Tải bản đầy đủ (.pdf) (142 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa (khảo sát trường hợp lê thánh tông qua lịch sử và văn học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.88 KB, 142 trang )

Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển

Phạm Võ Thanh Hà

Nhân vật hoàng đế nhƣ là một nhân
vật văn hóa (Khảo sát trƣờng hợp Lê
Thánh Tơng qua lịch sử và văn học)

Hà nội - 2011

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài
Trong cả nghìn năm tồn tại của thể chế quân chủ truyền thống Việt
Nam, Hoàng đế là một “nhân vật” đặc biệt. Đặc biệt, bởi Hoàng đế là trung tâm
của toàn xã hội, đứng đầu một thời đại kéo dài nhiều thế kỷ (thời đại quân
chủ). Hơn nữa, bản thân “ông ta” là một nhân vật văn hóa và có chi phối đáng
kể đến văn hóa của một thời kỳ lịch sử nhất định. Do những biến động lịch sử
(trực tiếp hoặc gián tiếp, ngấm ngầm hoặc công khai), các vƣơng triều có thể
thay thế lẫn nhau (dƣới hình thức chuyển giao quyền lực êm đẹp hay bạo loạn
lật đổ) ở những thời điểm nhất định, nhƣng nhân vật Hoàng đế thì vẫn cịn đó nhƣ biểu tượng của một hình thái kinh tế - xã hội,. Nhân vật Hoàng đế chỉ mất
đi khi xã hội đã chuyển sang một thời đại khác - tức thời đại của nhân vật
Hoàng đế khơng cịn lý do để tồn tại, đồng hành cùng lịch sử.
Có thể thấy, “nhân vật” Hồng đế một mặt mang tính đại diện cho một
dân tộc - quốc gia trong nhiều thế kỷ, thậm chí cả nghìn năm lịch sử; mặt
khác, bản thân “ông ta” lại tiêu biểu cho một thiết chế chính trị nhất định thiết chế quân chủ, đại diện cho một nền văn hóa nhất định. Nói cách khác,
một Hồng đế đúng nghĩa phải đảm nhiệm hai “vai” trên sân khấu chính trị
của thời đại mình phản ánh sự lựa chọn văn hóa của một dân tộc vào một thời
đại. Mọi nghiên cứu về các ông vua, không để ý tới đặc điểm quan trọng này,


thƣờng khơng tồn bích. Ấy thế nhƣng, ở thời hiện đại, khi tìm hiểu về các
Hồng đế/ơng vua, ngƣời ta thƣờng đứng trên lập trƣờng của chủ nghĩa dân
tộc và mang nặng dấu ấn giai cấp: có thể hết lời ca ngợi ngƣời đứng đầu chế
độ quân chủ với những chiến công hiển hách (nhất là dẹp nội thù - chống xâm
lăng), những cải cách - thành tựu nổi bật về kinh tế, văn hóa, xã hội trong thời
gian trị vì… song lại ra sức đả phá, cơng kích xã hội phong kiến rằng nó lạc

2


hậu, phản động, ngƣời bóc lột ngƣời. Thật phi lý khi cơ sở xã hội sinh ra
Hồng đế thì “xấu xa”, mà ngƣời đại diện cho nó lại “tốt đẹp”. Khơng cịn
nghi ngờ gì nữa, cách tiếp cận này đã tồn tại nhiều mâu thuẫn, bất ổn bởi
Hoàng đế và chế độ qn chủ ln có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại,
không thể là hai thái cực đối lập/nghịch. Cho nên, một cơng trình nghiên cứu
từ quan điểm nhân loại học văn hóa (nhân loại học) về nhân vật hồng đế như
là một nhân vật văn hóa là vô cùng cần thiết. Không thể hiểu đúng, hiểu toàn
diện nhiều vấn đề về lịch sử - xã hội, văn hóa - văn học nƣớc ta mấy thế kỷ
trƣớc nếu bỏ qua “nhân vật” này. Và Lê Thánh Tông (1442 -1497), với cuộc
đời - sự nghiệp để lại, hoàn toàn xứng đáng là một “trƣờng hợp” Hoàng đế
tiêu biểu, nhân vật văn hóa lớn khơng chỉ của riêng thế kỷ XV. Chính vì lẽ đó,
chúng tơi chọn đề tài: Nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa
(khảo sát trường hợp Lê Thánh Tơng qua lịch sử và văn học) cho luận văn
thạc sỹ Việt Nam học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nhƣ đã nói ở phần đầu, chúng ta đang chờ đợi một cơng trình nghiên
cứu riêng về nhân vật hoàng đế như là một nhân vật văn hóa, nên đƣơng
nhiên, trong phần lịch sử vấn đề đƣợc triển khai dƣới đây, chúng tôi đứng
trƣớc thực trạng có vẻ mâu thuẫn khi nhắc đến cơng phu, tâm huyết của
những nhà nghiên cứu đi trƣớc. Có vẻ mâu thuẫn vì đến hơm nay, những

nghiên cứu riêng về Lê Thánh Tông khá nhiều, song khảo luận về nhân vật
Hoàng đế chƣa phải đã thật phong phú, đa dạng - nhất là cịn chƣa nhiều cơng
trình nhìn nhà vua từ phƣơng diện văn hóa - văn hóa chính trị, văn hóa đạo
đức, văn hóa tâm linh, văn hóa nghệ thuật …
Khơng thể khơng nhắc tới ở đây cơng trình của tác giả Lê Kim Ngân,
tìm hiểu Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII - đƣợc Phân khoa
Khoa học Xã hội - Viện Đại học Vạn Hạnh xuất bản năm 1974.

3


Với Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVIII và XVIII, trƣớc thực tế đáng
buồn là “Không một nhà Pháp chế sử Tây phƣơng nào biết đến và nhắc tới thể
chế vua chúa lƣỡng đầu tại Việt Nam, một thể chế tồn tại suốt hai thế kỷ XVII XVIII trên đất Đại Việt, song hành với chế độ Mạc phủ tại Nhật và trƣớc cả
chế độ Đại nghị tại Anh, và chế độ lƣỡng đầu này của Việt Nam cũng có rất
nhiều nét tiêu biểu chung của bất cứ loại lƣỡng đầu chế nào đã từng đƣợc áp
dụng trên thế giới”, Lê Kim Ngân “thấy cần phải bổ khuyết sự thiếu sót của các
nhà Pháp chế sử Tây phƣơng bằng cách trình bày rõ lƣỡng đầu chế tại Việt
Nam dƣới thời Lê Trung hƣng ngõ hầu góp phần vào việc nghiên cứu, tìm hiểu
nguồn gốc và các định chế lƣỡng đầu trên thế giới” [22, 8].
“Trình bày rõ lƣỡng đầu chế tại Việt Nam”, đƣơng nhiên, cơng trình
của Lê Kim Ngân đã dành một dung lƣợng đáng kể để tìm hiểu “Nguồn gốc
danh xƣng Thiên tử và Bá chủ” cũng nhƣ “Danh hiệu Thiên tử và Bá chủ tại
Việt Nam”. Hai phần trình bày này giúp chúng tơi những hiểu biết cơ bản,
góp phần làm sáng tỏ nội dung các chƣơng chính của luận văn.
Tiếp nối Lê Kim Ngân, tại hội thảo quốc tế lần thứ nhất về Việt Nam
học đƣợc tổ chức tại Hà Nội (tháng7/1998), Vladimir Antoshchenko, một học
giả ngƣời Nga có tham luận về “Dịng họ các chúa Trịnh ở Việt Nam từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XVIII”, nghiên cứu thể chế cai quản và chính trị của phủ
chúa… song, đã đề cập tới quá trình tập trung quan liêu của nhà nƣớc Lê Sơ

trƣớc đó. Theo V. Antoshchenko, “sau các nỗ lực của vua Lê Thánh Tơng (trị
vì từ 1460 đến 1497) nhằm biến Việt Nam (đúng ra là Đại Việt?) thành một
đế chế quan liêu kiểu Trung Quốc, đã diễn ra một quá trình tập quyền hóa.
Tiếp theo giai đoạn giảm bớt các tƣớc vị và quyền hành của quan lại là giai
đoạn cơ đúc các ngun tắc tổ chức cũ (ví dụ tạo ra tính đồng nhất hay
chuyên nhất trong việc cai quản) và tạo ra các thuộc tính mang tính hình thức

