Tải bản đầy đủ (.pdf) (130 trang)

(Luận văn thạc sĩ) công tác thông tin đối ngoại cho người việt nam ở nước ngoài thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 130 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THANH HƯƠNG

CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế

Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ THANH HƯƠNG

CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Quan hệ quốc tế
Mã số: 60.31.40

Người hướng dẫn khoa học: TS. PHẠM MINH SƠN


Hà Nội - 2011


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

3

MỞ ĐẦU

4

1. Tính cấp thiết của đề tài

4

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

5

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu

7

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

8

5. Bố cục của đề tài


9

Chƣơng 1: VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC THƠNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI

10

1.1. Một số khái niệm cơ bản

10

1.2. Vài nét về Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

14

1.3. Tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại cho người
Việt Nam ở nước ngồi

23

1.4. Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với công
tác thông tin, tuyên truyền, vận động người Việt Nam ở nước ngoài

29

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN QUA

50


2.1. Đánh giá chung về công tác thông tin đối ngoại thời gian qua

50

2.2. Nội dung, phương châm, lực lượng, phương tiện thực hiện
công tác thông tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngồi

55

2.3. Các hoạt động thơng tin đối ngoại cơ bản cho người Việt
Nam ở nước ngoài

65

2.4. Đánh giá chung về công tác thông tin đối ngoại cho người Việt
Nam ở nước ngoài trong thời gian qua

86

1


Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC THÔNG TIN ĐỐI NGOẠI CHO NGƢỜI VIỆT
NAM Ở NƢỚC NGOÀI TRONG THỜI GIAN TỚI

92

3.1. Bài học kinh nghiệm của một số nước trong công tác thông tin đối

ngoại cho kiều dân

92

3.2. Phương hướng đẩy mạnh công tác thơng tin đối ngoại cho
người Việt Nam ở nước ngồi

95

3.3. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác thông tin

96

đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới
KẾT LUẬN

101

TÀI LIỆU THAM KHẢO

103

PHỤ LỤC

111

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


1. ASEAN

Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

2. AFTA

ASEAN Free Trade Area
Khu vực thương mại tự do ASEAN

3. APEC

Asia-Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương

4. CAND

Cơng an nhân dân

5. NVNONN

Người Việt Nam ở nước ngồi

6. QĐND

Qn đội nhân dân

7. TTĐN


Thơng tin đối ngoại

8. TTXVN

Thông tấn xã Việt Nam

9. USD

Đôla Mỹ

10.WTO

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua nhiều giai đoạn biến động của lịch sử đất nước, nhiều thế hệ
người Việt Nam đã ra nước ngoài làm ăn sinh sống, hình thành một cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài với hơn 4 triệu người ở hơn 100 quốc gia
và vùng lãnh thổ khác nhau. Khẳng định cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng
dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác
hữu nghị giữa nước ta với các nước, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan
tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đồng bào ta ở nước ngồi an tâm làm ăn
có cuộc sống ngày càng ổn định và thành đạt hơn, từng bước hội nhập vào đời
sống chính trị, kinh tế - xã hội nơi cư trú, giữ gìn bản sắc văn hố truyền

thống và gắn bó với q hương, đất nước.
Song, một vấn đề đặt ra là: Đồng bào ở xa Tổ quốc, khơng có điều kiện
thường xun về thăm q hương thường khó nắm bắt tình hình ở q nhà.
Những tin tức về các vấn đề kinh tế, chính trị, văn hố,… trong nước đến
được với kiều bào cịn chưa kịp thời. Do đó, việc cộng đồng người Việt Nam
ở nước ngồi khơng hiểu rõ hoặc hiểu sai về tình hình đất nước là khó tránh
khỏi. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp
khắc phục khó khăn, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trị, tầm quan trọng của
cơng tác thơng tin đối ngoại đối với người Việt Nam ở nước ngồi.
Có thể nói, cơng tác thơng tin đối ngoại giữ vai trò chủ chốt trong việc
làm cầu nối giữa cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và đất nước, qua
đó cung cấp cho kiều bào những thơng tin chính xác, chân thực nhất về mọi
vấn đề của đất nước một cách nhanh chóng. Hoạt động thơng tin đối ngoại
cho người Việt Nam ở nước ngoài trong những năm qua đã đạt được nhiều
thành tựu nổi bật, đáng kể song vẫn cịn tồn tại những khó khăn cũng như

4


những yếu kém chưa thể khắc phục được. Tuy thông tin trong nước đến với
cộng đồng đã chuyển mạnh cả về số lượng và chất lượng nhưng nhìn chung
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra của công tác thông tin đối ngoại. Vẫn cịn một bộ
phận khơng nhỏ kiều bào do thiếu thông tin hoặc bị tác động bởi những luận
điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, chưa có dịp về thăm đất nước để thấy
rõ những thành tựu của công cuộc Đổi mới nên chưa hiểu đúng về tình hình
đất nước và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước nên đã có những
hoạt động khơng phù hợp với lợi ích của cộng đồng và đất nước. Bên cạnh đó,
các lực lượng phản động ở bên ngồi khơng ngừng sử dụng các phương tiện
thơng tin tun truyền chống ta quyết liệt và khống chế cộng đồng dưới nhiều
hình thức khác nhau. Đây là lý do tơi chọn đề tài “Công tác thông tin đối

ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài – Thực trạng và giải pháp” nhằm
làm sáng tỏ hơn nữa vai trò, tầm quan trọng của hoạt động thông tin đối ngoại
cho người Việt xa xứ, cũng như tổng kết lại những mặt đã đạt được và chưa
đạt được của hoạt động này, qua đó đề xuất một vài giải pháp nhằm khắc
phục hạn chế và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động thông tin đối ngoại
cho người Việt Nam ở nước ngồi.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ thị, nghị
quyết, quyết định về vấn đề người Việt Nam ở nước ngồi cũng như cơng tác
thơng tin đối ngoại nói chung và công tác thông tin đối ngoại cho người Việt
Nam ở nước ngồi nói riêng. Đến nay, đã có nhiều đề tài, đề án, bài nghiên
cứu về người Việt Nam ở nước ngồi, về cơng tác thơng tin đối ngoại. Có thể
phân chia các cơng trình nghiên cứu này theo các nhóm tài liệu nghiên cứu
sau:
- Nhóm thứ nhất: về Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài: Đã có
những cơng trình nghiên cứu như: “Người Việt Nam ở nước ngồi”, Nhà
Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1997; “Người Việt ở nước ngoài

