợ chế độ chính trị bị lung lay do các tác động từ bên ngồi. Hậu
quả là văn hóa và khoa học của các nước này đã bị lạc hậu thảm hại, mà thậm
chí có người cịn cho là tàn lụi một cách tuyệt đối. Ở Việt Nam, Hồ Chí Minh

đã nói trong Hội nghị văn hóa tồn quốc lần thứ nhất ngày 24/11/1946 là:
“Văn hóa Việt Nam là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hóa Đơng phương và Tây
phương chung đúc lại….”. Có cái gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hóa
Việt Nam. Như vậy tiếp thu văn hóa nhân loại, của cả kim cổ Đông Tây là
một vấn đề lớn trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh. Nhưng đây khơng phải
là sự tiếp thu xô bồ mọi thứ của thiên hạ, mà có chọn lọc những cái hay, cái
tốt, cái đẹp để làm giàu thêm cho văn hóa dân tộc. Như Hồ Chí Minh quan
niệm, trong nền văn hóa Việt Nam có sự chung đúc lại những tinh hoa văn
hóa Đơng phương và Tây phương. Có nghĩa là nền văn hóa Việt Nam do dân
tộc Việt Nam tạo dựng không chỉ từ những yếu tố nội sinh, mà còn kết hợp
với sự chiếm lĩnh, thâu tóm những giá trị của nhiều nền văn hóa khác. Là
người mở đường cho việc xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, là nhà văn
hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu nhất của sự kế thừa truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, kết hợp với việc tiếp thu văn hóa nhân loại,
kết hợp tính dân tộc với tính nhân văn trong văn hóa đặc biệt trong thời kỳ đất
nước ta mở rộng giao lưu quốc tế, hội nhập khu vực và thế giới. Do vậy, có
đầy đủ cơ sở để nói rằng, trong thời đại chúng ta, hợp tác và hội nhập quốc tế
đang là mệnh lệnh, là thước đo khả năng thích nghi của một dân tộc, tầm nhìn
và năng lực quản lý đất nước của các chính phủ đương quyền vì mục tiêu phát
triển.

18


1.2. Các giá trị văn hóa hiện đại, phổ biến của thế giới trong lĩnh
vực giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
1.2.1. Giáo dục nghề nghiệp
Giáo dục nghề nghiệp là một bộ phận quan trọng trong việc đào tạo
chuyên nghiệp cho người học vì mục tiêu chung trong việc học tập của từng
cá nhân là để có một nghề nghiệp sinh sống. Tuỳ theo khả năng, năng lực của

từng cá nhân và yêu cầu của xã hội mà người học có thể học nghề từ thấp đến
cao. Nghề nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả sơ cấp, trung cấp và cao cấp ở
trình độ đại học và sau đại học.
Phần lớn các nước coi giáo dục nghề nghiệp là sự gắn kết với các
ngành nghề trong xã hội ở các trình độ khác nhau. Người học sau khi hồn
thành chương trình giáo dục nghề nghiệp có thể tiếp tục tham gia thị trường
lao động theo ngành nghề đã học. Người ta có thể học tiếp cao hơn ngành
nghề của mình hoặc chuyển sang học ngành nghề khác theo yêu cầu của cuộc
sống. Các nước thực hiện giáo dục nghề nghiệp rất đa dạng và mềm dẻo với
các chương trình đào tạo nghề chính quy, đào tạo trước khi tuyển dụng vào
làm việc, đào tạo lại và có thể học tại chức, từ xa.
Ngày nay do sự phát triển của công nghệ với nhiều ngành nghề chuyên
sâu, đặc biệt là hệ thống ngành nghề kĩ thuật, giáo dục nghề nghiệp của hầu
hết các nước trên thế giới gắn chặt với giáo dục phổ thông và đại học. Bên
cạnh giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp được thực hiện trong nhà
trường cho học sinh trong độ tuổi để có thể học xong văn hố phổ thơng và có
tay nghề tham gia vào thị trường lao động.
Phần lớn các nước coi giáo dục nghề nghiệp theo phạm trù rộng và nằm
trong hệ thống, liên thông với nhau từ thấp đến cao, tạo cơ hội việc làm và
giáo dục suốt đời cho mọi người kể cả nhận thức tư duy và hành động thực tế.