4


của quyền lực với các điều kiện cai trị mới trong bộ máy hành chính của các
quan lại (nhƣ cai trị theo vùng lãnh thổ)”…
Sau Vladimir Antochenko là nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vƣơng với bài
viết Mẫu hình hồng đế và con đường tìm kiếm sự thể hiện bản ngã trong
triết học và văn học khu vực Đông Á, đƣợc tác giả cơng bố vài lần trong các
cơng trình nghiên cứu về văn học trung đại Việt Nam nhƣ: Văn học Việt Nam
- Dòng riêng giữa nguồn chung, Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam... Tuy đặt mục tiêu tìm kiếm con đƣờng thể hiện bản ngã trong triết học
và văn học qua “mẫu hình hồng đế”, nhƣng bài viết này cũng giúp chúng tôi
rất nhiều trong cách nhận thức, triển khai vấn đề. Theo Trần Ngọc Vƣơng, thế
giới quan quân chủ và độc tôn của ngƣời Trung Hoa cổ đại thể hiện một cách
tiêu biểu và cực đoan trong một mơ hình tam vị nhất thể: Thiên mệnh - thiên
hạ - thiên tử. “Có thể nói đến một số phẩm chất cơ bản mà mọi hoàng đế cần
có” là: chí hiếu, chí nhân, chí minh, chí thành chí kính [39, 56]. Song, trên
thực tế, khơng có bất kỳ một đấng quân vƣơng nào “có thể thực hiện đƣợc dù
chỉ một phần những đòi hỏi lý tƣởng nhƣ vậy. Nhà nho chỉ có thể nói đến các
bậc thánh vƣơng trong cõi mịt mờ của dã sử và huyền thoại, những Nghiêu
Thuấn Võ Thang, những Tam Hoàng Ngũ Đế khơng rõ chính tích và hành vi
thƣờng nhật, trong khi có thể dẫn ra vơ số tấm gƣơng phản diện của các hoàng
đế dọc theo lịch sử của bất kỳ quốc gia nào có Nho giáo làm ý thức hệ”. Rồi

“chỉ hồng đế - thiên tử mới có quyền đặt định lễ nhạc, chế độ, triều nghi,
quan duyệt phong tục, quyết đoán những vấn đề về lãnh thổ về quan hệ đối
ngoại và phát động chiến tranh”; “ý chí hoàng đế là luật pháp tối cao”; “độc
quyền của hoàng đế - thiên tử mở ra vô hạn độ”… Nhà nghiên cứu Trần Ngọc
Vƣơng đặc biệt tâm đắc với con đường từ “đại ca” phát triển (nếu thành công)
lên “đại vƣơng” của loại “anh hùng, hào kiệt”, nhất là ngƣời anh hùng thời
loạn [39, 62].

5


Về Lê Thánh Tông, cho đến cuối thế kỷ XX, nhân kỷ niệm 500 năm
mất của Thiên Nam động chủ (1497 - 1997), nhiều cuộc hội thảo lớn đã đƣợc
tổ chức ở Thanh Hóa (quê hƣơng nhà Lê) cũng nhƣ thủ đô Hà Nội về ông vua
thứ tƣ nhà Lê Sơ. Một số lƣợng đáng kể các bài tham luận - cùng với khơng ít
cơng trình từng xuất hiện rải rác trƣớc đó trên các tạp chí - đã đƣợc cố Phó
giáo sƣ Bùi Duy Tân biên soạn, tập hợp thành cuốn sách khá dày dặn, bề thế:
Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm.
Có đến 40/65 đơn vị bài trong Lê Thánh Tông - Về tác gia, tác phẩm
(khơng tính phần Nẻo đường cơng luận hay Lời nói đầu, Lời giới thiệu, Niên
biểu, Thư mục) bàn đến một hay vài, thậm chí cả tập thơ chữ Hán, chữ Nôm
của Lê Thánh Tông (hoặc ông là đồng tác giả) - nhƣ Hội Tao đàn (Lâm
Giang), Hồng Đức quốc âm thi tập - Một tác phẩm lớn của văn học tiếng Việt
thế kỷ XV (Bùi Duy Tân)… song nhìn chung, thơ ca không phải là thành tố
“đầu tiên”, càng không phải thành tố “quan trọng nhất” để dựng nên chân
dung một “nhân vật văn hóa” nhƣ Hồng đế Lê Thánh Tơng (nhiều vị hồng
đế khác trong lịch sử dân tộc khơng làm thơ thì đã sao?; họ vẫn là một “nhân
vật văn hóa” đấy thơi). 25/65 bài cịn lại tìm hiểu cụ thể về muôn mặt đời
sống trong thời đại Lê Thánh Tông (quân sự, pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã
hội)… Đặc biệt, bài khái luận của Bùi Duy Tân: Lê Thánh Tơng - Vị hồng đế

anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc đem lại một cái nhìn khá
tồn diện về ơng vua thứ tƣ nhà Hậu Lê.
Định danh Lê Thánh Tông là “vị hồng đế anh minh”, vì ơng lên ngơi
giữa lúc chính sự nƣớc nhà “nghiêng ngả”, vậy mà Thiên Nam động chủ đã
nhanh chóng củng cố chính quyền - tổ chức cịn hồn bị hơn cả những thời
đại trƣớc với một phủ Phụng Thiên (tức kinh đô Thăng Long) và 13 thừa
tuyên. Đất nƣớc Đại Việt thời này vững mạnh về quốc phịng, khơng ngừng

6


mở rộng lãnh thổ về phƣơng Nam, nhiều lần đánh lui các đạo quân xâm lƣợc
Chiêm Thành cũng nhƣ kẻ thù quấy rối miền biên viễn.
Định danh Lê Thánh Tông là “nhà văn hóa lỗi lạc”, vì ơng đã xây dựng
một nền văn hóa mới nhiều tiến bộ, dựa trên nền tảng ý thức hệ Nho giáo, coi
trọng pháp luật - lễ nghĩa. Thậm chí, thời vị vua thứ tƣ nhà Lê Sơ trị vì có thể
xem là giai đoạn cực thịnh nhất của Nho giáo trong cả nghìn năm quân chủ
Việt Nam khi giáo dục - khoa cử đạt nhiều thành tựu rực rỡ, nhà vua biết phát
hiện và trọng dụng - tơn vinh nhân tài, các cơng trình có giá trị về văn học lịch sử đƣợc triều đình tổ chức biên soạn, đồng thời đón nhận lại “di sản bị mất
giá” của Ức Trai… Yếu tố Nho giáo đƣợc cái tác giả nhấn mạnh trong thời đại
Lê Thánh Tông là điểm nổi bật, gợi ý cho chúng tôi cách triển khai đề tài.
Định danh Lê Thánh Tông là “một văn hào dân tộc”, vì sự nghiệp văn
học của ông khá bề thế - đa dạng (dù đây đó cịn những tồn nghi khơng tránh
khỏi về câu thơ, bài thơ cụ thể), có nhiều đóng góp ở cả 2 mảng sáng tác: chữ
Hán và chữ Nôm với hàng trăm bài thơ, áng văn chính luận… cịn lại đến
ngày hơm nay. Chƣa nói đến, lần đầu tiên trong lịch sử nƣớc nhà có chuyện
vua tơi cùng xƣớng họa làm thơ nhân đất nƣớc đƣợc mùa mấy năm liên tục
(1493 - 1494). Một sinh hoạt văn hóa thật độc đáo bởi hàng trăm năm sau Lê
Thánh Tông, rất nhiều đời chúa Trịnh và khơng ít vua nhà Nguyễn đều là
những ngƣời hay chữ (nhƣ Tự Đức có đến cả nghìn bài thơ), nhƣng sinh họat

văn học mang ý nghĩa “sân chơi” tao nhã giữa cung đình nhƣ trên đây đã
khơng cịn đƣợc tổ chức.
Ngồi bài khái luận trên đây, cố Phó Giáo sƣ Bùi Duy Tân cịn đứng
tên tác giả của nhiều bài viết có giá trị khác về cuộc đời, thơ văn Thiên Nam
động chủ nhƣ: Lê Thánh Tông và bước phát triển mới của văn học trung đại
Việt Nam, Hội Tao đàn - Quỳnh uyển cửu ca và vai trị Lê Thánh Tơng, Hồng
Đức quốc âm thi tập - một tác phẩm lớn của văn học tiếng Việt thế kỷ XV, Lễ