5


khơng chỉ có Việt kiều” Trần Trọng Đăng Đàn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, Hà Nội năm 2005; Đề tài cấp Bộ của Đại học Mở Bán công TP Hồ Chí
Minh về “Tìm hiểu cộng đồng người Việt Nam ở Thái Lan” năm 2004; Đề tài
nghiên cứu cấp bộ về “Vai trò của cộng đồng người Việt ở Lào trong mối
quan hệ Việt Nam – Lào” năm 2007,…
- Nhóm thứ hai: về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi: Đã có những cơng
trình nghiên cứu như: Đề tài cấp Bộ “Công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài: thực tiễn và cơ sở lý luận” năm 2003 và Đề tài cấp Bộ về “Công

tác đối với người Việt Nam ở nước ngồi trong tình hình mới giai đoạn từ nay
đến năm 2020 vì sự nghiệp phát triển đất nước” năm 2007 của Ủy ban Nhà
nước về người Việt Nam ở nước ngoài; Đề tài luận văn thạc sĩ của Nguyễn
Bảo Chung, Học viện Ngoại giao năm 2008 về “Chính sách của Việt Nam đối
với người Việt Nam ở nước ngoài trong thời kỳ đổi mới”…
- Nhóm thứ ba: về cơng tác thơng tin đối ngoại: Có những cơng trình
nghiên cứu như: Đề tài cấp Bộ “Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công
tác thơng tin đối ngoại trong tình hình mới” của Ban Tư tưởng - Văn hóa TW
(nay là Ban Tuyên giáo TW), năm 2007; Đề tài cấp Bộ của Học viện Báo chí
và Tun truyền về: “Đẩy mạnh Cơng tác thơng tin đối ngoại trong quá trình
hội nhập quốc tế ở Việt Nam” năm 2008; “Truyền thông đại chúng trong công
tác thông tin đối ngoại của Việt Nam hiện nay” của TS. Phạm Minh Sơn và
TS. Nguyễn Thị Quế, NXB Chính trị – Hành chính, Hà Nội năm 2009...
Ở nhóm thứ nhất, các cơng trình tập trung nghiên cứu chủ yếu vào tình
hình của cộng đồng, vào lịch sử hình thành, những chuyến đi, về của người
Việt Nam ở nước ngoài. Trong khi đó, ở nhóm thứ hai, tập trung nghiên cứu
vào vấn đề chính sách cho người người Việt Nam ở nước ngoài, tuy nhiên
chưa đề cập đến vấn đề thông tin đối ngoại cho người người Việt Nam ở nước
ngồi. Cịn ở nhóm thứ ba, các cơng trình tập trung nghiên cứu về công tác

6


thơng tin đối ngoại nói chung. Tuy cũng có đề cập đến công tác thông tin đối
ngoại cho người Việt Nam ở nước ngồi, nhưng cịn rất hạn chế. Bên cạnh đó,
cũng có nhiều bản đánh giá, tổng kết về công tác thông tin đối ngoại cho
người Việt Nam ở nước ngoài. Nội dung của các bản đánh giá, tổng kết này là
chỉ ra những mặt thành công cũng như hạn chế, những mặt đã làm được cũng
như chưa làm được của hoạt động thơng tin đối ngoại, qua đó rút ra những bài
học kinh nghiệm. Đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào có tính chất

chun sâu, chính thức, đầy đủ về tình hình hoạt động và cách thức sử dụng
thông tin đối ngoại như một kênh truyền thông hữu hiệu trong công tác thông
tin cho người Việt Nam ở nước ngồi.
Chính vì vậy, luận văn “Cơng tác thơng tin đối ngoại cho người Việt
Nam ở nước ngồi – Thực trạng và giải pháp”, sẽ góp phần giải quyết những
khó khăn, bất cập trong cơng tác thơng tin đối ngoại cho người Việt Nam ở
nước ngồi.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng công tác thông
tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay, luận văn đề xuất
những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các khái niệm: Thông tin đối ngoại; Người Việt Nam ở nước
ngồi.
- Làm rõ quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với người
Việt Nam ở nước ngồi.
- Phân tích thực trạng cơng tác thơng tin đối ngoại cho người Việt Nam
ở nước ngoài hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác thơng tin đối ngoại
cho người Việt Nam ở nước ngồi trong thời gian tới.

7


3.3. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
- Về mặt thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu công tác thơng tin
đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngồi từ khi có Chỉ thị 11-CT/TW
ngày 13/6/1992 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Đổi mới và tăng cường
công tác thơng tin đối ngoại” đến nay, trong đó đặt trọng tâm vào giai đoạn từ

2004 đến 2010, thời điểm Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị và Chương trình
hành động của Chính phủ về cơng tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
ra đời.
- Về mặt nội dung: Luận văn nêu khái quát về cộng đồng người Việt
Nam ở nước ngồi, vai trị của cơng tác thơng tin đối ngoại cho người Việt
Nam ở nước ngoài và những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước
ta đối với người Việt Nam ở nước ngoài. Luận văn đi sâu vào nghiên cứu,
phân tích các hoạt động thơng tin đối ngoại cơ bản cho người Việt Nam ở
nước ngoài, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác thông tin
đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài trong thời gian tới.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Tuân thủ các nguyên tắc và nhận thức luận Mác xít, cụ thể là phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
- Trên cơ sở các quan điểm nguyên tắc chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
ta về công tác thông tin đối ngoại nói chung và cơng tác thơng tin đối ngoại
cho người Việt Nam ở nước ngồi nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích tài liệu: đọc, tìm hiểu và phân tích các tài liệu
có liên quan đến người Việt Nam ở nước ngồi, thơng tin đối ngoại, công tác
thông tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngồi.
Phương pháp thống kê, lơgíc, tổng hợp...

