Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ - NIÊN LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.53 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
----------

NIÊN LUẬN TRIẾT HỌC
 Chuyên ngành: Triết Học

TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG TỬ
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thúy Duy

CẦN THƠ - 2019
1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
NỘI DUNG................................................................................................................... 2
CHƯƠNG 1: HOÀN CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ”
CỦA KHỔNG TỬ........................................................................................................2
1.1. Hoàn cảnh ra đời tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử............................................2
1.1.1. Thân thế của Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo.......................................2
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.............................................................................2
1.2. Tiền đề ra đời tư tưởng đức trị............................................................................6
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ - GIÁ TRỊ
VÀ HẠN CHẾ..............................................................................................................8
2.1. Nội dung chủ yếu trong tư tưởng “đức trị” của khổng tử....................................8
2.1.1. Đức trị là dùng đạo đức để cai trị.................................................................8


2.1.2. Nhân, lễ - cốt lõi trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử................................9
2.1.3. Khổng Tử chủ trương muốn khơi phục lễ phải thực hiện chính danh.........12
2.2. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử...................................14
2.2.1. Giá trị trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử...............................................14
2.2.2. Hạn chế trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử............................................18
KẾT LUẬN................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................21

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trung Hoa cổ đại là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại ở phương
Đông. Bên cạnh những phát minh, phát kiến về khoa học thì Trung Hoa cịn là nơi sản
sinh ra nhiều học thuyết triết học lớn. Trong đó, Nho giáo được xem là học thuyết đề
cập đến nhiều lĩnh vực chính trị - xã hội, đạo đức, giáo dục…Những tư tưởng, những
nội dung này đan xen, xâm nhập vào nhau trong một hệ thống tương đối hồn chỉnh.
Trong đó, học thuyết đạo đức nói chung và tư tưởng Đức trị nói riêng được coi là hạt
nhân của Nho giáo.
Tư tưởng đức trị trong học thuyết Nho giáo là một trong những thành tựu lớn
trong kho tàng tư tưởng của Trung quốc cổ đại nói riêng, nhân loại nói chung. Hơn
2000 năm qua, tư tưởng đức trị không những chỉ chi phối đời sống chính trị, đạo đức,
văn hóa của đất nước Trung Hoa mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều quốc gia trong
khu vực. Nhiều quan điểm của tư tưởng Đức trị đã dần trở thành tập quán, phong tục
truyền thống và có ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội, từ kinh tế,
chính trị đến tư tưởng, văn hóa. Do vậy, nó góp phần tạo nên truyền thống văn hóa Á
Đơng, trong đó có Việt Nam. Ngày nay, trước những biến đổi lớn lao của xã hội, Đức
trị Nho giáo khơng cịn độc tôn là một công cụ cai trị, quản lý xã hội, song nó vẫn
chứa đựng một số hạt nhân hợp lý và giá trị bền vững cần được vận dụng một cách

sáng tạo vào thực tế.
Trong tiến trình hội nhập với thế giới và khu vực hiện nay, nước ta chủ động
chuyển sang nền kinh tế thị trường, mở cửa giao lưu với bên ngồi. Tuy nhiên, trong
q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước bên cạnh những thành quả đã đạt
được, vẫn còn rất nhiều thử thách đặc ra. Trong đó, tình trạng suy thối phẩm chất đạo
đức cách mạng ngày càng phổ biến. Trước tình hình này, việc nghiên cứu nội dung tư
tưởng đức trị của khổng tử sẽ cung cấp và luận chứng cho việc tiếp thu, kế thừa những
yếu tố tích cực của nó để góp phần xây dựng nên đạo đức hồn thiện hơn góp phần
xây dưng sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa. Đồng thời phê phán và khắc phục
những biểu hiện tiêu cực của nó trong xã hội hiện nay. Đó cũng chính là lý do mà tác
3


giả chọn đề tài: “Tư tưởng đức trị của khổng tử - giá trị và hạn chế” làm đề tài niên
luận của mình.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
HỒN CẢNH VÀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI TƯ TƯỞNG “ĐỨC TRỊ” CỦA KHỔNG
TỬ
1.1. Hoàn cảnh ra đời tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử.
1.1.1. Thân thế của Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo
Khổng Tử (551 – 479 TCN) họ Khổng tên Khâu, hiệu là Trọng Ni, người ở ấp
Trâu nước Lỗ. Theo sử ký Tư Mã Thiên, ơng dạy học từ khi cịn trẻ. Sinh thời ơng có
ra làm quan một thời gian ở nước Lỗ, sau bị gièm pha nên bỏ đi chu du khắp thiên hạ.
Khổng Tử sinh ra trong thời loạn lạc, “vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên lấn át
“vương đạo” làm cho xã hội rối loạn, lề phép nhà Chu bị đảo lộn. Ông nhận thấy rằng
cần lập lại kỷ cương trong xã hội thì thiên hạ mới có đạo, xã hội mới ổn định. Để thực
hiện ý nguyện đó, ơng đã dựa vào đạo đức, coi đạo đức là phương tiện, là sức mạnh
hiệu nghiệm nhất để quản lý xã hội. Thực chất của “đức trị” là đòi hỏi người trị dân

phải có đức, quản lý xã hội bằng đạo đức, phải nêu gương đạo đức để làm cho dân yên
tâm mà theo lễ.
Xuân Thu và Chiến Quốc là hai thời kỳ lịch sử của xã hội Đông Chu. Xét về niên
đại, thời kỳ Xuân Thu được bắt đầu từ năm 772 đến năm 480 TCN và thời Chiến Quốc
bắt đầu từ năm 479 đến năm 220 TCN.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc đã tồn tại và
phát triển qua các triều đại nhà Hạ, Thương và đến cuối thời kỳ Tây Chu thì bắt đầu
khủng hoảng và ngày càng suy tàn hơn. Từ đây, xã hội Trung Quốc bắt đầu bước vào
thời đế chế mà lịch sử vẫn gọi là thời Xuân Thu – Chiến Quốc. Có thể xem đây là giai
đoạn giao thời giữa hai chế độ nô lệ thị tộc và phong kiến, và cũng là giai đoạn mà
những giá trị về tư tưởng và đạo đức của xã hội cũ bị băng hoại, những giá trị đạo đức
4


mới đang hình thành, phát triển. Chính vì thế, đã tạo ra sự biến đổi toàn diện và sâu
sắc trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hộI.
1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội



Trên lĩnh vực kinh tế

Xã hội Trung Quốc đến thời Xuân Thu – Chiến Quốc, công cụ lao động chuyển
từ thời đại đồ đồng sang công cụ bằng sắt đã xuất hiện, đưa lực lượng sản xuất lên
trình độ cao hơn. Vào thời kỳ này, với việc chế tạo những phát minh, sử dụng đồ sắt đã
đem lại những tiến bộ mới trong việc cải tiến cơng cụ và kỹ thuật sản xuất trong nơng
nghiệp. Có thể nói, điều này đã đánh dấu sự thay đổi vượt bậc của nền kinh tế Trung
Quốc.
Nếu như trước đây, tư liệu sản xuất đều nằm thuộc quyền sở hữu của nhà Chu thì
giai đoạn này đã có sự thay đổi, đó là việc biến ruộng đất của cơng thành ruộng đất của

tư ngày càng nhiều dẫn đến sự tan rã của chế độ “tỉnh điền”. Về sau, pháp luật đã có sự
thay đổi, đó là việc cơng nhận sự tồn tại của chế độ tư hữu ruộng đất. Việc thay thế
công cụ bằng đồng sang sử dụng công cụ bằng sắt lúc này ngày càng trở nên phổ biến
và sự mở rộng quan hệ trao đổi sản phẩm lao động trong nền sản xuất thủ công nghiệp
ngày càng trở nên chuyên nghiệp hơn, rất nhiều ngành nghề đã được mở ra như nghề
rèn, nghề mộc, nghề đúc…Điều này đã tạo nên sự cách biệt giữa những người làm
nông nghiệp ở vùng nông thôn với những người làm nghề buôn bán ở khu vực thành
thị, bắt đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người làm nghề bn bán
ở khu vực thành thị, bắt đầu có sự phân hóa giữa tầng lớp quý tộc với những người
được coi là hèn mọn, tiểu nhân trong xã hội.
Trên cơ sở phát triển của nông nghiệp và thủ công nghiệp, thương nghiệp cũng
phát triển hơn trước, tiền tệ đã xuất hiện. Đây là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế
thương nghiệp. Trong thời kỳ này, ở Trung Quốc xuất hiện nhiều thành thị thương
nghiệp buôn bán, xuất nhập nhộn nhịp ở các nước Hán, Tề, Tần, Sở. Thành thị đã có
một cơ sở kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi thành thị, thị tộc của quý
tộc và dần trở thành những đơn vị, khu vực kinh tế của tầng lớp địa chủ mới lên.



Trên lĩnh vực xã hội

5


Sự biến động trong lĩnh vực kinh tế đã ảnh hưởng, tác động to lớn đến các mặt
của lĩnh vực chính trị - xã hội. Nó làm xuất hiện một cục diện mới trong xã hội Trung
Quốc thời Xuân Thu – Chiến Quốc, đó là tình trạng các nước chư hầu nổi lên lấn át địa
vị và quyền lực của nhà Chu. Sự phát triển của sức sản xuất, kinh tế phát triển đã tác
động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nhiều
tầng lớp mới xuất hiện và ngày càng khẳng định vị trí của mình. Mới, cũ cùng đan xen

tồn tại. Mỗi tầng lớp luôn đại diện cho những lợi ích riêng của mình. Do đó, những
mâu thuẫn giữa các giai tầng được hình thành và ngày càng phát triển, đặc biệt là mâu
thuẫn giữa giai cấp thống trị với giai cấp nông dân và các tầng lớp bị thống trị khác.
Nếu như, vào đầu thời Chu, “Đất đai và thần dân ở khắp dưới gầm trời này
không đâu khơng phải là sở hữu của nhà vua” thì nay, cái quyền sở hữu tối cao ấy đã
bị một tầng lớp người mới lên có sức mạnh kinh tế tấn công và chiếm lấy làm tư hữu.
Tầng lớp quý tộc, thị tộc – cơ sở xã hội của nhà Chu - do bị mất đất, mất dân, địa vị
kinh tế ngày càng sa sút, vì vậy mà đương nhiên, địa vị và vai trị chính trị cùng ngơi
thiên tử của nhà Chu ngày càng suy giảm và trên thực tế chỉ cịn là hình thức. Các
nước chư hầu của nhà Chu không những không chịu phục tùng vương mệnh, không
chịu cống nạp mà cịn phát động chiến tranh thơn tính lẫn nhau, ln tự xưng và tự cho
mình là bá chủ thiên hạ. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên miêu tả thời kỳ này là thời đại
“vương đạo suy vi”, “bá đạo” cường thịnh, lấn át “vương đạo”.
Trong tình trạng đó, các quốc gia liên tục gây nên những cuộc chiến tranh sát
phạt, thơn tính lãnh thổ của nhau. Trong nội bộ các nước – đặc biệt là các nước lớn –
quý tộc chia bè lập cánh, chia cắt đất đai của các nước chư hầu để mở rộng bờ cõi. Vì
thế, đến đầu thời Chu có vào khoảng trên dưới 1000 nước chư hầu thì đến thời Xuân
Thu chỉ còn lại hơn trăm nước.
Thực chất sự xuất hiện những tầng lớp mới, những mâu thuẫn vê lợi ích giai cấp
những cuộc chiến tranh tàn bạo và quyết liệt nêu trên là những biểu hiện về mặt xã hội
mang tính tất yếu khách quan của thời kỳ lịch sử đang địi hỏi giải thể chế độ nơ lệ thị
tộc đại diện cho phương thức sản xuất cũ đã lỗi thời để giải phóng lực lượng sản xuất,
tiến nhập vào xã hội phong kiến phân quyền đại diện cho phương thức sản xuất mới
mới manh nha.