7


Vu Lan - Tiết Trung nguyên và hai bài văn tế cô hồn thời cổ… giúp chúng tôi
hiểu đúng về quan niệm sáng tác văn chƣơng của một ông vua theo tinh thần
Nho giáo cũng nhƣ bức chân dung tinh thần, di sản Lê Thánh Tông giai đoạn
nửa sau thế kỷ XV.
Gần đây hơn, trong khơng khí khắp nơi trên cả nƣớc hƣớng đến Đại lễ
1.000 năm Thăng Long, tại hội thảo Văn học, Phật giáo với 1.000 năm Thăng
Long đƣợc tổ chức ở Bình Dƣơng (28/8/2010), giáo sƣ Nguyễn Đình Chú có
tham luận Đệ nhất minh qn Lê Thánh Tơng - Nhà văn hóa lớn của đất nước
Đại Việt. Theo tác giả, ở vị vua thứ tƣ nhà Hậu Lê có phƣơng diện văn hóa tự
thân và có phƣơng diện văn hóa trên cƣơng vị một đệ nhất minh qn trị bình
thiên hạ. Phƣơng diện văn hóa tự thân của Thánh Tơng Thuần hồng đế là
thần sắc khác thường, vẻ người tuấn tú, nhân hậu, rạng rỡ, nghiêm trang,
thực là bậc thơng minh xứng đáng làm vua, bậc trí dũng đủ để giữ nước cùng
“bấy nhiêu văn phẩm, cả Nôm và Hán, cả văn và thơ của Lê Thánh Tơng” đã
“cho thấy tƣ tƣởng, tình cảm của một ơng vua xứng đáng là đệ nhất minh
quân: Yêu nƣớc, thƣơng dân, yêu cảnh trí, thiên nhiên, yêu những nhân cách
lớn”. Phƣơng diện văn hóa trên cƣơng vị một đệ nhất minh quân trị bình thiên
hạ thì thể hiện ở sáu điều cơ bản: lựa chọn, xây đắp cho đất nƣớc một học
thuyết làm nền của sự phát triển; sử dụng hiền tài trong cơng cuộc “trị bình

thiên hạ”; chăm lo phát triển giáo dục và mở rộng, kiện toàn chế độ thi cử;
chăm lo xây dựng luật pháp; bệnh vực nữ quyền; thành lập hội Tao đàn, tạo
khơng khí văn chƣơng cho đất nƣớc.
Ở một hội thảo khác, cùng hƣớng về thủ đơ trịn một thiên niên kỷ, dành
cho các nhà khoa học trẻ của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam (Hà Nội, ngày
22/9/2010), tác giả Trần Trọng Dƣơng trình bày bản báo cáo dài 30 trang Khảo
về văn hiến Đại Việt qua trường hợp hoàng đế Lê Thánh Tông. Trong báo cáo
này, nhà khoa học trẻ dành tới 10 trang (1/3 dung lƣợng) để khảo về khái niệm
văn hiến, rồi phân suất nghĩa và cấu trúc của khái niệm văn hiến. 2/3 số trang
còn lại, tác giả khảo về văn hiến Đại Việt qua trƣờng hợp Lê Thánh Tông với

8


các nội dung: bậc hiền vƣơng văn minh lỗi lạc; thƣ tịch thời Lê Thánh Tông;
ngƣời củng cố ngôn ngữ văn tự dân tộc; sáng tạo thể tài thơ Nôm vịnh sử dân
tộc; thơ Nôm đề vịnh phong cảnh Đại Việt; thơ Nơm khẩu khí; mở đƣờng
truyện thơ Nơm Đƣờng luật; Thập giới cô hồn quốc ngữ văn; Thánh Tông di
thảo; mở mang giáo hóa; thiết định pháp độ; thiết định phong tục…
Nhìn chung, hai bài viết của giáo sƣ Nguyễn Đình Chú và tác giả Trần
Trọng Dƣơng đều có những điểm gặp gỡ với đề tài chúng tôi đang triển khai.
Tuy nhiên, cùng một vấn đề có thể tồn tại nhiều hƣớng tiếp cận và một hƣớng
tiếp cận vẫn có thể xuất hiện các ngả rẽ khác nhau - nhƣ văn hiến tuy có nhiều
điểm “đồng quy” với văn hóa nhƣng là hai khái niệm riêng biệt; rồi cùng là
văn hóa, song văn hóa nhƣ nhận thức phổ quát sẽ khác với điểm nhìn từ
“nhân vật văn hóa” vốn khá mới mẻ, chƣa có nhiều nhà nghiên cứu “để tâm”
hoặc “đi theo”…
3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này, ngƣời viết chủ yếu sử dụng phƣơng pháp nghiên
cứu xã hội học và văn hóa học để làm sáng tỏ vấn đề đƣợc đặt ra. Đƣơng

nhiên, một số phƣơng pháp khác nhƣ thống kê, so sánh cũng đƣợc vận dụng
những lúc cần thiết. Bởi xét cho cùng, không thể coi một phƣơng pháp duy
nhất nào là chiếc chìa khóa vạn năng để giải mã các vấn đề khoa học. Có sự
kết hợp giữa nhiều phƣơng pháp nghiên cứu, khả năng tiếp cận chân lý khoa
học sẽ đƣợc “đảm bảo” hơn.
4. Bố cục đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn Nhân vật hoàng đế như là
một nhân vật văn hóa (khảo sát trường hợp Lê Thánh Tơng qua lịch sử và văn
học) của chúng tôi đƣợc chia thành ba chƣơng với các nội dung:
Chƣơng 1: Các con đƣờng hình thành Đế quyền.
Chƣơng 2: Hồng đế và những quyền lực, phẩm chất cần có của
Hồng đế.
Chƣơng 3: Các hình thức bảo vệ Đế quyền.

9


CHƢƠNG 1: NHỮNG CON ĐƢỜNG HÌNH THÀNH ĐẾ QUYỀN
1. Bạo lực
Có thể nói, bạo lực (nghĩa rộng hơn: chiến tranh) là con đƣờng đầu tiên
và rất phổ biến để giành Đế quyền ở tất cả quốc gia, vùng lãnh thổ. Trong các
cuộc chiến tranh giành quyền lực thời nguyên thủy - những mong vơ vét của
cải và nô lệ - ngƣời giành chiến thắng bao giờ cũng là thủ lĩnh mạnh nhất. Tới
khi xã hội loài ngƣời phát triển ở bậc cao hơn, có ý thức về chủ quyền - lãnh
thổ, vẫn là những cuộc động binh liên miên để thơn tính, sáp nhập các nƣớc
bé, khẳng định quyền uy nƣớc lớn. Chớ nên quên cả đất Trung Hoa thời cổ
đại từng là một chiến trƣờng có “khơng gian mênh mông”, “thời gian đằng
đẵng” - nơi các nƣớc Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, Tần… đua nhau tranh
hùng xƣng bá. Phải đến năm 221 trƣớc Cơng ngun, Tần Doanh Chính (259
TCN - 210 TCN) mới tiêu diệt 6 nƣớc chƣ hầu thời Chiến Quốc - vốn phân

tán - thống nhất sơn hà, xƣng Hoàng đế đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, lập
nên một đế chế hùng mạnh.
Tần Doanh Chính lên nối ngôi cha (Trang Tƣơng vƣơng) năm 246
trƣớc Công ngun, lúc vừa trịn 13 tuổi.
Thời Doanh Chính trị vì, nƣớc Tần đã lớn mạnh, không ngừng mở
mang bờ cõi, lấn đất của 6 nƣớc chƣ hầu còn lại. Trong các năm từ 230 - 228
trƣớc Công nguyên, nhà Tần lần lƣợt thơn tính nƣớc Hàn và nƣớc Triệu.
Thêm 3 năm nữa (225 trƣớc Công nguyên), nƣớc Ngụy ra hàng Tần.
Năm 223 trƣớc Công nguyên, Sở vƣơng bị giết, nƣớc Sở cũng thuộc về
Tần sau 700 ngày liên tục can qua.
Chỉ hai năm sau nữa, bản đồ “tam quốc” lần thứ nhất chất dứt tồn tại
khi Tần vƣơng sai con Vƣơng Tiễn là Vƣơng Bí cầm quân lần lƣợt đánh tan
nƣớc Yên (222 trƣớc Công nguyên) và nƣớc Tề láng giềng (221 trƣớc Cơng
ngun), vốn là “đồng minh” trƣớc đó.