8


5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn gồm 3 chương, 10 tiết với
các nội dung chính như sau:
Chƣơng 1:

Nêu một số khái niệm về “Thơng tin đối ngoại”, “Người Việt Nam ở
nước ngồi”, “Việt kiều”, “Kiều bào”. Tiếp đó, Luận văn nêu khái quát về
cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, từ lịch sử hình thành đến tình hình
hiện nay của Cộng đồng; Luận văn khẳng định tầm quan trọng của công tác
thông tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngồi và nêu những chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác thông tin tuyên
truyền, vận động kiều bào.
Chƣơng 2:
Luận văn đánh giá chung về tình hình cơng tác thơng tin đối ngoại.
Trình bày thực trạng công tác thông tin đối ngoại cho NVNONN trong thời
gian qua, phân tích và đánh giá đưa ra những thành cơng và hạn chế của cơng
tác này, tìm hiểu ngun nhân của những thành cơng và hạn chế đó.
Chƣơng 3:
Luận văn đã đưa ra phương hướng và trình bày một số nhóm giải pháp
để đẩy mạnh cơng tác thơng tin đối ngoại cho NVNONN trong thời gian tới.

9


Chƣơng 1
VAI TRỊ CỦA CƠNG TÁC THƠNG TIN ĐỐI NGOẠI
CHO NGƢỜI VIỆT NAM Ở NƢỚC NGOÀI
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm Thông tin đối ngoại
Khái niệm “Thông tin đối ngoại”, “Hoạt động thông tin đối ngoại” và
“Công tác thông tin đối ngoại” ngày càng xuất hiện nhiều trong các tư liệu về
chính sách đối ngoại của hầu hết các quốc gia, các vùng lãnh thổ, các tổ chức
và phong trào trên thế giới. Cùng với sự phát triển đa dạng của các loại hình
truyền thơng, thuật ngữ “Thông tin đối ngoại” cũng ngày càng phổ biến hơn
và trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một nghiên cứu mang

tính chun mơn, khoa học hay chính thống về thuật ngữ này.
Theo từ điển tiếng Việt, “Thông tin” là “Truyền tin cho nhau để biết”
[80, tr. 953] , “Đối ngoại” là “Đối với nước ngoài, bên ngồi, nói về đường
lối, chính sách, sự giao thiệp của một Nhà nước, một tổ chức” [80, tr. 338]
Với tính chất như trên, “Thơng tin đối ngoại có thể được hiểu là những
tin tức, thông báo, tri thức về một sự vật, hiện tượng được con người tiếp
nhận và chọn lựa một cách có chủ đích để sử dụng trong hoạt động truyền tải
thơng điệp ra bên ngồi lãnh thổ một quốc gia hay cho các đối tượng là
người nước ngồi nhằm mục đích cung cấp thơng tin chính thống, xác thực và
tích cực nhằm nâng cao hình ảnh quốc gia đó trong mắt bạn bè quốc tế” [45].
Ở trên thế giới có một thuật ngữ khá tương đồng với thuật ngữ “thơng
tin đối ngoại” đó là “public diplomacy” – “ngoại giao công chúng”. Theo
Trung tâm Ngoại giao nhân dân Edward R.Murrow, thuộc Đại học Tufts, Hoa
Kỳ thuật ngữ “Public diplomac” được định nghĩa như sau: “Ngoại giao công
chúng liên quan đến những ảnh hưởng của thái độ công chúng đối với sự hình
thành và thực hiện các chính sách ngoại giao; Nó bao gồm sự đa chiều trong

10


quan hệ quốc tế vượt ra ngoài phạm vi ngoại giao truyền thống; Sự tác động
của một chính phủ lên quan điểm của nhân dân các nước khác; Sự tương tác
giữa các nhóm cá nhân và các nhóm lợi ích trong một quốc gia với quốc gia
khác; Tình hình quốc tế và những tác động của nó lên các chính sách; Sự
thông tin giữa những người làm về thông tin như các nhà ngoại giao và phóng
viên nước ngồi, q trình truyền thơng xun văn hố.”
Theo Từ điển Thuật ngữ Quan hệ quốc tế của Uỷ ban Quốc gia Mỹ,
“public diplomacy” chỉ những chương trình thuộc bảo trợ của chính phủ
nhằm thông tin hoặc tác động lên quan điểm của nhân dân của nước khác, mà
cơng cụ chính là thơng qua các ấn phẩm, phim ảnh, giao lưu văn hoá, phát

thanh, truyền hình” [78, tr.85].
Có nhiều quan điểm khác nhau nhưng nhìn chung qua đó đều thấy rằng
ngoại giao cơng chúng hay “public diplomacy” ở bất cứ quốc gia nào cũng
chính là việc tuyên truyền, quảng bá các chính sách chính trị, các giá trị văn
hố của nước mình ra bên ngoài lãnh thổ quốc gia nhằm mục tiêu tranh thủ sự
đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới và từ đó tăng cường lợi ích của đất
nước mình.
Từ cách hiểu thông tin đối ngoại nêu trên, khái niệm “hoạt động thông
tin đối ngoại” được hiểu là hoạt động giao lưu, trao đổi, thiết lập và duy trì
mối quan hệ giữa một quốc gia với các chủ thể khác bên ngồi biên giới quốc
gia đó. Hoạt động thơng tin đối ngoại là một trong những hoạt động căn bản
của bất kỳ quốc gia dân tộc nào nhằm tăng cường lợi ích cũng như đẩy mạnh
vai trị, vị thế của mình trên trường quốc tế. Với mục đích xây dựng, củng cố
và duy trì hình ảnh tốt đẹp cũng như mối quan hệ bền vững của quốc gia
mình đối với các quốc gia khác, hoạt động thông tin đối ngoại chính là hoạt
động trao đổi thơng tin về các đường lối chính sách của nhà nước cũng như
hoạt động đưa tin quảng bá giới thiệu về tình hình kinh tế văn hố – xã hội
của quốc gia đó với bạn bè thế giới.