6


Trong bối cảnh đó, luân lý, đạo đức xã hội rơi vào tình trạng băng hoại, khủng
hoảng sâu sắc. Mọi giá trị, chuẩn mực, đạo đức bị đảo lộn, trật tự, kỷ cương xã hội

ngày thêm rối loạn, thiết chế chính trị, lễ nghĩa nhà Chu bị vi phạm và phá hoại
nghiêm trọng. Đây được coi là thời kỳ “Lễ hoại nhạc tan”, cảnh bề tôi giết vua, con hại
cha, anh em, vợ chồng bất hịa, chia lìa thường xun xảy ra, Thiên hạ trở nên “vô
đạo”, trật tự, lễ nghĩa, cương thường của xã hội bị đảo lộn, các mối quan hệ giữa con
người với con người bị biến dạng. Cho đến thời điểm này thì cảnh chia ly khơng chỉ
dừng lại trong gia đình mà đến cả đất nước vì “ngũ ln” khơng cịn được coi trọng
như trước nữa. Khi nhận định về vấn đề này, Khổng Tử cho rằng, sự biến đổi của trật
tự lễ nghĩa nhà Chu đã diễn ra từ rất lâu chứ không phải là mới bắt đầu. Trong sách
Luận ngữ, Khổng Tử nói về thời kỳ này rằng: “Thiên hạ loạn lạc như nước chảy cuồn
cuộn, khắp nơi đều như thế, còn mong cùng người nào làm thay đổi đây”.
Trong khi chế độ tông pháp đã tỏ ra quá lạc hậu với thời đại như vậy, thì những
cơ sở cho sự định hình thể chế của xã hội mới lại chỉ mới manh nha. Giữa cái cũ và cái
mới, không cái nào đủ sức đại diện chân chính cho lịch sử. Bị trói buộc trong trạng
thái “giao thời” đó, các chuẩn mực, giá trị xã hội hầu như khơng được định hình.
Xã hội Trung Quốc vào thời kỳ này trở nên hết sức rối ren, chiến tranh, thiên tai,
lũ lụt… thường xuyên xảy ra, một bên là sự khốn cùng của tầng lớp lao động nghèo
với một bên là sự giàu có của tầng lớp phong hầu kiến địa. Nhân dân thường xuyên
phải sống trong cảnh đói rét, khổ đau. Trong khi đó, thế lực cầm quyền ln tìm cách
để gây thanh thế, cho nên thường xuyên diễn ra các cuộc chiến tranh.
Dường như, trong tiếng kêu than của tầng lớp nhân dân lao động nghèo đó đã
tiếp thêm sức mạnh cho nhiều nhà tư tưởng cùng với những học thuyết của mình ra đời
với mong muốn sẽ đưa họ thoát khỏi kiếp trâu ngựa, xây dựng một đất nước thái bình,
thịnh trị như mong muốn, khát khao của rất nhiều người.
Trước thực trạng xã hội như vậy, đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cấp
bách là phải thiết lập một hệ thống tư tưởng cũng như những nguyên tắc đạo đức, luân
lý mới phù hợp với yêu cầu của thời đại để đưa xã hội tiến lên. Do vậy, trong các nước
thường xuất hiện những trung tâm, hay tụ điểm tập trung những “kẻ sĩ bàn ngang”,
chuyên “bàn việc nước”. Nhìn chung, họ đều đứng trên lập trường giai cấp của mình
để phê phán xã hội cũ, đề ra mơ hình và biện pháp xây dựng xã hội tương lai tốt đẹp.
7



Vì vậy, xuất hiện rất nhiều quan điểm, chính sách, chủ trương xã hội. Lịch sử gọi đây
là thời kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua
tiếng). Từ đây đã sản sinh hàng loạt những nhà tư tưởng, những nhà chính trị suất sắc
và hình thành nhiều tư tưởng triết học, chính trị - xã hội khá hoàn chỉnh như Nho giáo,
Đạo gia, Pháp gia, Mặc gia,…Trong số “bách gia” xuất hiện thời Tiên Tần ở Trung
Quốc thì Nho giáo là một trong những học thuyết có sức sống lâu dài nhất. Hơn 2000
năm, chế độ phong kiến Trung Quốc, đã trải qua bao triều đại khác nhau, bao biến
động, thăng trầm của xã hội nhưng địa vị thống trị của Nho giáo trong thượng tầng
kiến trúc vẫn được giữ vững. Khác với các học thuyết, giáo phái khác, Nho giáo đặc
biệt đề cao đạo đức, coi đạo đức là công cụ, là phương thức cai trị, quản lý xã hội có
hiệu quả nhất cũng như trong việc đưa xã hội từ “loạn” tới “trị”. Các triều đại phong
kiến Trung Quốc xem Khổng Tử là người thầy của muôn đời. Khổng Tử cho rằng: xã
hội loạn lạc là bởi con người “vô đạo”, cần đưa con người trở về “hữu đạo” bằng con
đường giáo hóa. “Đức trị” là một trong những phạm trù đạo đức cơ bản của Nho giáo
để giáo hóa con người góp phần ổn định trật tự xã hội. Nối tiếp tinh thần trên, các nhà
Nho đời sau như Mạnh Tử, Tuân Tử tiếp tục bổ sung và củng cố luận điểm đó của
Khổng Tử.
Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội thì vẫn
chưa đủ cơ sở để giải thích sự hình thành tư tưởng Đức trị của nho giáo Khổng Tử. Vì
cũng xuất phát từ cùng những tiền đề ấy lại đã nảy sinh nhiều quan điểm khác về chính
trị - xã hội khác như chủ trương “vô vi nhi trị” của phái Lão Trang, “kiêm ái” của phái
Mặc Tử, “pháp trị” của Hàn Phi. Bên cạnh những điều kiện kinh tế - xã hội đã đề cập,
nổi lên vai trò rất quan trọng của các tiền đề tư tưởng và sự tiếp thu các tiền đề ấy ở
từng chủ trương trị nước trong tình hình mới của lịch sử.
1.2. Tiền đề ra đời tư tưởng đức trị.
Tiền đề tư tưởng Tư tưởng Đức trị của nho giáo Khổng là sự kế thừa và tiếp thu
những yếu tố, tính chất trong tư tưởng chính trị, đạo đức, tơn giáo của Trung Quốc từ
trước đến bấy giờ, nhất là dưới thời nhà Chu.