10


Để chứng tỏ Đế quyền, việc đầu tiên Tần Thủy Hoàng nghĩ đến là bắt
hoàng gia vƣơng tộc 6 nƣớc cũ phải dời đến kinh thành Hàm Dƣơng, phát mãi
toàn bộ đất đai của họ; đồng thời, mạnh tay thi hành một đƣờng lối cai trị hà
khắc theo phái Pháp gia: trọng binh - nông, ức công - thƣơng, ghét đa nguyên
về tƣ tƣởng, sẵn sàng “đốt sách chôn nho”…
Ở Việt Nam, con đƣờng chiếm lĩnh Đế quyền của nhiều vị hồng đế
cũng khơng gì khác hơn ngồi hai chữ “bạo lực” - dù tính chất và mức độ
nhiều phần khác với chuyện xảy ra bên kia biên giới.
Với Đinh Tiên Hoàng - vị hoàng đế đầu tiên trong lịch sử dân tộc - con
đƣờng Đế quyền ông đi tới là một hành trình “dẹp loạn và dựng nƣớc” nhiều
gian nan. Sau đám tang của ngƣời anh hùng dân tộc Ngô Quyền (năm 944),
ngƣời từng lập nên một Bạch Đằng giang lần thứ nhất, đƣa đất nƣớc ta thoát

khỏi đêm trƣờng Bắc thuộc (để hàng mấy thế kỷ sau, sứ thần thám hoa Giang
Văn Minh cịn khơng thơi tự hào Đằng giang tự cổ huyết do hồng), non sông
Đại Việt đã ngay lập tức trải qua nhiều sự cố: Bình vƣơng Dƣơng Tam Kha
tiếm quyền (945 - 950); hai con của Ngơ vƣơng cùng nhau trơng coi chính sự
(từ năm 951). Khi Xƣơng Ngập qua đời (năm 954), rồi Xƣơng Văn chết (năm
965) lúc đánh dẹp hai thôn Đƣờng, Nguyễn ở Thái Bình (bị phục binh), chính
quyền trung ƣơng đã dần sụp đổ cùng sự suy yếu của Ngô Xƣơng Xí (con
Ngơ Xƣơng Ngập). Năm 966, nƣớc nhà xuất hiện 12 sứ qn:
1.

Ngơ Xƣơng Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa).

2.

Đỗ Cảnh Thạc tự xƣng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động

Giang (Thanh Oai - Hà Nội).
3.

Trần Lãm tự xƣng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu -

Kỳ Bố (Thái Bình).
4.

Kiều Cơng Hãn tự xƣng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu -

Bạch Hạc (Việt Trì - Lâm Thao, Phú Thọ).

11



5.

Nguyễn Khoan tự xƣng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái

(Vĩnh Tƣờng - Vĩnh Phúc).
6.

Ngô Nhật Khánh tự xƣng là Ngô Lãm Công, giữ Đƣờng

Lâm (Sơn Tây, Hà Nội).
7.

Lý Khuê tự xƣng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành

- Bắc Ninh).
8.

Nguyễn Thủ Tiệp tự xƣng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên

Du (Bắc Ninh).
9.

Lã Đƣờng tự xƣng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn

Giang - Hƣng Yên).
10.

Nguyễn Siêu tự xƣng là Nguyễn Hữu Cơng, giữ Tây Phù


Liệt (Thanh Trì - Hà Nội).
11.

Kiều Thuận tự xƣng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ -

Cẩm Khê (Phú Thọ).
12.

Phạm Bạch Hổ tự xƣng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng

Châu (Hƣng Yên).
Về phần Đinh Bộ Lĩnh, ban đầu, ơng đã có sự tập hợp dân chúng quanh
vùng Hoa Lƣ. Sau đó, ơng cùng con trai cả Đinh Liễn (đã lớn) sang theo sứ
quân Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Mối liên minh này càng bền chặt
khi Đinh Bộ Lĩnh cƣới thêm Trần Nƣơng (con gái Trần Minh Công) làm vợ.
Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền nhạc phụ, đƣa quân
về Hoa Lƣ, chiêu mộ binh lính, chống lại triều đình trung ƣơng đã suy yếu và
các sứ quân khác. Trƣớc đây, chúng ta chỉ biết chung chung, đại để rằng:
Đinh Bộ Lĩnh lần lƣợt đánh thắng 11 sứ quân khác, lập nên nƣớc Đại Cồ
Việt... nhƣng theo sử gia Nguyễn Danh Phiệt, ngƣời anh hùng cờ lau đã liên
kết - hàng phục Ngơ Nhật Khánh, Ngơ Xƣơng Xí, Phạm Bạch Hổ; dẹp loạn
Đỗ Cảnh Thạc, Nguyễn Siêu, Kiều Công Hãn, Nguyễn Thủ Tiệp, Kiều

12


Thuận, Lý Khuê; hai sứ quân còn lại (Lã Đƣờng, Nguyễn Khoan) thì tự tan
[30, 74].
Dù có tới 5/11 sứ quân chọn cách “ứng xử” liên kết - hàng phục hay tự
tan thì hậu thế cũng khơng thể “bác bỏ” con đƣờng đi tới Đế quyền của Đinh

Tiên Hoàng: bạo lực. Đây là vài lần “tranh hùng” giữa ông với sứ quân
Nguyễn Siêu mà Nguyễn Danh Phiệt đã dày công tìm kiếm, tái hiện:
“Tháng 11 năm Bính Dần (966), Đinh Bộ Lĩnh khởi binh ở dƣới núi
Đọi (Đọi Sơn). Bộ lạc các nơi sợ phục, trong triều ngoài nội theo đến ba ngàn
tƣớng sĩ (…) Nguyễn Siêu sai các tƣớng sĩ luyện tập, binh lính đào hào đắp
lũy để phịng bị (…) Ngày 6-6, tƣớng nhà Đinh là các bọn Nguyễn Bồ,
Nguyễn Phục, Cao Sơn và Đinh Thiết đem binh mã đi đƣờng phía Nam kéo
đến vây chặt vài vịng. Trong cuộc đọ sức lần đầu này, Đinh Bộ Lĩnh bị mất 4
tƣớng.
Sau đó, Đinh Bộ Lĩnh lại sai Nguyễn Bặc làm tiên phong, Lê Hoàn làm
tiếp chiến đem quân đến đánh. Đinh Bộ lĩnh làm thống lĩnh đem voi chiến và
quân sĩ đi đƣờng tắt xã Cẩm Cơ (?) đến đánh phá. Nguyễn Siêu chọn tƣớng
tuyển quân, sửa soạn lƣơng ăn, phục chỗ hiểm. Ngày 26-6, có ngƣời là Đỗ
Khả tiến từ phƣơng Bắc tới hiến kế nên lui quân về phía Tây Bắc, xin viện
quân ở sƣ huynh (tức Nguyễn Khoan và Nguyễn Thủ Tiệp) đến hiệp lực
chống đỡ.
Ngày 10 tháng 7, Nguyễn Siêu hợp nhau chia quân làm hai bộ phận.
Một bộ phận ở lại giữ lũy, một bộ phận do chính Nguyễn Siêu đem đi xin cứu
viện. Ngày 15 tháng 7, quân quyền của Nguyễn Siêu qua sơng sang phía Bắc,
đến giữa sơng gặp (sóng to) gió lớn, thuyền tƣớng, qn nhu, khí giới bị đắm
sạch…
Bộ Lĩnh nghe tin, nửa đêm sai 10 võ sĩ ngầm vào phóng lửa đốt hết
doanh trại. Quân Nguyễn Siêu tan tác…” [30, 71 - 72].