19


Cơ cấu trình độ của hệ thống giáo dục nghề nghiệp của các nước có thể
phân làm hai loại khác nhau về thời gian ra đời và cách giáo dục của từng
loại. Loại giáo dục nghề nghiệp điển hình thứ nhất là của nước Pháp và các
nước nói tiếng Pháp và mơ hình loại giáo dục nghề nghiệp điển hình thứ hai là
của nước Anh, nước Mỹ.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp của Pháp:

Giáo dục nghề nghiệp của nước Pháp đã có lịch sử trên một trăm năm,
và các trường kĩ nghệ thực hành kiểu Pháp thành lập tại Việt Nam ở Huế, Hà
Nội, Sài gịn, đã có từ lâu. Nội dung giáo dục nghề nghiệp nói chung của
Pháp là nhấn mạnh trước tiên ở cá nhân con người hoàn thiện về mặt tinh thần
và trí tuệ. Con nguời tự chủ có năng lực được coi là mực thước để đương đầu
với mọi thách thức thông qua sự rèn luyện của bản thân mình trong một nền
giáo dục hiện đại. Nhà trường giúp con người phát triển cá nhân thông qua sự
giáo dục chuyên nghiệp sớm. Chiến lược giáo dục của Pháp trước hết mở
rộng giáo dục tiểu học để mọi người biết chữ có thể tư duy thực sự và tiến tới
một sự hiểu biết cơ sở về toàn bộ cuộc sống (văn hố phổ thơng).
Cơ cấu hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở Pháp đã thay đổi theo các thời
kỳ thích hợp với nền kinh tế của đất nước. Giáo dục nghề nghiệp ở nước Pháp
được thực hiện trong các loại hình trường lớp từ trình độ thấp lên trình độ
cao. Ví dụ, trường trung học nghề, viện đại học công nghệ... Trường trung
học nghề tuyển học sinh đã học xong lớp đệ tam, tương đương với lớp 9 ở
nước ta. Ngay khi bước vào lớp đệ tứ tương đương với lớp 10 ở nước ta học
sinh được phân làm hai luồng: phổ thông và công nghệ. Những học sinh được
đi theo luồng công nghệ mới vào học trường trung học nghề, để sau này chủ
yếu ra làm thợ. Phần đông đi theo luồng phổ thông để sau này chủ yếu học lên
cao đẳng hoặc đại học. Trong trường trung học kỹ thuật có thể có ban kỹ thuật
viên cao cấp, tuyển sinh chủ yếu những người có bằng tú tài nghề, nhằm đào
20


tạo kỹ thuật viên cấp cao. Viện đại học công nghệ tuyển sinh những người có
bằng tú tài nghề, tú tài công nghệ hoặc bằng kỹ thuật viên đào tạo hai năm để
trở thành cán bộ kĩ thuật viên cấp cao. Các loại văn bằng, chứng chỉ trong
giáo dục nghề nghiệp ở nước Pháp có các loại văn bằng:
- Bằng học nghề BET: học sinh lấy được bằng này sau khi học xong hai
năm: năm thứ nhất học ở lớp đề nhị nghề, năm thứ hai học ở lớp kết thúc

bằng học nghề, sau đó có thể ra làm thợ. Tuy nhiên, có một con đường liên
thơng ngang từ năm thứ hai sang luồng phổ thông, học sinh trường trung học
nghề học hết lớp đệ nhị có thể chuyển sang học lớp đề nhất thích nghi, sau đó
học lớp tốt nghiệp giáo dục phổ thông để lấy bằng tú tài công nghệ hoặc bằng
kỹ thuật viên. Cả hai bằng này đều là điều kiện để học tiếp lên cao đẳng và
đại học, trong đó thời gian đào tạo kỹ năng nghề khơng nhiều. Có bằng kỹ
thuật viên, người tốt nghiệp có thể ra làm việc ngay trong một số ngành nghề.
- Chứng chỉ năng lực nghề: học sinh lấy được bằng này sau khi học
xong ba năm và chủ yếu ra làm thợ. Có chứng chỉ năng lực nghề có thể
chuyển sang lớp đệ nhất nghề, sau đó học lớp kết thúc giáo dục nghề để lấy
bằng tú tài nghề.
- Bằng tú tài nghề: học sinh lấy bằng này sau khi học xong ba năm (đệ
nhị nghề, đệ nhất nghề và kết thúc nghề), có thể học lên tiếp cao đẳng, đại học
và ra làm nghề.
Nhìn chung, giáo dục nghề nghiệp và văn bằng chứng chỉ ở Pháp có thể
chia ra làm ba trình độ:
+ Thợ lành nghề hay kỹ thuật viên
+ Kỹ thuật viên cấp cao
+ Kỹ thuật viên cấp cao chun mơn hố
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở Anh, Mỹ