Về tôn giáo: Như triết học Mác – Lênin đã chỉ rõ, tôn giáo hay tư tưởng tôn giáo
với tính chất duy tâm thần bí của nó ln được giai cấp thống trị lợi dụng và sử dụng
như là một trong những công cụ, phương tiện cần thiết để biện hộ, duy trì và bảo vệ sự
8


tồn tại vĩnh viễn địa vị thống trị và quyền lợi của giai cấp thống trị, cũng như trong
việc kiến tạo và duy trì cái xã hội ln trong “vịng trật tự” có lợi cho chúng. Chế độ
nhà Chu cũng vậy, nhằm những mục đích chính trị ấy, họ ln đề cao tư tưởng “kính
trời”, “hợp mệnh trời”, “thiên - nhân hợp nhất”. Nhà Chu cho rằng: “mệnh trời không
nhất định, thiện thì được, bất thiện thì mất – duy mệnh bất vô thường, đạo thiện tất đắc
chi, bất thiện tắc thất chi hỷ”. Khổng Tử nói riêng và Nho giáo nói chung tiếp nhận
yếu tố duy tâm thần bí và phản động trong tư tưởng tôn giáo trên đây làm một trong
những nội dung của tư tưởng trị nước, để ràng buộc con người, nhằm tạo ra những con
người luôn suy nghĩ, hành động theo ý trời, mệnh trời.
Về chính trị: Tư tưởng chính trị chủ yếu của giai cấp quý tộc Chu là “Nhân dân”,
“Hưởng dân” và “Trị dân”. Tư tưởng này được xuất phát từ quan niệm của nhà Chu
cho rằng, vì nhà Chu biết và làm theo “mệnh trời”, tuân theo mệnh trời mà được “nhận
dân” từ tay nhà Ân để “hưởng dân” và “trị dân” suốt đời. Giai cấp quý tộc Chu cho
rằng, kẻ chịu mệnh trời để thống trị thiên hạ là Thiên tử. Thiên tử cùng sánh với trời và
vì vậy, nếu kẻ nào chống lại “mệnh trời” thì nhà Chu sẽ vâng mệnh trời và thay trời
trừng trị, chém giết. Vua là Thiên tử được thay trời thống trị thiên hạ, cai trị dân. Rõ
ràng, tư tưởng chính trị dưới thời nhà Chu là hết sức phản động nhưng lại được phủ
lên một lớp son tôn giáo về “ý trời”, “mệnh trời”.
Về đạo đức: Tư tưởng đạo đức của nhà Chu lấy hai chữ Đức và Hiếu làm nòng
cốt. Xuất phát từ quan niệm tôn giáo về trời – người hợp nhất, nhà Chu cho rằng, tổ
tiên của mình là bậc Tiên vương do ln có đức mà được sánh cùng thượng đế, nhận
được “mệnh trời” mà “hưởng nước”, “hưởng dân”. Do vậy, các vua sau phải thành
kính cái đức đó, mà giữ gìn và bồi đắp nó để con cháu được thừa hưởng lâu dài.
Hiếu là nhớ ơn tổ tiên, là phải ln giữ gìn và làm sáng tỏ khn phép của tổ tiên

để lại, có như vậy, mới nhận được mệnh trời mà được hưởng nước, hưởng dân mãi
mãi. Đây là quan niệm đạo đức bảo thủ và phản động nhằm tuyên truyền và củng cố
địa vị thống trị vĩnh viễn của giai cấp quý tộc, thị tộc, bảo vệ nhà nước chuyên chính
thị tộc. Nhưng về sau, quan niệm này lại được nhiều nhà Nho tiếp nhận vào hệ thống
Nho giáo nói chung và tư tưởng đạo đức của Nho giáo nói riêng. Chính điều này, một
phần giúp chúng ta cắt nghĩa vì sao, ở Nho giáo, đạo đức và chính trị gắn chặt với

9


nhau, coi đạo đức cịn là một trong những cơng cụ, phương tiện chính trị chủ yếu nhất
của nhà vua, của người cầm quyền trong việc trị dân, trị nước, bình thiên hạ.
Như vậy, tư tưởng Đức trị của Nho giáo được ra đời trên cơ sở phản ánh và đáp
ứng yêu cầu của thời đại Xuân Thu – Chiến Quốc. Đó là mục tiêu đưa xã hội “vơ đạo”
thành xã hội “hữu đạo”. Nho giáo tiếp nhận vào hệ thống của mình nhiều tư tưởng tơn
giáo để giáo hóa con người, buộc con người phải tuân thủ theo những quy tắc, chuẩn
mực xã hội mà các nhà Nho đưa ra.

CHƯƠNG 2
NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỨC TRỊ CỦA KHỔNG TỬ - GIÁ TRỊ VÀ HẠN
CHẾ
2.1. Nội dung chủ yếu trong tư tưởng “đức trị” của khổng tử.
Sống trong một xã hội nông nghiệp, sản xuất kém phát triển vào cuối đời Xuân
Thu, đầy cảnh đại loạn và vô đạo, bản thân đã từng làm nhiều nghề bỉ lậu rồi làm quan
cai trị, Khổng Tử nhận thức được nhu cầu về hồ bình, ổn định, trật tự và thịnh vượng
của xã hội và mọi thành viên.
Xã hội lý tởng mà Khổng Tử muốn xây dựng là một xã hội phong kiến có tơn ti,
trật tự. Từ Thiên Tử tới các ch hầu lớn nhỏ, từ quý tộc tới bình dân, ai có phận nấy, đều
có quyền lợi và nhiệm vụ sống hoà hảo với nhau, giúp đỡ nhau, nhất là hạng vua chúa,
họ phải có bổn phận chăm cho dân đủ ăn đủ mặc, và bổn phận giáo dân bằng cách nêu

gương và dậy lễ, nhạc, văn, đức, bất đắc dĩ mới dùng hình pháp. Xã hội đó lấy gia đình
làm cơ sở và hình mẫu, trọng hiếu để, yêu trẻ, kính giá. Mọi người đều trọng tình cảm
và cơng bằng, khơng có người q nghèo hoặc q giàu; người giàu thì khiêm tốn, giữ
lễ, người nghèo thì “lạc đạo”.
Dù sao thì ý tởng trên cũng đợc cả hai giai cấp bóc lột và bị bóc lột thời đó dễ
chấp nhận hơn, dễ thực hiện hơn so với hình mẫu xã hội vơ chính phủ ngu si hởng thái
10