13


Ngồi con đƣờng hình thành Đế quyền từ bạo lực dẹp nội thù nhƣ trên
đây, còn một lối đi khác nữa (vẫn trên cơ sở bạo lực) cho các trang hảo hán
thời qn chủ muốn lên ngơi báu trị vì trăm họ là chống xâm lăng. Sở dĩ Lê

Lợi (1385 - 1433) từ địa vị một hào trƣởng đất Lam Sơn lên ngơi Bình Định
vƣơng, rồi Hồng đế ở Đơng Kinh ngày 15 tháng 4 năm 1428… đƣợc tôn
vinh là Tổ Trung hưng thứ hai của dân tộc ta, bởi ông có 10 năm (1418 1427) “nếm mật nằm gai”, kiên trì gây dựng và lãnh đạo phong trào yêu nƣớc,
dùng bạo lực đánh đuổi kẻ thù từ bên kia biên giới tràn sang áp đặt ách đô hộ
sau thất bại quân sự của họ Hồ năm 1407. “Theo đuổi” con đƣờng bạo lực,
khơng phải khơng có lúc Lê Lợi gặp những nguy nan: Khi Linh sơn lương hết
mấy tuần/ Khi Khơi huyện qn khơng một đội… nhƣng chính “con đƣờng”
ấy đã giúp ơng giải phóng dân tộc, đồng thời thiết lập nên ngôi vị Đế quyền
dài tới 360 năm cho một dịng họ.
Và khơng thể khơng nhắc tới ở đây trƣờng hợp dùng bạo lực dẹp cả nội
thù và chống xâm lăng để thiết lập nên Đế quyền nhƣ anh hùng dân tộc
Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Nguyễn Huệ (1753 - 1792) vốn ngƣời họ Hồ huyện Hƣng Nguyên (tỉnh
Nghệ An), tổ tiên theo chúa Nguyễn vào Đàng Trong - đất Tây Sơn (Bình
Định) lập nghiệp. Đƣợc tơi luyện trong một thời kỳ bão táp, lại có chí hƣớng
và tài năng lỗi lạc, tên tuổi ông gắn liền với một phong trào nông dân rộng lớn
diễn ra sôi nổi trong mấy mƣơi năm cuối cùng của thế kỷ XVIII, trên đất nƣớc
ta. Bằng các hoạt động quân sự (bạo lực), Nguyễn Huệ lần lƣợt tiêu diệt chính
quyền chúa Nguyễn (1777), đánh bại quân xâm lƣợc Xiêm (1785), xóa sổ
quân quan nhà Trịnh (1786) và đập tan 29 vạn quân Thanh đang núp dƣới
chiêu bài “phù Lê” mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Trƣớc đó, cuối năm 1788,
trên đƣờng tiến quân ra Bắc Hà tiêu diệt kẻ thù, ông đã lên ngơi Hồng đế để
lấy danh nghĩa chính thống. Theo cố giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng, Quang Trung

14


- Nguyễn Huệ là ngƣời ba lần anh hùng: anh hùng áo vải; anh hùng xóa hận
sơng Gianh - san bằng ranh giới Đàng Trong, Đàng Ngoài in hằn hai thế kỷ và
anh hùng trong thắng tích Thăng Long [42, 891]. Vƣợt lên ý nghĩa hiện thực

vốn có, “bạo lực” trong tay Quang Trung đã trở thành những bài học lớn về
nghệ thuật điều binh khiển tƣớng, chớp thời cơ, giáng cho đối phƣơng địn
quyết định.
Khơng cịn nghi ngờ gì nữa, thực tế lịch sử dân tộc và nhân loại đã cho
thấy: có một con đƣờng giành Đế quyền từ các hoạt động bạo lực. Tuy nhiên,
đây không phải “con đƣờng” duy nhất - nó cũng chỉ thƣờng xảy ra ở một đất
nƣớc đang phải đƣơng đầu với họa xâm lăng hay sơn hà xã tắc gặp nhiễu
nhƣơng, hỗn loạn. Trong thời điểm thiết chế quân chủ các quốc gia đang ổn
định, vững mạnh… sự hình thành Đế quyền có thể diễn ra “n ổn”, “thanh
bình” hơn - ít đổ/đẫm máu.
2. Cha truyền - con nối:
Cha truyền - con nối (trƣờng hợp đặc biệt: anh truyền - em nối) có thể
xem là con đƣờng hình thành Đế quyền văn minh, hịa bình và đƣợc trơng đợi
nhất cách đây hàng thế kỷ. Con kế thừa cha thật lẽ đƣơng nhiên, thiết tƣởng
không cần phải bàn bạc, luận giải, làm sáng tỏ thêm? Ấy thế nhƣng, dù tình
phụ tử thiêng liêng ngần nào đi chăng nữa thì việc hình thành/kế thừa Đế
quyền cũng có những “nguyên tắc” - giới hạn nhất định, khơng thể xem
thƣờng. Một vị vua cha có nhiều con, ai sẽ ngồi vào ngôi báu? Tất cả cùng
muốn ngồi, sao đủ “ghế” phân chia? Chẳng lẽ có nhiều “Đế”, nhiều “chủ”
trong một quốc gia, lãnh thổ? Đây là điều không chấp nhận đƣợc (trƣờng hợp
lưỡng đầu chế thời Lê - Trịnh ở Việt Nam, thời Mạc phủ ở Nhật Bản… lại là
một câu chuyện khác)!

15


Theo tác giả Vũ Quốc Thông - một chuyên gia về Pháp chế sử - thì
việc chọn ngƣời kế thừa làm vua ở phƣơng Đông cũng nhƣ phƣơng Tây,
thƣờng đƣợc quy định theo ba nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc bất khả phân ly

- Nguyên tắc trọng trƣởng
- Nguyên tắc trọng nam
Với nguyên tắc bất khả phân ly, nhà vua sau khi băng hà, dù có để lại
rất nhiều con, cũng chỉ đƣợc truyền ngôi cho một ngƣời trong số đó mà thơi.
Bất khả phân ly, sẽ giúp Đế quyền quy về một mối, tránh sự tranh giành, cát
cứ - chia rẽ non sông.
Với nguyên tắc trọng trưởng, trong số các con của nhà vua, ngƣời con
trưởng sẽ đƣợc chọn để kế vị ngơi hồng đế thay cha. Trong trƣờng hợp
ngƣời con trƣởng phạm lỗi bị truất quyền kế vị hay khơng may mất sớm thì
cháu trưởng sẽ đƣợc chọn lên thay ơng trị vì trăm họ. Khái niệm “con trƣởng”
đƣợc dùng để chỉ ngƣời con lớn tuổi nhất của bà vợ chính (thƣờng là hồng
hậu). Khi ngành trưởng khơng cịn ai xứng đáng (cả con lẫn cháu đều bị truất
quyền kế thừa) thì ngành thứ mới đƣợc chọn.
Với nguyên tắc trọng nam, ngôi vua chỉ đƣợc truyền cho ngƣời con trai
hoặc một cách linh hoạt hơn, nếu cùng hàng thân thuộc với vua, ngƣời con
trai đƣợc quyền ƣu tiên. Mục đích của nguyên tắc trọng nam là để giữ sự
trƣờng cửu, liên tục cho một dòng họ, còn nguyên tắc trọng trưởng là cốt
tránh sự tranh giành giữa ngƣời trong họ với nhau [22, 168 - 169].
Trong ba nguyên tắc trên đây, nguyên tắc bất khả phân ly - nhƣ nhận
xét của Lê Kim Ngân - đƣợc các triều đại nƣớc nhà, kể từ thời tự chủ (939)
đến hết triều Nguyễn (1945), triệt để áp dụng, không hề có ngoại lệ: có nhiều
con bao nhiêu, vua trƣớc cũng chỉ nhƣờng ngơi vị hồng đế cho một ngƣời
con để gìn giữ cho lãnh thổ đƣợc tồn vẹn và qn quyền đƣợc thống nhất