11


Ngồi ra, “Thơng tin đối ngoại” cịn được hiểu theo những cách khác:
là một dạng thông tin, là một lĩnh vực đào tạo, là một lĩnh vực hoạt động.
Là một dạng thông tin về khoa học xã hội, thông tin đối ngoại được
hiểu là những tin tức, thông báo, tri thức về một hiện tượng, sự việc được
chứa đựng trong các hình thức nhất định được con người tiếp nhận, lựa chọn
sử dụng trong các phương thức thích hợp trong hoạt động thông tin đối ngoại.
Là một lĩnh vực đào tạo, thơng tin đối ngoại có nhiệm vụ đào tạo đội
ngũ cán bộ có trình độ chun mơn, đại học, có khả năng thực hiện những

chức trách của người làm công tác thông tin đối ngoại, công tác tổ chức, quản
lý hoạt động thông tin đối ngoại của các cơ quan, các tổ chức Đảng, Nhà
nước, các đồn thể chính trị xã hội, các cơ sở nghiên cứu, đào tạo, các doanh
nghiệp hoặc thực hiện các chức trách đòi hỏi sự hiểu biết cơ bản hệ thống, kỹ
năng, lý luận, nghiệp vụ thông tin đối ngoại.
Là một lĩnh vực hoạt động, thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan
trọng của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm cho các nước,
người nước ngoài (gồm cả người nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại
Việt Nam), người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu về
đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành
tựu đổi mới của ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới,
đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Từ những cách hiểu trên có thể thấy tầm quan trọng của công tác thông
tin đối ngoại trong thời đại mới, nhất là hiện nay trong bối cảnh tồn cầu hố
và hợp tác kinh tế quốc tế, thơng tin đối ngoại ngày càng có ý nghĩa quan
trọng. Thơng tin đối ngoại đã, đang và sẽ góp phần vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ và phát huy bản sắc dân tộc.
Chỉ thị số 10/2000/CT- TTg ngày 26/04/2000 của Thủ tướng Chính
phủ “Về tăng cường quản lý và đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại” nêu

12


rõ: “Thông tin đối ngoại là một bộ phận rất quan trọng của công tác đối
ngoại của Đảng, Nhà nước ta nhằm làm cho các nước, người nước ngoài
(bao gồm cả người nước ngồi đang sinh sống, cơng tác tại Việt Nam), người
Việt Nam đang sinh sống, và làm việc ở nước ngoài hiểu về đất nước, con
người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành tựu đổi mới của
ta, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế giới, sự đóng góp của

cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp xây dựng vào bảo vệ
Tổ quốc”.
1.1.2. Khái niệm “Ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngoài”, “Việt kiều” và
“kiều bào”
- Khái niệm “người Việt Nam ở nước ngoài” hiện nay dùng để chỉ tất
cả những người có nguồn gốc Việt Nam cư trú ở nước ngồi, khơng phân biệt
hệ thống chính trị, mang quốc tịch Việt Nam hay quốc tịch của nước đang cư
trú.
Khái niệm “người Việt Nam ở nước ngoài” lần đầu tiên được giải thích
một cách chính thức trong Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, tại Điều 2,
Khoản 3 định nghĩa “người Việt Nam ở nước ngồi là cơng dân Việt Nam và
người gốc Việt Nam đang thường trú hoặc tạm trú ở nước ngoài”. Trong Luật
quốc tịch Việt Nam, Quốc hội thông qua năm 2008, Điều 3 quy định “Người
Việt Nam định cư ở nước ngồi là cơng dân Việt Nam và người gốc Việt Nam
cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài; Người gốc Việt Nam định cư ở nước
ngoài là người Việt Nam đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi sinh ra quốc
tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và con, cháu của họ
đang cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”.
Năm 1993, Ban Việt kiều Trung ương cũng được đổi tên thành Ủy ban
về người Việt Nam ở nước ngồi. Có thể nói đây là khái niệm rộng nhất, bao
hàm tất cả các đối tượng người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngồi khơng
phụ thuộc vào yếu tố quốc tịch hay cư trú.

13


- Về ngữ nghĩa, từ “kiều” gốc Hán Việt, mang hàm ý xa xôi, sống phiêu
bạt ở xứ người. Khi từ “kiều” được ghép với danh từ riêng, tên gọi một quốc
gia hay một dân tộc, trở thành danh từ mang nghĩa “kiều dân” của một quốc
gia sống ở nước ngồi. Ví dụ: Hoa kiều, Ấn kiều là người dân tộc Trung Hoa,

Ấn Độ sống ở nước ngoài.
Tương tự, từ “Việt kiều” dùng để chỉ người Việt Nam sống ở nước
ngoài, cũng như “Ấn kiều”, “Hoa kiều” ở Việt Nam là kiều dân của các nước
Ấn Độ, Trung Hoa làm ăn, lập nghiệp, thậm chí sinh trưởng tại Việt Nam.
Trước năm 1975, do điều kiện lịch sử, vấn đề quốc tịch khơng đặt ra (một
phần vì nó q phức tạp, đa dạng, nên tự nó cũng khơng có ý nghĩa quan
trọng), nên từ rất sớm “Việt kiều” được hiểu theo nghĩa rộng nhất để chỉ tất cả
những người Việt Nam cư trú ở nước ngoài.
Từ “kiều bào” được sử dụng nhiều trong các bài diễn văn, phát biểu của
các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trong văn chương, sách, báo mang nghĩa
tương tự như Việt kiều, người dân Việt Nam sống xa Tổ quốc. Tuy nhiên, từ
“kiều bào” ít mang tính pháp lý, nặng về ý nghĩa dân tộc, tình cảm dân tộc
Trong bài luận văn này, để rút gọn trong khi viết và đôi lúc để nhấn
mạnh ý nghĩa tình cảm dân tộc, đồng bào (hơn là tính pháp lý) một số chỗ vẫn
sử dụng khái niệm “ kiều bào” hoặc “Việt kiều” thay cho “Người Việt Nam ở
nước ngoài”.
1.2. Vài nét về Cộng đồng ngƣời Việt Nam ở nƣớc ngồi
1.2.1. Sơ lƣợc về lịch sử hình thành và tình hình cộng đồng ngƣời
Việt Nam ở nƣớc ngồi
Cách đây hàng trăm năm đã có người Việt Nam ra nước ngồi sinh
sống. Sử sách cịn ghi lại, vào thế kỷ XIII, con cháu dòng họ Lý nước ta đã
sang Hàn Quốc lập nghiệp; thế kỷ XVII, có người Việt Nam sang làm ăn tại
Campuchia; thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, có nhiều người Việt sang lánh
nạn, sinh sống làm ăn ở Campuchia, Lào, Thái Lan và Trung Quốc.