bình của Lão Tử và mẫu quốc cờng qn tơn bằng hình phạt hà khắc và lạm dụng bạo
lực của phái pháp gia.
Cái cốt lý luận để xây dựng xã hội trên, cái giúp cho các nhà cai trì lập lại trật tự
từ xã hội vơ đạo chính là đọa nho – đạo nhân của Khổng Tử cho nên, dù có nói về
chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề nhân sự và mục
đích của ơng chính là xaay dựng một xã hội nhân bản.
2.1.1. Đức trị là dùng đạo đức để cai trị
Trong lịch sử tư tưởng chính trị, Khổng Tử không phải là người đầu tiên chủ
trương dùng đạo đức để cai trị. Nhưng ơng là người đầu tiên nói đến tư cách đạo đức
của người cầm quyền và cũng là người coi trọng vấn đề đó nhất. Ơng khơng tách rời
đạo đức và chính trị. Ơng cho rằng phải cai trị dân bằng đạo đức chứ không phải bằng
bạo lực. Với đường lối này ông hy vọng xã hội phong kiến lúc bấy giờ sẽ trở lại yên
bình như thời vua Nghiêu, vua Thuấn và cứ như thế xã hội này sẽ tồn tại vĩnh viễn.
Theo ông: “Nếu nhà cầm quyền chuyên dùng pháp chế, cấm lệnh mà dẫn dắt dân
chúng, chuyên dùng hình phạt mà trị dân, thì dân sợ mà chẳng phạm pháp đó thơi, chứ
họ chẳng biết hổ ngươi. Vậy muốn dẫn dắt dân chúng, nhà cầm quyền phải dùng đức
hạnh, muốn trị dân nhà cầm quyền phải dùng lễ tiết, thì chẳng những dân biết hổ
ngươi, họ cịn cảm hố để trở nên tốt lành” [1, tr. 15].
Khổng Tử rất coi trọng vai trò của đạo đức. Theo ơng, dùng đức mà cai trị thì
mọi người sẽ phục tùng theo như sao Bắc đẩu ở một nơi mà mn vì sao khác phải
chầu theo. Ơng cho rằng, người cai trị muốn cho mọi người giữ đạo thì mình phải làm

gương trước. Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng Tử đã đề xuất đường lối “Đức trị”,
đường lối trị nước bằng đạo đức mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Khổng Tử quan
niệm: “Làm chính trị mà dùng đức để cảm hố dân thì như sao Bắc Đẩu ở một nơi mà
các ngôi sao khác hướng về cả tức thiên hạ về theo”[ 4, tr. 37]. Trước sau Khổng Tử
vẫn tin rằng: “dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn
phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dắt dẫn dân, dùng
lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính”.
2.1.2. Nhân, lễ - cốt lõi trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử

11


Trong đời mình, dù là luận thuyết việc trị nước cứu đời hay dạy học, đào tạo
nhiều lớp môn sinh tài đức, thì trước sau Khổng Tử đều nói nhiều đến đức nhân.
Khổng Tử coi “nhân” là đức căn bản nhất của con người cả về xử thế lẫn tu thân, và
bao gồm gần đủ các đức khác.Người cai trị mà Khổng Tử rất kỳ vọng là người quân
tử. Người quân tử phải có đức. Đó là nhân - nghĩa - lễ - trí - tín cịn gọi là ngũ thường,
trong đó đức Nhân là đức quan trọng nhất, bao hàm gần đầy đủ các đức khác. Nó là
đức căn bản của Nho giáo cả về tư tưởng chính trị, về xử thế và tu thân. Cho đến nay,
Nho giáo đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển nhưng phạm trù Nhân của Khổng Tử
vẫn giữ vị trí trung tâm, chỉ đạo xuyên suốt.
 Nhân trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử
Đạo Nhân là xuất phát điểm tư tưởng của Khổng Tử. Phạm trù này được ông đề
cập nhiều lần trong Luận ngữ. Ơng khơng nói rõ về khái niệm này vì định cho nó một
nội dung cụ thể, rõ ràng là rất khó vì đó là đức tính tối cao, khiến con người trở thành
“Người” nhất. Nhân là một học thuyết nhân văn sâu sắc: nhân vừa là Người, vừa là
thương yêu con người, vừa phải sống cho ra Người. Đó là đạo làm người mà cốt lõi là
vừa yêu thương, vừa phải giúp đỡ lẫn nhau để tạo dựng một cuộc sống hồ bình, hạnh
phúc. Đó là tư tưởng cốt yếu của Khổng Tử về đạo đức nhân sinh với hành vi và mục
tiêu là nhằm xây dựng con người có đức nhân, giáo hố đức nhân cho con người nhằm

khắc phục những mặt xấu trong đời sống xã hội. Con người có đức nhân là mẫu người
lý tưởng của Khổng Tử và được gọi là người quân tử. Đối lập với người quân tử là kẻ
tiểu nhân - người khơng có đức nhân.
Người nhân là người “hiểu” biết để có thái độ đúng đắn trong mọi hồn cảnh:
“Người nhân an vui với lịng nhân của mình, ở cảnh nào cũng an ổn, thảnh thơi”.
Người nhân là người phải có trí. Khổng Tử từng nói: Người nhân có trí sáng suốt, biết
phân biệt người trung chính với kẻ tàn ác, tức là biết yêu người đáng yêu, ghét người
đáng ghét, đề bạt người chính trực, bỏ người cong queo.
Người nhân phải có “trí” vì có trí mới xử lý đúng trong mọi hoàn cảnh, mới biết
giúp người mà khơng hại đến mình. Người nhân phải có lịng dũng cảm, người dũng
mãnh chưa chắc có nhân. Nếu để bảo vệ đức Nhân thì người nhân sẵn sàng hy sinh
thân mình, cũng chẳng vì thân mình mà hại đến đức nhân. Người nhân có khi phải tự
mình qun sinh để bảo vệ đức nhân vậy.
12


Người nhân phải có “nghĩa”. Nhân thường đi kèm với nghĩa. Đức nghĩa thường
được thể hiện khi tự vấn lương tâm mình. Khổng Tử ít nói đến nghĩa nhưng ơng ln
làm theo điều nghĩa. Theo nghĩa là thấy việc gì đáng làm thì làm, đáng nói thì nói chứ
khơng hề mưu tính lợi cho mình. Nếu làm được điều đó mà thấy thảnh thơi thoải mái
thì việc làm đó là điều nghĩa. Không làm điều ấy mà thấy bứt rứt trong lương tâm, như
thế là có điều nghĩa khơng làm. Ngược lại nếu thấy điều gì đó phải làm mà khơng làm
vẫn thấy n lịng thì việc đó vốn là phi nghĩa. Nếu đức nhân là đối với người thì đức
nghĩa là đối với mình.
Người nhân phải có hiếu lễ. Ông nói: “Hiếu lễ là cái gốc của đạo nhân chăng.
Hiếu là đức của người làm con hết lịng kính yêu cha mẹ khi cha mẹ còn sống, kế thừa
ý chí của cha mẹ khi cha mẹ đã qua đời, ln ln ra sức vươn lên cho cha mẹ hài
lịng. Lễ là đức của người làm em hết lịng kính nhường đàn anh, của người bề dưới
chân thành vâng lời bề trên”.