21


Hệ thống giáo dục nghề nghiệp ở nước Anh ra đời theo yêu cầu mới
của thị trường lao động đối với cơng nhân và kỹ thuật viên các cấp trình độ.
Cùng với sự thay đổi xã hội, kinh tế và cơng nghệ, địi hỏi đào tạo nghề và kỹ
thuật phải có tính năng động, mềm dẻo linh hoạt và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu
của người sử dụng lao động. Cơ sở đào tạo nghề là dựa trên năng lực thực
hiện. Kết quả học tập cần đạt được thể hiện bằng khái niệm năng lực thực

hiện. Đào tạo nghề dựa trên năng lực thực hiện có quan hệ chặt chẽ với sự
phát triển của mơ đun hóa q trình đào tạo nghề. Giáo dục nghề nghiệp của
Anh và Mỹ gần giống nhau.
Khái niệm mô đun trong giáo dục và đào tạo lần đầu tiên năm 1869 ở
Trường Đại học Harvard nước Mỹ do Hiệu trưởng trường lúc đó là Eliot đưa
ra, với mục đích cho sinh viên có khả năng tự chọn các học phần thích hợp
với mình nhưng vẫn phải đảm bảo khối lượng và trình độ học tập. Đến những
năm 50 của thế kỷ XX sau những nghiên cứu về phương pháp dạy học
chương trình hố của B F.Skinner, khái niệm mô đun mới được phổ biến rộng
rãi trong nhà trường của Mỹ. Hàng thập kỷ sau nguyên tắc mơ đun mới được
đưa vào đào tạo nghề, thí dụ ở nước Anh đó là năm 1968. Theo nguyên tắc
này các học phần có thể chuyển đổi được cho nhau. Mỗi trình độ trong một hệ
thống giáo dục nghề nghiệp bao gồm một số nhất định các học phần chuyển
đổi, và như vậy để đạt được một trình độ khơng có quy định trước một khố
học hay một chương trình đào tạo nào theo năm học. Mỗi trình độ trong hệ
thống giáo dục nghề nghiệp tương ứng với một trình độ của năng lực thực
hiện.
Hệ thống văn bằng chứng chỉ của giáo dục nghề nghiệp ở nước Anh
với tên gọi là National Vocational Qualifications (NVQ) bắt đầu áp dụng ở
nước Anh, xứ Wales và Bắc Ailen vào những năm 80 của thế kỷ XX. Theo
nguyên tắc kể trên, người ta đưa ra nguyên tắc khái niệm kiểm định quá trình
22


học trước, liên quan đến toàn bộ phương thức học tập và kiểm tra đánh giá kết
quả học tập. Người ta không quy định năng lực thực hiện để đạt được một lúc,
miễn là sau khi qua một kiểm tra đánh giá được xác nhận đã đạt trình độ đó.
Như vậy, kiểm định q trình học trước được tích hợp rất chặt chẽ trong mơ
hình của NVQ.
Việc đưa hệ thống NVQ là một sự cải cách rất rộng lớn trong hệ thống

giáo dục ở nước Anh vì nó khơng chỉ liên quan đến đào tạo nghề. Riêng trong
lĩnh vực dào tạo nghề, mơ hình NVQ một mặt tạo nên cơ sở cho việc tiêu
chuẩn hoá các văn bằng chứng chỉ đào tạo nghề, mặt khác các khả năng kiểm
định quá trình học trước (APL) có thể làm giảm đi tỷ lệ những người công
nhân lao động đơn giản không lành nghề trong lĩnh vực lao động. Mơ hình
NVQ cũng tạo khả năng mềm dẻo hoá và phân hoá văn bàng đào tạo nghề,
tạo nên nhiều con đường học tập khác nhau phù hợp với nhu cầu cá nhân của
người học.
Hệ thống giáo dục nghề nghiệp của một số nước khác trên thế giới:
Từ hai mơ hình giáo dục nghề nghiệp điển hình của Pháp và Anh, trên
thế giới hiện nay, ở các nước khác nhau cũng sẽ có những mơ hình đào tạo
nghề nghiệp khác nhau, đáp ứng với nhu cầu cụ thể của từng đất nước. Các
nước có mơ hình giáo dục nghề nghiệp giống Pháp phần lớn là các nước nói
tiếng Pháp hoặc gần Pháp trong khu vực châu Âu như Đức, Nga... Các mơ
hình giáo dục nghề nghiệp giống Anh, Mỹ như Úc và các nước nói tiếng Anh
hoặc chịu ảnh hưởng của các nước nói tiếng Anh.
Giáo dục nghề nghiệp của Đức tuy có nhiều nét đặc biệt nhưng về cơ
bản vẫn theo hệ niên chế giống Pháp. Nét giống nhau của hệ thống giáo dục
nghề nghiệp của Pháp và Đức là có loại hình trường hoặc văn bằng, nhằm hai
mục tiêu vừa đào tạo nghề vừa giáo dục phổ thông tạo nguồn vào đại học phù
hợp. Đức là một trong những nước có sự đa dạng về các văn bằng, chứng chỉ
23