14


Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, một
số người Việt Nam đi du học, làm công chức tại Pháp, hoặc bị động viên đi

lính, đi phu tại một số thuộc địa của Pháp. Trong thời kỳ chiến tranh, có thêm
một số người ra đi lánh nạn, kiếm sống, theo chồng hồi hương, hoặc đi tu
nghiệp, du học nước ngoài. Tuy nhiên, trước năm 1975, số lượng NVNONN
khơng lớn, chỉ có khoảng 16-20 vạn người ở 10 nước, nhưng phần đơng có tư
tưởng sống tạm thời, chờ khi có điều kiện thuận lợi thì trở về nước.
Sau năm 1975, đã có sự thay đổi sâu sắc về số lượng, thành phần, tính
chất cũng như địa bàn sinh sống của cộng đồng NVNONN. Số người ra đi (di
tản trước tháng 4-1975, vượt biên trong các năm 1978-1980, theo chương
trình ra đi có trật tự và các chương trình nhân đạo năm 1980-1996) đã lên tới
khoảng 2 triệu người, chủ yếu tới Mỹ, Úc, Canađa, Nhật Bản, các nước Tây
và Tây - Bắc Âu... Thêm vào đó, sau năm 1990, có một số khá đơng sinh
viên, thực tập sinh và lao động Việt Nam ở Liên Xô cũ và Đông Âu đã ở lại
các nước này sinh sống, làm ăn.
Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài phát triển nhanh về số lượng
và ngày càng đa dạng về thành phần. Bên cạnh những người đã xa Tổ quốc
lâu năm, hàng năm lại có thêm hàng chục ngàn người Việt Nam đi đồn tụ gia
đình, được nhận làm con nuôi, học tập, lao động, làm ăn, kinh doanh ở nước
ngồi; “số lượng người Việt Nam kết hơn với người nước ngoài hiện nay lên
tới hơn 100.000 người” [77]. Bên cạnh những người từ trong nước ra đi, đã có
thế hệ thứ hai, thứ ba các thanh thiếu niên gốc Việt sinh ra ở nước ngoài.
Đến nay, hiện có “hơn 4 triệu người Việt Nam ở nước ngồi tại 103
nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghiệp phát
triển”[77]. Phần đông, đồng bào ta ở nước ngoài ngày càng ổn định cuộc sống
và hồ nhập xã hội nơi cư trú, có vị trí nhất định trong đời sống kinh tế chính
trị - xã hội ở nước sở tại, có tác động ở mức độ khác nhau tới mối quan hệ
giữa các nước đó với Việt Nam. Bên cạnh đó, trong những năm qua, hàng

15



trăm nghìn người Việt Nam đã ra nước ngồi lao động, học tập, tu nghiệp,
đồn tụ gia đình, hình thành nên cộng đồng người Việt Nam tại một số địa
bàn mới tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaixia...
So với các cộng đồng thiểu số khác, cộng đồng NVNONN là cộng
đồng trẻ, năng động và nhanh chóng hồ nhập vào xã hội nước sở tại. Đại đa
số người Việt Nam ở Mỹ, Úc, Canađa và các nước Tây Âu có xu hướng định
cư lâu dài (khoảng 80% đã nhập quốc tịch nước cư trú, nhưng hầu hết chưa
thôi quốc tịch Việt Nam). Trong khi đó, tiềm lực chất xám, trí tuệ của cộng
đồng người Việt Nam khá lớn, nhất là ở các nước phương Tây, Nga và Đông
Âu. “Hiện trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngồi có khoảng 400.000
người được đào tạo ở trình độ đại học và trên đại học, cơng nhân kỹ thuật bậc
cao, có kiến thức hiện đại về khoa học - công nghệ và quản lý kinh tế” [77].
Trong đó, có nhiều người đã đạt được ví trí quan trọng trong các viện nghiên
cứu, trường đại học, bệnh viện, công ty kinh doanh và các tổ chức quốc tế.
Một thế hệ trí thức mới người Việt Nam ở nhiều lĩnh vực khoa học chuyên
ngành và kinh tế mũi nhọn như tin học, viễn thông, điện tử, vật liệu mới, chế
tạo máy móc, điều khiển học, sinh học, quản lý kinh tế, chứng khốn... đang
được hình thành và phát triển tập trung ở Bắc Mỹ, Tây Âu và châu Đại
Dương.
Luôn hướng về cội nguồn là nét nổi bật ở cộng đồng NVNONN, thể
hiện qua những tâm tư, tình cảm, những đóng góp vật chất, những cống hiến
trí tuệ dành cho đất nước. Số bà con Việt kiều về Việt Nam ngày càng tăng.
Có rất nhiều dự án đầu tư của người Việt Nam ở nước ngoài về trong nước.
Lượng kiều hối bà con gửi về hàng năm năm sau cao hơn năm trước. Hàng
năm có hàng trăm lượt chuyên gia trí thức kiều bào về nước nghiên cứu, giảng
dạy, hợp tác với các trường đại học, các viện nghiên cứu; nhiều hội, đoàn và
các tổ chức nghề nghiệp của người Việt, đặc biệt là ở các nước phát triển
được thành lập và hoạt động có hiệu quả, hướng về quê hương đất nước, thực