 Lễ trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử
Sau Nhân, Khổng tử quan tâm nhiều đến “Lễ”, bởi “Lễ” cần thiết để duy trì trật
tự xã hội, và có trật tự xã hội thì vua mới được tơn, nước mới được trị. Mặt khác, lễ có
nội dung luân lý của nó, trong mối quan hệ chặt chẽ khơng tách rời với nhân. Khổng
Tử xem điều lễ là hình thức của nhân, là chính đạo mà mọi người nên thi hành, còn
nếu con người chạy theo dục vọng của mình mà trái ngược với chính đạo tức là trái
ngược với điều nhân.
Người nhân phải có lễ. Nhân và lễ khơng tách rời nhau, phụ thuộc vào nhau, có
cái nọ phải có cái kia. Người có nhân khơng thể khơng theo về với lễ và người đã theo
đúng lễ là người có nhân. Người quân tử phải có nhân, phải tu được chữ nhân để khôi
phục lễ. “Khắc kỷ, phục lễ”.Trong mối quan hệ giữa nhân và lễ thì nhân là nội dung, là
gốc, cịn lễ là hình thức, là ngọn.
Lễ trong quan niệm chính trị của Khổng Tử thực chất là một loại khế ước của xã
hội quy định bổn phận của mọi tầng lớp, đẳng cấp trong xã hội do Chu Công đặt ra và
Khổng Tử gia giảm. Theo ơng xã hội phải có trật tự trên dưới và con người không
13


được vượt qua trật tự đó. Trong tư tưởng của ông, lễ có nhiều nội dung. Lễ là cách
thức, thủ tục cúng lễ để thực hiện mối quan hệ giữa con người và trời đất, tổ tiên. Lễ là
cách thức giao tiếp giữa con người với con người như ăn mặc, cử chỉ, nói năng, cư xử.
Lễ là quy định bổn phận và trách nhiệm của mỗi người phù hợp với địa vị, đẳng cấp xã
hội của mình.
Trong tư tưởng chính trị của Khổng Tử, nghĩa thứ ba của lễ rất được chú trọng.
Nó quy định chuẩn mực cho các mối quan hệ cơ bản: vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,
anh - em, bạn bè. Vua đối với bầy tôi phải huệ nghĩa là ban ơn, bao dung, là tôi thờ vua
phải trung thành, cha đối với con phải nhân từ, con thờ cha phải hiếu thảo, anh em đối
với nhau phải có lễ biết nhường nhịn, bạn bè phải có tín và tin tưởng nhau, vợ phải giữ
tiết hạnh với chồng, phải nghe theo chồng, phải tam tòng tứ đức. Cơ sở của những mối
quan hệ đó theo Khổng Tử là dựa trên sự yêu thương người thân, người cùng huyết

thống phải được coi trọng hơn vì theo ơng đó là lẽ tự nhiên mà trời phú cho. Nhưng
ông cũng chủ trương phải coi trọng người hiền.
Đối với Khổng Tử, lễ nhiều khi được xem như là luật lệ. Ơng nói: chớ xem điều
trái lễ, chớ nghe điều trái lễ, chớ nói điều trái lễ, chớ làm điều trái lễ. Lễ được coi là
giới hạn ứng xử của con người, nếu muốn cộng đồng thừa nhận thì khơng được vượt
qua mà phải tn theo. Vậy theo ông, cơ chế thực hiện lễ là tự nguyện. Do đó theo
ơng, lễ khơng phải là cái dùng cho tất cả mọi người mà chỉ đem áp dụng với những
người ít nhiều có nhân. Ơng cho rằng người khơng có nhân thì giữ lễ sao được. Ngồi
ra người nhân cịn có nhiều đức khác như cung kính, trung thực ngay thẳng, khơng giả
dối, phải thận trọng trong lời nói và việc làm.
Khổng Tử đề xướng “Lễ trị” nhằm ổn định xã hội. Thực hành đúng Lễ vừa là
biểu hiện của Nhân, đồng thời cũng thể hiện con người phải làm đúng bổn phẩn, thân
phận của mình, tức là phải Chính danh
2.1.3. Khổng Tử chủ trương muốn khôi phục lễ phải thực hiện chính danh
Thời đại của Khổng Tử sống là thời đại “vương đạo” suy vi, “bá đạo” nổi lên lấn
át “vương đạo”, chế độ tông pháp nhà Chu bị đảo lộn, đạo lý nhân luân suy đồi. Đứng
trước tình hình đó các Nho gia có hồi bão về một chế độ phong kiến có kỷ cương,
thái bịnh và thịnh trị. Khi xét tư tưởng của Khổng Tử ta thấy có một quy tắc chính,
một phát kiến của ơng đó là học thuyết “chính danh”. “Chính danh” là tư tưởng cơ bản
14


của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn trở lại trị. Khổng Tử phản đối nhà cầm
quyền dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ trương nhân trị.
“Chính danh” là danh và thực phải phù hợp với nhau, nếu không phù hợp sẽ loạn
danh và loạn danh thì xã hội sẽ loạn. Danh là khái niệm chỉ cương vị, quyền hạn của
từng người trong bậc thang tôn ti trật tự của xã hội. Còn thực chỉ nghĩa vụ và quyền lợi
của từng người ứng với danh của họ. Thực còn được gọi là phận hay bổn phận của
từng người theo với danh. Danh và thực trước hết được quy định bởi mối quan hệ cụ
thể giữa người với người trong xã hội Khổng Tử đã chia xã hội thành các mối quan hệ