16


[22, 169] … cịn ngun tắc trọng trưởng khơng phải lúc nào cũng đƣợc tôn
trọng. Nếu ở thời Lê Trung Hƣng, phủ chúa Trịnh khuynh loát quyền thế vua
Lê, trải 10 đời chúa chỉ 2 lần nguyên tắc trọng trưởng phải xé rào trong các

trƣờng hợp bất khả kháng nhƣ Trịnh Giang nhƣờng ngôi cho em (Trịnh
Doanh) ở thời điểm Trịnh Giang chƣa có ngƣời nối dõi, Trịnh Sâm chọn con
thứ Trịnh Cán lên thay khi Trịnh Khải (con trƣởng) bị kết tội phản nghịch…
thì thời Lê Sơ trƣớc đó, chuyện này xảy ra “thƣờng xuyên” hơn. Hãy xem:
ngày mồng 7 tháng giêng năm Kỷ Dậu thứ 2 (1429) vua Lê Thái Tổ “sai nhập
nội kiểm hiệu bình chƣơng sự là Lê Vấn, nhập nội đại tƣ mã là Lê Ngân, nhập
nội thiếu úy là Lê Văn Linh mang sách vàng lập Hữu tƣớng quốc Khai quận
công Tƣ Tề làm quốc vƣơng, giúp làm việc nƣớc” [20, 528]. Nhƣng bốn năm
sau, mùa thu tháng tám năm 1433, Lê Thái Tổ lại “giáng con trƣởng Tƣ Tề
làm quận vƣơng, lấy con thứ là Nguyên Long nối tôn thống” [20, 536]. Đến
mùa hạ, tháng 5 năm 1438, Tƣ Tề tiếp tục bị giáng từ quận vƣơng xuống làm
thứ nhân.
Chƣa hết, khi Nguyên Long lên ngôi, nếu ngày 21 tháng giêng năm
1440, “lập con trƣởng là Nghi Dân làm hồng thái tử” thì chỉ một năm sau
(1441), đã giáng mẹ Nghi Dân là Dƣơng Thị Bí “làm ngƣời đàn bà thƣờng” vì
Bí “cậy mình”, “tỏ vẻ kiêu căng” và vua “xuống chiếu cho thiên hạ là ngôi
tháu tử chƣa định” [20, 576]. Tháng 11 cùng năm, vua lập Bang Cơ (mới 5
tháng tuổi) làm hoàng thái tử; phong Nghi Dân làm Lạng Sơn vƣơng, hồng
tử Khắc Xƣơng làm Tân Bình vƣơng [20, 577]…
Mỗi khi có chuyện bỏ trưởng lập thứ, tùy theo cán quân quyền lực
trong triều, rồi “tiên đế” còn sống hay đã mất (?), nội dung chúc thƣ để lại thế
nào, “lực lƣợng” của ngƣời con trƣởng - con thứ, thái độ chính trị của các
quan đầu triều… mà có thể dẫn đến binh biến, nổi loạn hoặc không. Vẫn thời
Lê Sơ, nếu trƣớc đó Tƣ Tề chấp nhận một cuộc đời thứ nhân, “bên lề chính

17


sử” thì về sau, mùa đơng tháng 10 năm Kỷ Mão (1459) - đang đêm, Nghi Dân
đã bắc thang vào thành giết vua và hồng thái hậu, tiếm ngơi hồng đế trong

một thời gian ngắn - tám tháng [20, 608].
Nhờ “loạn Nghi Dân” mà Lê Tƣ Thành, con trai thứ tư của Lê Thái
Tông đƣợc “chọn mặt gửi vàng”. Quá trình tiếp quản Đế quyền của ơng cũng
có thể gọi là con đƣờng “truyền - nối”:
“Tục truyền rằng thái hậu khi sắp cữ, vì mỏi mệt thiếp đi, chiêm bao
thấy đến chỗ Thƣợng đế, Thƣợng đế sai một tiên đồng xuống làm con thái
hậu, tiên đồng ngần ngừ không chịu đi, Thƣợng đế giận, lấy cái hốt ngọc đánh
vào trán chảy máu ra. Sau tỉnh dậy thì sinh ra vua, ở trán hình nhƣ có vết nhƣ
thấy khi chiêm bao, mãi đến khi chết vết ấy vẫn còn. Năm nhâm tuất Đại Bảo
thứ ba, tháng 7, ngày 20, vua sinh ra. Vua sinh ra, tƣ trời rạng rỡ, thần sắc anh
dị, tuấn tú, sáng suốt, chững chạc, thực là bậc thơng minh đáng làm vua, bậc
trí dũng đủ giữ nƣớc. Năm Thái Hịa thứ ba đƣợc phong làm Bình Ngun
vƣơng, vâng làm phiên vƣơng vào ở Kinh sƣ, hàng ngày cùng với các thân
vƣơng ở Kinh diên học tập. Bấy giờ quan ở Kinh diên là bọn Trần Phong thấy
vua dáng điệu đứng đắn, thơng minh hơn ngƣời, trong lịng cho là khác
thƣờng. Vua lại càng tự che giấu, không lộ anh khí ra ngồi, chỉ vui với sách
vở đời xƣa nay, nghĩa lý của thánh hiền. Tính trời sinh tri, mà sớm khuya
không rời quyển sách; tài năng lỗi lạc, mà chế tác lại càng lƣu tâm. Ƣa điều
thiện, thích ngƣời hiền, chăm chăm khơng mỏi. Tun Từ thái hậu u nhƣ
con mình đẻ ra; Nhân Tơng cho là ngƣời em hiếm có. Đến khoảng năm Diên
Ninh, Nghi Dân tiếm ngôi, đổi phong vua làm Gia vƣơng và làm nhà ở bên
hữu nội điện cho ở. Không bao lâu, đại thần là bọn Nguyễn Xí, Đinh Liệt
cùng nhau đem cấm binh đánh bọn (Phạm) Đồn, (Phan) Ban rồi phế Nghi
Dân, đón vua lên ngơi. Bấy giờ vua 18 tuổi, vào nối đại thống, tự xƣng là
Thiên Nam động chủ. Miếu hiệu là Thánh Tông [20, 610].

18


Cần nói thêm, nếu ở góc nhìn “tự nhiên”, Lê Thánh Tông đƣợc biết đến

với tƣ cách con của Thái Tông - Lê Nguyên Long và Tiệp dƣ Ngô Thị Ngọc
Dao thì trên phƣơng diện xã hội, vị hồng đế này là “sản phẩm”, sự đan xen/
kết hợp giữa hai yếu tố: học thuyết chính trị Nho gia và bối cảnh lịch sử xã
hội Đại Việt giữa thế kỷ XV. Lê Thánh Tông - dù là con thứ tư - lên ngơi,
đƣợc xem nhƣ sự “lựa chọn” chính xác của một thời đại, đã chấm dứt những
cơn sóng ngầm, “đấu đá” giữa các phe phái trong nội bộ hoàng gia, chuyển
“nguy” thành “an” cho sơn hà xã tắc. Từ năm 1460 trở về sau và liên tiếp suốt
gần bốn mƣơi năm, nƣớc Đại Việt ngày càng lớn mạnh: bảo vệ vững chắc
đƣợc biên cƣơng phía Bắc - đồng thời, khơng ngừng mở rộng lãnh thổ về phía
Nam; triều chính vững vàng - khơng cịn trải nhiều phen “nghiêng ngả”…
Bên cạnh các hoạt động, chiến dịch “chinh tru tiễu phạt”, lúc này Lê Thánh
Tơng có điều kiện thực hiện bảo về Đế quyền bằng “văn trị”, “đức trị” - nhƣ
Nguyễn Công Trứ có lần “Luận kẻ sĩ”:
Văn dìu cánh phượng n trăm họ
Võ thét oai hùm dẹp bốn phương
Gặp hội thái bình văn trước võ
Võ nào dám sánh khách văn chương?
Đây cũng mới là mục đích hƣớng tới của học thuyết chính trị Nho gia.
Tìm hiểu “Nhân vật hồng đế nhƣ là một nhân vật văn hóa (khảo sát trƣờng
hợp Lê Thánh Tông qua lịch sử và văn học)”, ngƣời viết muốn đề cập tới ứng
xử, hành động trong một môi trường văn hóa cụ thể (tức xã hội quân chủ) của
một ông vua…
Và không chỉ ở Việt Nam, bên đất Trung Hoa thời cổ đại cũng không
hề xa lạ chuyện nguyên tắc trọng trưởng lắm lúc bị bỏ qua.
Tác phẩm Sử ký (Tƣ Mã Thiên) còn gửi lại với thời gian sự kiện khi
lâm bệnh nặng, Tần Thủy Hoàng viết thƣ đóng dấu gửi con trai cả là Thái sử