16



hiện các hoạt động, các dự án hợp tác khoa học, cơng nghệ và các hoạt động
mang tính nhân đạo trợ giúp đồng bào trong nước.
Dù sống xa đất nước, đa số đồng bào có tinh thần yêu nước, tự tơn dân
tộc, có ý thức giữ gìn truyền thống, bản sắc văn hố và ln ln hướng về Tổ
quốc. Phấn khởi và tin tưởng vào thành công của công cuộc đổi mới của đất
nước, các thế hệ kiều bào ta ngày càng mong muốn được gắn bó, đóng góp
nhiều hơn với quê hương, đất nước.
Tuy nhiên, cộng đồng NVNONN cũng đang phải đối mặt với nhiều vấn
đề, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Ở một số nước, địa vị pháp lý của
người Việt Nam chưa vững vàng nên cộng đồng rất dễ bị tổn thương trước
những hành động bài xích, phân biệt đối xử, kỳ thị chủng tộc. Sự khác biệt về
văn hố, ngơn ngữ ảnh hưởng khơng nhỏ tới cuộc sống của bà con. Ảnh
hưởng của văn hoá bản địa và những yêu cầu của cuộc sống hàng ngày là
những thách thức không nhỏ đối với việc giữ gìn bản sắc văn hố truyền
thống và tiếng Việt. Ở một số nước, kiều bào còn phải đối mặt với nguy cơ
khủng hoảng, chiến tranh, xung đột. Ngoài ra, một số nhỏ lực lượng cực đoan,
phản động vẫn đi ngược lại lợi ích của bà con, cộng đồng và đất nước.
1.2.2. Đặc điểm và tình hình cộng đồng ngƣời Việt Nam ở một số
khu vực chủ yếu
1.2.2.1. Cộng đồng người Việt Nam tại Liên bang Nga và các nước
Đông Âu
Cộng đồng người Việt Nam tại Liên bang Nga và các nước Đơng Âu
hình thành trong bối cảnh đặc biệt. Thành phần ban đầu của cộng đồng chủ
yếu là trí thức, cán bộ, công nhân lao động được Nhà nước ta cử sang các
nước này nghiên cứu, học tập, thực tập, lao động. Về sau, một bộ phận đáng
kể sang làm ăn, kinh doanh và nhiều người sang thăm thân, du lịch rồi ở lại.
Gần đây, cộng đồng được bổ sung bằng dòng di cư lao động sang làm ăn và


17


cư trú bất hợp pháp. Chính vì vậy, tình hình cộng đồng trở nên phức tạp hơn
trước.
Người Việt Nam tại Liên bang Nga và các nước Đông Âu đang trong
quá trình tìm kiếm sự ổn định. Tuy đã đạt được những thành công bước đầu
về kinh tế, song xu hướng chung là đang chuyển đổi phương thức làm ăn cho
phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới với mục đích định cư, lập nghiệp lâu
dài. Hiện nay, tình hình Nga và các nước Đơng Âu đã có những thay đổi sâu
sắc: các nước này, đặc biệt là chín nước thuộc Đơng Âu sau khi đã trở thành
thành viên chính thức của EU (gồm Látvia, Litva, Estonia, Ba Lan, Cộng hoà
Séc, Slovakia, Hungary, Bungari và Rumani) đã và đang xiết chặt các quy chế
về nhập cư và cư trú cho phù hợp với quy định của EU. Có đến 80% người
Việt tại khu vực này chưa có quy chế cư trú rõ ràng.
Tuy nhiên, cộng đồng người Việt Nam tại Liên bang Nga và Đơng Âu
đã nhanh chóng điều chỉnh phương thức làm ăn, kinh doanh theo hướng phù
hợp với quy định mới, đồng thời tiếp tục ổn định cuộc sống, khẩn trương hoàn
tất các thủ tục, giấy tờ để hợp pháp hóa về cư trú, kinh doanh… Riêng đối với
Liên bang Nga, Chính phủ ta đang đề nghị phía bạn hỗ trợ trong khuôn khổ
hợp tác, xây dựng hai Trung tâm thương mại tại Mát-xcơ-va nhằm tạo điều
kiện cho bà con ổn định cuộc sống, làm ăn lâu dài và xem xét việc ký hiệp
định hợp tác lao động mới giữa hai nước. Mặc dù cịn nhiều khó khăn, ở Liên
bang Nga và các nước Đơng Âu đã có nhiều doanh nghiệp thành đạt và một
số đang hướng đầu tư về nước. Một số nơi đang hình thành các hình thức kinh
doanh phù hợp, có đóng góp cho ngân sách của địa phương, nhờ đó có uy tín
và được địa phương ủng hộ. Điều này tạo cơ sở thuận lợi cho việc ổn định đời
sống cộng đồng và xin cấp quy chế cư trú hợp pháp.
Các hội đoàn hướng về Tổ quốc cũng đã được thành lập ở Nga, Séc, Ba
Lan, Ucraina… và đang ngày càng phát huy vai trị tích cực trong cộng đồng.