cơ bản gọi là ngũ ln, đó là: Vua - Tơi, cha - con, chồng - vợ, anh - em, bạn - bè. Nếu
mỗi người thực hiện đúng danh phận đó sao cho “vua phải giữ đạo vua, bề tôi phải giữ
đạo bề tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con, chồng phải giữ đạo chồng, vợ
phải giữ đạo vợ” thì có chính danh.
Khổng Tử giải thích: “Người quân tử đối với những điều mình khơng biết thì hãy
để trống đấy. Danh khơng chính thì lời nói khơng thuận, lời nói khơng thuận thì việc
khơng thành, việc khơng thành thì lễ nhạc khơng gây lại được, khơng gây lại được lễ
nhạc thì hình phạt sẽ sai cả, hình phạt khơng đúng thì dân sẽ bị bó tay. Cho nên người
quân tử có danh rồi tất phải nói, nói rồi tất phải làm”.
Trong quan hệ vua - tôi, Khổng Tử chủ trương dùng đức trị, tức là người thống
trị tự lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ khơng chống lại. Và để
làm được điều đó thì nhà cầm quyền phải làm ba việc:
Thứ nhất là phân cơng cho người dưới quyền mình, họ làm xong phải xem xét
lại.
Thứ hai là phải dung thứ cho những người phạm phải lỗi nhỏ.
Thứ ba là phải đề cử và dùng người hiền tài.
Tựu trung lại theo Khổng Tử, nhân là nền móng, là gốc từ đó nảy sinh ra các
phẩm chất đạo đức khác. Vì vậy, người nhân khơng thể không giữ lễ. ở trong mối quan
hệ vua - tơi thì vua lấy “lễ” để sai khiến bề tơi. Cịn tơi đối với vua thì phải trung có
nghĩa là phải trung thành, hết lòng, thành tâm.
Trong mối quan hệ cha - con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu ở đây chủ yếu được xét
trên góc độ tâm, hiếu khơng chỉ phụng dượng người sinh ra mình mà phải có lòng
15


thành kính, cịn nếu khơng chẳng khác gì ni chó ngựa. Hiếu không nhất nhất là theo
cha mẹ, mà phận làm con thấy cha mẹ sai lầm phải can gián một cách nhẹ nhàng. Ơng
nói: “chỉ xét cái đáng theo mà theo mới gọi là trung, hiếu. Như vậy, ông khơng chủ
trương ngu trung, ngu hiếu, qn có nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu.
Đó là quan hệ hai chiều mà ít người để ý.

Trong quan hệ vợ - chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ
phải nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự xã hội sẽ có trật tự kỷ cương,
thái bình thịnh trị.
Như vậy “chính danh” trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử đưa ra ta cần tập
trung vào các nội dung:
Tương xứng với địa vị cai trị, phải có phẩm chất tương ứng như nhân, nghĩa,
liêm, chính... đồng thời chỉ được sử dụng “lễ” tương ứng với địa vị đang được thừa
nhận, bề tôi, chư hầu, đại phu chỉ dùng “lễ” của bề tôi, chư hầu, đại phu, không được
dùng “lễ” của thiên tử. Trên dưới trật tự phân minh “vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề
tôi lấy trung để thờ vua”.
Chủ trương chính danh của Khổng Tử đã đưa tới quy kết là ai ở địa vị nào cũng
phải làm tròn trách nhiệm, và ai giữ phận nấy, không được việt vị, nghĩa là không được
hưởng những quyền lợi cao hơn địa vị của mình. Như vậy, muốn cho xã hội khỏi loạn
Khổng Tử đã đề ra học thuyết “chính danh”, mà muốn chính danh thì phải tơn trọng
“lễ”, và một người muốn chính danh thì phải có nhân.
Tóm lại, tư tưởng chính trị của Khổng Tử là dùng đức trị. Ơng u cầu người cai
trị phải có đức và phải dùng đức để cai trị. Để có đức thì họ phải hành đạo, tức là phải
tu thân, phải làm theo lễ. Muốn khôi phục lễ phải thực hiện chính danh. Thực hiện
được chính danh thì xã hội sẽ ổn định, phát triển. Hồi bão của ơng thật lớn lao và
chứa đựng lòng nhân đạo cao cả. Nhưng chính vì thế mà nó khơng thực hiện được
trong xã hội loạn lạc thời Đông Chu. Nhưng chúng ta phải thừa nhận học thuyết của
ông đã để lại cho người đời sau những giá trị vô cùng quý báu. Cho đến thời hiện đại
hôm nay, nhân loại đã bước sang thế kỷ XXI, ngẫm lại nhiều điều ông dạy vẫn cịn rất
bổ ích.
2.2. Giá trị và hạn chế trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử.
16


2.2.1. Giá trị trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử.
Nho giáo được du nhập vào nước ta và đã tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến

và trở thành công cụ tư tưởng cho các triều đại phong kiến Việt Nam. Đặc biệt, tư
tưởng đạo đức Nho giáo đã trở thành cơ sở cho đạo đức thời phong kiến Việt Nam và
ngày nay ảnh hưởng của nó vẫn cịn.
Đức Nhân, Nghĩa của Nho giáo đã làm cho con người có sự đối xử nhân ái,
khoan dung, độ lượng với nhau. Đức lễ, với hệ thống các qui định chặt chẽ đã giúp con
người có thái độ và hành vi ứng xử với nhau theo thứ bậc, theo khuôn phép. Xét theo
phương diện pháp luật thì lễ của Nho giáo có tác dụng tích cực trong việc duy trì trật
tự, kỷ cương của xã hội, ngày nay chúng ta có thể kế thừa. Nho giáo quan niệm trong
nước cần phải có pháp lễ thì nước mới nghiêm; trong gia đình phải có gia pháp thì mới
có trên có dưới. Điều này đã tạo cho con người nếp sống trên kính dưới nhường. Tư
tưởng chính danh giúp cho con người xác định được nghĩa vụ và trách nhiệm của mình
để từ đó suy nghĩ và xử thế đúng trong các quan hệ xã hội.
Học thuyết đức trị của Khổng Tử ra đời cách đây đã hơn hai ngàn năm, nhưng
cho đến nay, đầu thế kỷ XXI, nhiều điều ông dạy vẫn cịn rất bổ ích và có ảnh hưởng
sâu sắc đến Viêt Nam.