nhất thế giới. Ở Đức mục tiêu đào tạo nghề ở các cấp khác nhau gồm có các
trường nghề, trường nghề chuyển tiếp, trường nghề chuyên ngành, trường kĩ
thuật viên, trường thợ cả và vừa đào tạo nghề vừa giáo dục phổ thông với tỷ lệ
kĩ năng nghề khác nhau gồm có trường trung học nghề, trường nghề trung
học.
Tóm lại, giáo dục nghề nghiệp là mục tiêu hướng tới của các nền giáo

dục trên thế giới. Mục tiêu đó phải phù hợp với yêu cầu phát triển của nền
kinh tế mỗi nước và khả năng, năng lực của dân chúng.
Giáo dục nghề nghiệp phải hiểu theo phạm vi rộng và thực hiện ở nhiều
trình độ, nhiều cách kết hợp để thoả mãn tối đa nhu cầu của người học. Không
nhất thiết phải trang bị đủ kiến thức phổ thông mới đi vào giáo dục nghề
nghiệp, tuỳ theo từng nghề mà phải bổ sung kiến thức văn hoá phù hợp theo
từng đối tượng ở các thời kỳ khác nhau.
Xây dựng các cơ sở nghề nghiệp đa mục tiêu tạo nên sự liên thơng giữa
các cấp trình độ trong giáo dục nghề cần được đặt ra trong hệ thống giáo dục
quốc dân. Nhìn chung, xét về chương trình giáo dục thì giáo dục phổ thơng và
giáo dục nghề nghiệp có sự liên quan chặt chẽ với nhau, nối tiếp nhau, nhưng
mỗi ngành nghề lại địi hỏi kiến thức khác nhau nên có thể thực hiện bổ sung
kiến thức cơ bản trong khi học nghề. Nghề nghiệp là những nấc thang dài vô
tận, cần được nối tiếp, liên thơng và có thể đi bằng nhiều con đường khác
nhau. Mỗi nghề khơng nên có thời gian đào tạo quá dài, quá lâu trên ghế nhà
trường mà nên rút ngắn thời gian cá bậc học, cấp học để sau từng đợt, cấp học
lại tiếp tục học lên các thang bậc cao hơn.
Mục tiêu học nghề là để có việc làm, có việc làm để có thu nhập. Hiệu
quả giáo dục nghề nghiệp là tạo ra những con người có nghề nghiệp trình độ
cao được thị trường chấp nhận trong điều kiện chi phí tài chính và thời gian
đào tạo thấp, chất lượng cao.
24


1.2.2. Giáo dục đại học
Giáo dục đại học ngày nay của các nước đã phát triển nhanh, mạnh
nhằm đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ kỹ thuật cao, đa dạng của nhiều
ngành nghề và thích ứng với nền kinh tế tri thức.
Thực chất giáo dục đại học cũng là giáo dục nghề nghiệp nhưng ở trình
độ cao. Các nước phát triển có nền cơng nghiệp hiện đại và các nước cơng

nghiệp mới đều có tỷ lệ cao về sinh viên đại trên số dân. Kinh tế phát triển là
điều kiện cho giáo dục phát triển. Giáo dục phát triển là động lực cho kinh tế
phát triển. Kinh tế phát triển là điều kiện để phát triển xã hội.Hạt nhân của sự
phát triển và tăng trưởng bền vững là lực lượng lao động được đào tạo, làm
việc có năng suất và hiệu quả cao. Đây là nguồn tài nguyên vơ giá mà chỉ khi
biết đầu tư, sử dụng có hiệu quả sẽ là sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc vươn
lên làm giàu cho bản thân và đất nước.
Theo truyền thống các trường đại học trước đây thường đi theo hai
hướng: hướng gắn đại học với nghiên cứu ở tỷ trọng cao về cơ sở lý thuyết,
hàn lâm và hướng đại học thực hành, chuyên nghiệp chủ yếu là rèn luyện kĩ
năng theo nghề nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu việc làm của thị trường lao
động.
Ngày nay, các trường đại học trên thế giới không phân rõ ranh giới hai
hướng đào tạo này, mà ưu thế thiên hướng đại học khoa học ứng dụng, đào
tạo nghề nghiệp, kĩ năng thực hành đang thu hút nhiều người học. Trình độ
dân trí ngày càng cao, kinh tế tri thức càng phát triển thì việc chuyển từ đại
học tinh hoa sang đại học đại trà là xu thế phù hợp với yêu cầu của cuộc sống.
Về chương trình, nội dung và phương pháp, các trường đại học trên thế giới
cũng đang chuyển đổi, cải cách theo hướng đa dạng ở nhiều cấp, trình độ
khác nhau.

25


×