18


Các sinh hoạt văn hóa, thơng tin, đời sống tinh thần, giữ gìn tiếng Việt và bản
sắc dân tộc… trong cộng đồng cũng được quan tâm chú ý hơn trước.
1.2.2.2. Cộng đồng người Việt Nam ở Đông Nam Á
Quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa nước ta với các nước láng giềng tiếp
tục phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ổn định cuộc sống, củng
cố và phát triển cộng đồng vững mạnh. Cộng đồng người Việt Nam tại Thái
Lan, Lào, Campuchia từ lâu là những cộng đồng người Việt có truyền thống
yêu nước, có nhiều đóng góp quan trọng cho hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ đi tới thắng lợi, được Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao.
Từ khi Việt Nam gia nhập ASEAN (7/1995), quan hệ Việt Nam - Thái
Lan được cải thiện, tạo điều kiện rất thuận lợi cho kiều bào trong việc hợp
pháp hoá giấy tờ và gia nhập quốc tịch Thái Lan để ổn định và phát triển.
Chính quyền ở các địa phương đã có thái độ thiện chí hơn đối với bà con, đã
thúc đẩy việc giải quyết cho con em kiều bào thế hệ thứ hai, thứ ba nhập quốc
tịch Thái Lan và cấp giấy tờ định cư cho kiều bào thế hệ thứ nhất.
Hiện nay, ở nhiều hội người Việt Nam tại Thái Lan, thế hệ trẻ đã tiếp
nhận vai trò lãnh đạo cộng đồng và đang kế thừa truyền thống cách mạng của
thế hệ đi trước, tiếp tục có những hoạt động tích cực hướng về quê hương, đất
nước thông qua các phong trào quyên góp ủng hộ hoạt động từ thiện, nhân
đạo ở trong nước (hỗ trợ tinh thần và vật chất cho đồng bào bị bão lụt với
tổng trị giá hàng tỷ đồng, tài trợ dự án xây dựng trường hướng nghiệp ở
Quảng Trị…). Vừa qua, Nhà nước ta đã quan tâm giải quyết nguyện vọng
thiết tha của kiều bào là được cấp hộ chiếu Việt Nam thông qua phỏng vấn
trực tiếp (do tính đặc thù của kiều bào tại Thái Lan) và xem xét giải quyết
từng bước các chế độ đãi ngộ, khen thưởng cho kiều bào có cơng, được đơng
đảo bà con hoan nghênh.

Tại Campuchia, trong những năm gần đây, cuộc sống của kiều bào
cũng có những cải thiện nhất định. Chính quyền Campuchia đã ra quyết định

19


cơng nhận tính hợp pháp của các hội người Việt Nam ở Trung ương và các
địa phương (đã thành lập được các hội ở 19 tỉnh, thành phố). Hiện nay, Hội
toàn quốc người Việt Nam tại Campuchia đang vận động để tiến tới thành lập
Tổng hội ở Trung ương. Tuy nhiên, đời sống của bà con cịn gặp nhiều khó
khăn do khơng có quy chế cư trú rõ ràng, nền kinh tế Campuchia khơng ổn
định, các phe phái chính trị đối lập ở Campuchia (Sam Rein-si,
FUNCINPEC…) luôn luôn sử dụng vấn đề người Việt để phục vụ cho việc
tranh giành quyền lực. Ngồi ra, cịn có những người Việt Nam sang
Campuchia làm ăn bất hợp pháp làm cho tình hình cộng đồng có thêm những
phức tạp nhất định.
Đối với cộng đồng người Việt Nam tại Lào, nhờ quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào phát triển tốt đẹp đã tạo thuận lợi đáng kể cho kiều bào làm ăn,
sinh sống, cũng như các hoạt động hướng về Tổ quốc. Hội người Việt Nam
tại các địa phương (Hội người Việt ở Viêng-chăn, ở Savannakhet, ở Pắc-xế,
At-tô-pư…) rất chăm lo tới việc dạy và học tiếng Việt, duy trì bản sắc và
truyền thống văn hoá cho thế hệ trẻ. Các hoạt động này ln nhận được sự
giúp đỡ tích cực của các địa phương, các bộ, ngành ở trong nước. Hiện nay,
các hội người Việt ở Lào đang trong quá trình vận động tiến tới thành lập Hội
toàn quốc người Việt ở Lào thông qua hoạt động gặp gỡ, giao lưu hàng năm
nhằm tăng cường đoàn kết, thống nhất hành động giữa các hội và trao đổi
kinh nghiệm cơng tác hội đồn. Tuy đời sống cịn gặp nhiều khó khăn, kiều
bào ta tại Lào cũng ln ln gắn bó và hướng về Tổ quốc.
1.2.2.3. Cộng đồng người Việt Nam ở các nước phương Tây
Nhìn chung, cuộc sống của kiều bào tại các nước phương Tây như Mỹ,

Canada, Úc, các nước Tây và Bắc Âu, Nhật Bản... tương đối ổn định. Đa số
kiều bào đã có quy chế định cư rõ ràng, nhiều người đã gia nhập quốc tịch,
thành đạt về học vấn, công việc làm ăn, kinh doanh và hội nhập tốt vào xã hội

20


nước sở tại. Xu hướng chính của cộng đồng, nhất là thế hệ trẻ, là gia nhập
quốc tịch nước sở tại và định cư, làm ăn lâu dài ở nước ngoài.
Nét nổi bật của cộng đồng người Việt tại khu vực các nước phương Tây
là vừa có tiềm năng về tri thức vừa có tiềm năng về kinh tế. Thời gian qua,
các đóng góp của người Việt Nam ở nước ngồi trong các lĩnh vực khoa học,
cơng nghệ, giáo dục, đào tạo, đầu tư, kinh doanh… về trong nước đa phần là
của người Việt tại khu vực này. Sau hơn ba thập niên định cư tại các nước
phương Tây, kiều bào đã vượt qua thời kỳ đầu khó khăn nhất và đang từng
bước khẳng định vị trí trong đời sống chính trị và xã hội nước sở tại. Một số
người Việt ở Mỹ, Úc, Canađa… đã và đang giữ một số chức vụ trong các cơ
quan lập pháp và hành pháp địa phương như: Trợ lý Bộ trưởng, Nghị sĩ Tiểu
bang, Ủy viên Hội đồng thành phố, giám đốc các sở chuyên môn ở cấp thành
phố, quận, hạt…
Xu hướng chung của kiều bào tại các nước phương Tây là ngày càng
hướng về Tổ quốc. Số người giữ thái độ trung dung ngày càng tăng lên. Thế
hệ trẻ lớn lên ở phương Tây có xu hướng tập trung vào học tập, làm ăn, kinh
doanh và không quan tâm nhiều đến các vấn đề mà thế lực thù địch, cực đoan
sử dụng để chống phá đất nước. Đa số kiều bào vẫn giữ thái độ phải chăng,
chú tâm làm ăn kiếm sống, ít quan tâm tới chính trị và tránh dính líu đến các
phần tử cực đoan phản động, vẫn giữ quan hệ với người thân ở trong nước,
đồng thời tranh thủ điều kiện và cơ hội về nước du lịch, tìm cơ hội làm ăn,
giúp đỡ người thân.
Một chuyển biến đáng chú ý trong những năm qua là ngay cả một số