19



Phù Tô (lúc này đang giám sát Mông Điềm ở Thƣợng Quận), nhắn về Hàm
Dƣơng chịu tang cha rồi kế nghiệp. Bức thƣ chƣa đƣợc chuyển đi thì Thủy
Hồng đã mất.
Thừa tƣớng Lý Tƣ thấy nhà vua chết ở xa kinh đơ, sợ các cơng tử và
thiên hạ có biến loạn, bèn giấu kín điều đó, khơng báo tang, chở quan tài đi
trong một chiếc xe mát, cho một ngƣời hoạn quan đƣợc vua yêu ngồi trong
xe, đến đâu thì dâng thức ăn, trăm quan vẫn tâu việc nhƣ thƣờng. Viên hoạn
quan ở trong xe nghe lời tâu liền bảo: “Đƣợc!”. Chỉ có Hồ Hợi, Triệu Cao và
một vài hoạn quan thân tín của nhà vua, tất cả có năm sáu ngƣời biết là nhà
vua đã chết.
Triệu Cao trƣớc đây đã có lần dạy Hồ Hợi học viết cùng với pháp luật,
mệnh lệnh. Hồ Hợi yêu quý Triệu Cao. Triệu Cao bèn cùng công tử Hồ Hợi
và thừa tƣớng Lý Tƣ âm mƣu phá hủy bức thƣ của Thủy Hoàng gửi cho công
tử Phù Tô mà bịa đặt thành ra chuyện thừa tƣớng Lý Tƣ đã nhận đƣợc tờ
chiếu của Thủy Hoàng ở Sa Khâu, trƣớc khi chết bảo lập Hồ Hợi làm thái tử.
Lại làm một bức thƣ khác gửi cho công tử Phù Tô và Mông Điểm kể tội hai
ngƣời, ra lệnh cho hai ngƣời phải chết. Xe tang đi từ Tỉnh hình đến Cửu
Nguyên. Gặp lúc trời nắng, chiếc xe mát phát ra mùi thối, bèn sai các quan đi
theo chở trên xe một thạch cá muối để đánh lẫn mùi thối. Đi theo đƣờng thẳng
đến Hàm Dƣơng báo tang [34, 57 - 58].
Thái tử Hồ Hợi sau đó lên nối nghiệp làm Nhị thế hồng đế.
Ngồi hai nguyên tắc bất khả phân ly và nguyên tắc trọng trưởng đã đề
cập ở trên, nguyên tắc trọng nam đƣợc các thiết chế quân chủ phƣơng Đông
cổ đại áp dụng gần nhƣ triệt để.
Thực thế! Suốt hàng nghìn năm chế độ quân chủ Trung Hoa - tính từ
Tần Thủy Hoàng đến Phổ Nghi - duy nhất một lần Võ Tắc Thiên sốn ngơi
nhà Đƣờng, lên làm nữ hồng từ năm 690 đến năm 705. Còn tại Việt Nam, sự

20



kiện Lý Chiêu Hoàng nắm quyền tối cao thời Vãn Lý (1224 - 1225) không lặp
lại lần thứ hai ở bất kỳ triều đại nào khác, dù vài vị vua khơng có con trai nối
dõi (vơ hậu). Chƣa nói đến, chuyện lên ngơi này phần nhiều là con bài chính
trị dƣới sự “đạo diễn” của Thái sƣ Trần Thủ Độ, để từ đó, chuyển giao quyền
lực cho dịng họ Trần.
Nhƣ vậy, cùng với con đƣờng “bạo lực” thì “nối ngơi” cũng là cách
thức để có đƣợc Đế quyền thời quân chủ. Và sẽ rất thiếu sót nếu khơng nhắc
tới ở đây chuyện “ai đó” ngồi lên ngai vàng sau những hành động đƣợc ngƣời
đời gọi “tiếm quyền”, “thoán đoạt” (cƣớp ngơi).
3. Tiếm quyền, thốn đoạt:
Chuyện thốn đoạt (cƣớp ngơi) để giành Đế quyền thƣờng diễn ra ở
thời khắc hồng hơn của một triều đại - sau những đỉnh cao chói lọi, sau chiến
tích của một thời vang bóng khá xa (có thể tính bằng hàng trăm năm), triều
đại đó từng bƣớc đi vào con đƣờng khủng hoảng, suy thối khơng gì cứu vãn
đƣợc; đồng thời, nơi “cánh gà” sân khấu chính trị đƣơng thời, đã thấy xuất
hiện một “gƣơng mặt mới” đang “chịu khó” thâu tóm quyền lực - nhiều lúc
lấn át cả vua. Trong lịch sử nƣớc nhà, có đến hai lần Đế quyền hình thành từ
chính biến cung đình - thốn đoạt, gắn liền với tên tuổi, sự nghiệp hai nhân
vật chƣa hết lời bàn cãi cả về “công” lẫn “tội” suốt mấy thế kỷ qua: Hồ Quý
Ly và Mạc Đăng Dung.
Hồ Quý Ly (1336 - ?) vốn có dịng dõi gốc Hoa, tổ tiên dời cố quốc
sang đất Nghệ An những năm giữa thế kỷ X. Ba mƣơi năm cuối thế kỷ XIV,
ơng có hai ngƣời cơ làm cung phi của vua Trần Minh Tông - hai ngƣời cô lại
sinh ra hai vua - nên “ông cháu” nhiều tham vọng sớm bƣớc vào chính trƣờng
với tƣ cách một quý tộc ngoại thích.
Quý Ly từng đƣợc vua Trần Nghệ Tông gả em gái là công chúa Huy
Ninh vào cho làm Khu mật đại sứ. Điều đáng nói là dẫu có lần đƣợc vua Trần

21



ban tám chữ “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức” thì năng lực cầm quân của
Quý Ly cũng chỉ ở mức “đáng ngờ” - suốt hơn hai thập niên nắm giữ binh
quyền, nhiều lần lĩnh ấn tiên phong đi đánh Chiêm Thành ở phía Nam, nhƣng
ơng thua nhiều hơn thắng. Và dù thua, quyền hành trong tay Quý Ly vẫn ngày
một lớn mạnh. Các quý tộc, tôn thất nhà Trần khơng phải khơng nhận ra điều
này - đã có khơng ít ngƣời mƣu giết ơng. Kỳ lạ thay, Thƣợng hồng Trần
Nghệ Tơng ln che chắn cho Q Ly và lên án, trừng phạt các thế lực muốn
“hành động”! Chính vì vậy, những kẻ mƣu sát Quý Ly - kể cả ngƣời thuộc họ
hàng nhà vua - lần lƣợt bƣớc lên đoạn đầu đài.
Khi Thƣợng hồng Trần Nghệ Tơng mất (1395), Hồ Quý Ly làm đến
Phụ chính Thái sƣ nhiếp chính, tƣớc Trung tuyên Vệ quốc Đại vƣơng - nghĩa
là thâu tóm mọi quyền hành trong nƣớc. Ngay cả ngƣời nắm Đế quyền (trên
danh nghĩa) lúc đó - Trần Thuận Tông - cũng là con rể ông, hết thảy hành
động đều chịu sự sai khiến, “giật dây” của “bố vợ”.
Ít lâu sau (1397), Quý Ly bức vua Trần rời đô từ Thăng Long vào Tây
Đô (Vĩnh Lộc) - xứ Thanh, sau khi đã ra sức huy động sức ngƣời sức của xây
thành, đào hào, đắp lũy, chuẩn bị cho “sự nghiệp” lâu dài. Nhiều trung thần
nghĩa sĩ họ Trần lên kế hoạch tổ chức hội thề Đốn Sơn những mong giết kẻ
lộng quyền… nhƣng rồi Quý Ly lại biết trƣớc đƣợc, ra tay tàn sát Trần Khát
Chân, Trần Nhật Đôn và cả trăm con ngƣời khác.
Đến tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Q Ly (lúc này đã là ơng ngoại
vua Trần) phế truất Trần Thiếu Đế, cướp ngôi vua, lập nên nhà nước Đại
Ngu, đổi niên hiệu là Thánh Nguyên. Triều Hồ chính thức đƣợc thành lập.
Chƣa đầy một năm sau, noi gƣơng các vua Trần, ông nhƣờng ngôi cho
con thứ là Hồ Hán Thƣơng, tự mình làm Thái thƣợng hồng nhƣng vẫn quyết
đốn mọi việc trong triều, ngồi nội.