nhân vật trước đây từng phục vụ chế độ cũ, chống ta cũng có chuyển biến
theo hướng tích cực, điển hình là Nguyễn Cao Kỳ, cựu Phó Tổng thống chính
quyền ngụy Sài Gòn, cũng như một số nhân vật khác như Đỗ Mậu, Lê Phước
Sang, đã được Nhà nước ta cho phép về thăm quê hương. Nguyễn Sang,
nguyên là Thượng nghị sỹ bang Victoria, Úc, từng có quan hệ với Nguyễn

21


Hữu Chánh, cũng đã có thái độ tích cực hơn, đã về nước xin gặp một số bộ,
ngành tìm hiểu khả năng đưa các cơng ty nước ngồi vào hợp tác đầu tư tại
Việt Nam.
Một số người có những vị trí cao ở các nước hoặc tổ chức quốc tế, sau
nhiều năm bận bịu với công việc, cũng đã hướng về q hương, tìm cơ hội và
điều kiện để có thể đóng góp cho đất nước trong những lĩnh vực khác nhau.
Ông Nguyễn Văn Tửu (Mỹ), nguyên là chuyên gia của Quỹ tiền tệ quốc tế
(IMF) nhiều lần về nước làm việc, trao đổi với các cơ quan trong nước về
kinh tế vĩ mơ và mơ hình kinh tế Trung Quốc (tại trường Đại học Kinh tế, Đại
học Quốc gia Hà Nội, Viện Kinh tế Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới…). Tiến
sĩ Nguyễn Chánh Khê, Việt kiều ở Mỹ, đã về nước làm Trưởng phịng nghiên
cứu tại Khu cơng nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh, chế tạo được than nano
từ các vật liệu nội địa và đang nghiên cứu ứng dụng công nghệ nano ở trong
nước.
Trong giới nghiên cứu và hoạt động văn hóa, nghệ thuật cũng có nhiều
người sau nhiều năm bơn ba ở nước ngồi đã trở về nước nghỉ hưu và tiếp tục
hoạt động văn hóa, nghệ thuật hoặc trở về lưu diễn có thời hạn, hợp tác với
các cơ quan trong nước để tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật tại Việt
Nam hoặc đưa các đồn văn hóa, nghệ thuật ra nước ngồi biểu diễn, truyền
bá văn hóa Việt Nam ra thế giới, đồng thời phục vụ bà con cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài. Nổi bật trong số những nhà nghiên cứu và hoạt động

văn hóa, nghệ thuật đó là Giáo sư Trần Văn Khê, nhạc sĩ Phạm Duy và gia
đình, họa sĩ Văn Dương Thành, và nhiều văn nghệ sĩ khác.
Kiều bào ngày càng quan tâm hơn đến tình hình phát triển ở trong
nước, quan hệ quốc tế và vị thế của Việt Nam trên thế giới. Đa số kiều bào ở
các nước, kể cả ở Mỹ, đều hoan nghênh và ủng hộ tiến trình hội nhập quốc tế
của Việt Nam, đặc biệt là việc nước ta gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO) và trở thành thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp

22


quốc nhiệm kỳ năm 2008-2009. Nhiều người, nhất là giới trẻ hăng hái thúc
đẩy hoạt động đầu tư, kinh doanh hoặc làm cầu nối giới thiệu các đối tác nước
ngoài vào Việt Nam làm ăn. Các hội người Việt Nam và các tổ chức nghề
nghiệp, đồng hương, từ thiện tiến bộ ở Pháp, Anh, Bỉ, CHLB Đức, Canađa,
Đan Mạch, Italia, Hà Lan, Nhật Bản, Úc… tiếp tục được củng cố và ngày
càng có những liên hệ chặt chẽ và thường xuyên hơn với quê hương, đồng
thời có những đóng góp thiết thực cho các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xóa
đói giảm nghèo và xây dựng đất nước.
1.3. Tầm quan trọng của công tác thông tin đối ngoại cho ngƣời
Việt Nam ở nƣớc ngồi
Thơng tin đối ngoại cho người Việt Nam ở nước ngoài là một trong
những nhiệm vụ quan trọng của công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta
nhằm làm cho người Việt Nam đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài hiểu
về đất nước, con người Việt Nam, đường lối, chủ trương, chính sách và thành
tựu đổi mới của Việt Nam, trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ của nhân dân thế
giới, đóng góp của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong những năm qua, nhất là sau khi ban hành Nghị quyết số 36/NQTW ngày 26/3/2004 của Bộ Chính trị về cơng tác đối với người Việt Nam ở
nước ngồi, cơng tác thơng tin đối ngoại đã có nhiều cố gắng chuyển tải một

lượng thông tin lớn đến cộng đồng những người Việt Nam đang sinh sống,
học tập và làm việc ở nước ngồi qua báo in, báo mạng, đài phát thanh, truyền
hình và các hình thức thơng tin khác. Cơng tác thơng tin đối ngoại cho người
Việt Nam ở nước ngoài đã đóng vai trị quan trọng góp phần vào việc Tăng
cường sức mạnh khối đại đồn kết dân tộc; Góp phần ổn định chính trị, bảo
vệ an ninh đất nước; Tăng cường quan hệ hữu nghị với các nước, củng cố vị
thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; Tham gia các hoạt động kinh

23


×