22



Năm 1406, dƣới ngọn cờ/chiêu bài “Phù Trần diệt Hồ”, nhà Minh sai
Trƣơng Phụ và các tƣớng mang hàng chục vạn quân sang đánh Đại Ngu. Cha
con Hồ Quý Ly chỉ chống cự đƣợc thời gian ngắn, trƣớc khi thua chạy vào
Thanh Hóa - rồi Nghệ An, Hà Tĩnh.
Tháng 6 năm Đinh Hợi (1407), Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt ở cửa
biển Kỳ La (Hà Tĩnh), chấm dứt cuộc đời một hồng đế cƣớp ngơi.
Với Mạc Đăng Dung, chúng ta cũng có “mẫu số chung” tƣơng tự của
Đế quyền hình thành từ thốn đoạt.
Mạc Đăng Dung (1483 - 1541) vốn là dân chài miền biển Hải Phòng,
hồi nhỏ làm nghề đánh cá; lớn lên nhờ có sức khỏe mà đỗ lực sĩ xuất thân, sau
đƣợc sung vào quân túc vệ đời Lê Uy Mục - thời Lê Sơ.
Đến năm 1508, Đăng Dung đƣợc làm Thiên vũ vệ đô chỉ huy sứ ty đô
chỉ huy sứ. Ba năm sau, ông giữ chức Đô chỉ huy sứ tƣớc Vũ Xuyên bá.
Sau gần một trăm năm kể từ ngày Lê Thái Tổ sáng nghiệp, lúc này nhà
Lê Sơ đã bắt đầu rơi vào vịng xốy suy thối: bên ngồi khởi nghĩa nơng dân
bùng phát gắn với tên tuổi Trần Cảo; bên trong nội bộ triều đình hình thành
nhiều phe phái, khơng dung hòa về quyền lợi. Khởi nghĩa Trần Cảo mới tạm
yên, Trần Chân và Trịnh Tuy đã quay sang đại phá Nguyễn Hoằng Dụ, mong
giành quyền bính về phe mình. Khơng chậm trễ, Đăng Dung kết thân cùng
Trần Chân qua nẻo đƣờng thông gia (con trai Đăng Dung là Mạc Đăng Doanh
hỏi ái nữ của Trần Chân làm vợ).
Khi vua Lê Chiêu Tơng - vì nghe gièm - cho ngƣời hạ thủ Trần Chân,
bộ tƣớng của Chân là Nguyễn Kính nổi loạn (1518) thì Mạc Đăng Dung
(đang trấn thủ Hải Dƣơng) đƣợc cử đi đánh dẹp. Năm 1521, Đăng Dung chiêu
hàng đối phƣơng, đập tan khởi nghĩa nông dân, quyền thế lấn át cả triều đình.
Khơng lâu sau, Đăng Dung phế truất Chiêu Tơng, đƣa Lê Cung Hồng lên
ngơi, cịn Chiêu Tông đƣợc Trịnh Tuy mang về xứ Thanh.


23


Đến năm 1523, nhân phe Chiêu Tông yếu thế, Mạc Đăng Dung quyết
định cất quân. Lần lƣợt Trịnh Tuy thua chạy - chết (năm 1524); Lê Chiêu
Tông bị giết (năm 1526) đã giúp Đăng Dung tiện bề “hành động”. Và ngày 15
tháng 6 âm lịch năm 1527, Mạc Đăng Dung phế truất Cung Hồng, ép vua
viết chiếu nhường ngơi, lập ra nhà Mạc (1527 - 1592).
Cũng nhƣ Hồ Quý Ly, Mạc Đăng Dung chỉ làm vua trong một thời
gian ngắn (1527 - 1529). Sau đó, ơng nhƣờng ngơi cho con trƣởng là Mạc
Đăng Doanh, lui về làm Thái thƣợng hoàng. Khi Mạc Đăng Doanh mất
(1540), Đăng Dung lập cháu nội (đích tơn) là Mạc Phúc Hải lên thay.
Triều Mạc kết thúc vai trò lịch sử vào năm 1592, thời Mạc Mậu Hợp,
trải 5 đời vua. Những Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc
Kính Vũ… dẫu cố “vùng vẫy” ở mảnh đất địa đầu Cao Bằng thêm vài thập
niên chỉ kéo dài sự cát cứ, khơng có đƣợc Đế quyền đúng nghĩa.
So với nhà Hồ (1400 - 1407), qng thời gian trị vì của nhà Mạc quả có
“dài” hơn gần sáu chục năm, nhƣng vẫn là “ngắn” nếu nhìn vào lịch sử các
vƣơng triều: Lý (1009 - 1225), Trần (1225 - 1400), Lê (1428 - 1788) hay
Nguyễn (1802 - 1945) sau này. Có điều gì “bất thƣờng” hay chỉ là sự “ngẫu
nhiên” khi Đế quyền giành đƣợc từ hành động thốn đoạt?
Rõ ràng, trong những con đƣờng hình thành Đế quyền chúng ta đã và
đang đề cập, chuyện “cƣớp ngôi” chƣa bao giờ đƣợc “hoan nghênh” trong
thời quân chủ; thậm chí, cịn bị lên án nặng nề. “Lên án”, vì xét cho cùng,
ngơi vị Đế quyền ở phƣơng Đông cổ đại là “sản phẩm” của một hệ tƣ tƣởng
nhất định - Nho giáo. Chính Nho giáo đã siêu hình, thần thánh hóa ngơi vua
thì nó cũng phải đặt ra “lý luận” bảo vệ Đế vị, Đế quyền. Hồ Quy Ly và Mạc
Đăng Dung đều không phải “tay mơ”, khơng phải khơng có “cớ” và càng
khơng thiếu lý do biện minh cho hành động cƣớp ngơi của mình (nhƣ triều
chính đƣơng thời đổ nát, kẻ thù đã “lấp ló” đầu ngõ hay đang cùng kiệt sức


24


dân, nhiều phong trào nông dân khởi nghĩa…) nhƣng dƣ luận xã hội lúc bấy
giờ và sau đó hàng mấy thế kỷ đều “không chấp nhận”. Mà “dƣ luận” đâu chỉ
có “điều tiếng” của các nhà nho, tầng lớp sĩ phu? Đó cịn là lịng dân, thái độ
bất hợp tác lúc “ngụy triều” gặp tình thế nguy ngập, nƣớc đã đến chân. Chẳng
phải vào cuối năm Ất Dậu (1405), khi “Hán Thƣơng truyền cho an phủ sứ các
lộ về kinh sƣ cùng với các quan ở Kinh họp bàn nên đánh hay nên hịa. Có
ngƣời bàn nên đánh, chớ để làm mối lo sau này; trấn thủ Bắc Giang là
Nguyễn Quân cho là hãy nên tạm hòa, theo nhƣ ý giặc muốn, để tạm hỗn
qn thì hơn” [20, 444], tƣớng quốc Hồ Ngun Trừng đã nói ngay: “Thần
khơng ngại đánh, chỉ sợ lịng dân có theo hay khơng theo thơi” sao? Thực tế
sau đó cũng cho thấy: lịng dân khơng theo họ Hồ, dù họ phải miễn cƣỡng
chấp nhận một triều đại mới. Hay dẫu Mạc Đăng Dung có ép đƣợc nhà vua ra
lời chiếu “Ta khơng có đức, gánh vác khơng nổi. Mệnh trời, lịng ngƣời theo về
ngƣời có đức. Xét ngƣời là Thái sƣ An Hƣng vƣơng Mạc Đăng Dung có tƣ
chất duệ trí, tài lƣợc văn võ, ngồi đánh bốn mặt, các phƣơng phục tịng, trong
coi trăm quan, mọi việc đều tốt, công to đức lớn, trời cho ngƣời theo, nay theo
lẽ phải, nên nhƣờng ngôi cho. Nên cố sửa đức, lâu giữ mệnh trời, để yên dân
chúng. Mong kính theo đó” [20, 822]; rồi con cháu ông trị nƣớc an dân tới độ
mẫu mực: “Cấm các xứ trong ngồi ngƣời ta khơng đƣợc cầm giáo mác và binh
khí hồnh hành ở đƣờng sá, ai trái thì cho pháp ty bắt. Từ đấy ngƣời buôn bán
và ngƣời đi đƣờng đều đi tay khơng, ban đêm khơng có trộm cƣớp, trâu bị thả
chăn khơng phải đem về, chỉ mỗi tháng điểm sốt một lần, hoặc có sinh đẻ
cũng khơng thể biết là vật của nhà mình. Trong khoảng vài năm, đƣờng sá
khơng nhặt của rơi, cổng ngồi khơng đóng, thƣờng đƣợc mùa to, trong cõi tạm
yên” [20, 829]… thì cũng khơng ai qn chuyện nhiều quan lại, nho sĩ nhất
quyết “trung liệt há cam thờ hai chủ”, đã công khai chống đối, phỉ báng, sỉ

nhục Mạc Đăng Dung, sẵn sàng đón nhận cái chết hoặc treo ấn từ quan về ở ẩn

25


×