 Người cán bộ phải lấy đạo đức làm gốc.
Nét đặc sắc của trong tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử là chú trọng đến vấn đề tu
dưỡng đạo đức cá nhân, đặc biệt là chú ý đến đạo đức người cầm quyền những người
có chức, quyền. G.S. Vũ Khiêu đã nhận xét: “Ở đây Nho giáo đã nhận thức được một
thực tế là những người trong bộ máy nhà nước mà mất đạo đức thì khơng thể cai trị
được nhân dân. Cho nên đạo đức là một phương tiện để tranh thủ được lòng dân”.
Theo Nho giáo, đạo đức người cầm quyền có ảnh hưởng lớn đến sự hưng vong của
một triều đại. Vì vậy, Khổng Tử khuyên người cầm quyền phải “tu thân” để làm tấm
gương cho người dưới. Với việc đề cao tu thân, coi đây là cái gốc trong rèn luyện nhân
cách, Nho giáo đã tạo nên một lớp người sống có đạo đức.
Khổng Tử yêu cầu đạo đức là gốc của người quân tử. Qn tử phải có đủ nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín. Có như thế mới cảm hóa được dân chúng, dẫn dắt được họ theo mình.
Những u cầu đó của Khổng Tử cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, dù thời thế đã
17



thay đổi nhiều. Trong lịch sử dân tộc Việt nam đã có nhiều tấm gương sáng ngời về
đạo đức của các vị vua, của các anh hùng hào kiệt như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,
Lê Thánh Tông, Phan Bội Châu.... Người kế thừa và phát triển tư tưởng của ông tài
tình nhất, nhuần nhuyễn nhất là Hồ Chí Minh. Người đã dạy rằng: “Tuy trong học
thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay ở trong đó thì
chúng ta nên học. Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những
hiểu biết quý báu của đời trước để lại” [5, tr. 362].
Người đã kế thừa, phát triển một cách sáng tạo tư tưởng của Khổng Tử. Người
đặt ra yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với người cán bộ cách mạng là cần phải có đạo đức.
Người nói: “Cũng như sơng thì có nguồn mới có nước, khơng có nguồn thì sơng cạn.
Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, khơng
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [6, tr.252-253].
Người khẳng định: “Người cách mạng phải lấy đạo đức cách mạng làm nền tảng mới
hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [7, tr.283]. Người đã chỉ ra vai trò của
đạo đức cách mạng đối với người cách mạng. Bởi vì, có đạo đức cách mạng thì gặp
khó khăn gian khổ, thất bại cũng khơng sợ sệt, rụt rè, lùi bước. Đồng thời, có đạo đức
cách mạng thì khi gặp thuận lợi và thành cơng cũng vẩn giữ vững tinh thần gian khổ,
chất phác, khiêm tốn, phải biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo hồn thành
nhiệm vụ tốt chứ khơng kèn cựa về mặt hưởng thụ; khơng cơng thần, khơng kiêu ngạo,
khơng hủ hóa. Cho đến nay, khi nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển như
cơn lốc cuốn tất cả xoay vần theo nó thì nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, trung, hiếu,
cung, khoan, tín, mẫn, huệ... của Khổng Tử vẫn cịn có giá trị tuy nhiên nội dung của
nó cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp với thời đại.

 Luôn học tập tu dưỡng rèn luyện đạo đức.
Khổng Tử cũng đã từng nói: “Tính tương cận, tập tương viễn”. Vì tập tương viễn
nên nếu khơng rèn luyện, khơng tự mình tu dưỡng thì tính tốt dần mất hết, Khổng Tử
cũng đã từng nói: “Tính tương cận, tập tương viễn”. Vì tập tương viễn nên nếu khơng

rèn luyện, khơng tự mình tu dưỡng thì tính tốt dần mất hết, tính xấu xâm nhập vào và
con người sẽ trượt dài xuống dốc. Bản thân Khổng Tử cũng thực hiện “học không biết
chán”. Nếu không rèn luyện tu dưỡng đạo đức thì khơng thể “tề gia” chứ đừng nói “trị
quốc bình thiên hạ”. Qua tác phẩm Luận ngữ của ông ta thấy được thực chất của tu
18


thân là cá nhân phải sửa mình để trở thành người chính trực, ngay thẳng. Sau này trong
cuốn Đại học trung dung đã nói rõ: “từ thiên tử đến người dân thường, ai ai cũng lấy tu
thân làm gốc”.
Tư tưởng này đã được Hồ Chủ Tịch tiếp thu và vận dụng sáng tạo. Người nói:
“Đạo đức cách mạng khơng phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh bền bỉ hàng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong” [7, tr.193]. Người yêu cầu: Chúng ta phải lấy “chính tâm tu thân” để “trị
quốc bình thiên hạ”. “ Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta phải làm
cho phần tốt của mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”
[8, tr.558]. Về vấn đề này quan niệm của Đảng ta cũng nêu rõ: “cán bộ ở cấp càng cao
thì càng phải gương mẫu, càng phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, thực hiện tốt “tu
nhân tề gia” “cần, kiệm, liêm, chính”[10]. Trong suốt q trình cách mạng và cho đến
ngày cuối đời Người vẫn luôn nhắc nhủ mọi người khắc phục chủ nghĩa cá nhân, trau
dồi đạo đức cách mạng và chính Người đã nêu tấm gương sáng mãi cho Đảng và cho
dân tộc về rèn luyện đạo đức cách mạng
Tóm lại, tu thân là tự mình nhận thức lấy mình, kiểm điểm, đánh giá phẩm chất
năng lực của mình, là sửa mình, rèn luyện mình theo những chuẩn mực đạo đức của
người cách mạng. Đó cũng là quá trình tự nhận thức, khám phá, tự điều chỉnh hành vi
của mình. Triết lý tu thân của Khổng Tử, nếu gạt đi những gì đã trở nên lạc hậu và kìm
hãm, gạt bỏ mục tiêu xã hội và những hạn chế lịch sử của nó, chúng ta có thể tiếp thu
nhiều nhân tố hợp lý, giữ lại được nhiều điều bổ ích trong việc giáo dục đạo đức cho
cá nhân nói chung và cho cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Nếu cán bộ mà khơng tu
dưỡng, rèn luyện đạo đức thì khơng thể lãnh đạo được nhân dân. Bởi vì “quần chúng

chỉ q mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
mực thước cho người ta bắt chước” [6, tr.252].

 Coi trọng giáo dục để nâng cao dân trí, đào tạo ra một đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý có tài, có đức.
Khổng Tử chủ trương cai trị bằng đạo đức, mà muốn vậy thì phải coi trọng giáo
hóa đạo đức, lễ nghĩa cho dân. Ông mong muốn xây dựng một xã hội an bình, thịnh
trị, có tơn ti, trật tự.... Muốn xây dựng được xã hội đó theo ơng phải coi trọng giáo dục
và đào tạo ra một lớp người cai trị có đủ tài, đức, trí và lực một lòng phục vụ chế độ, là
19


rường cột của chế độ xã hội. Ông là người đề xướng tư tưởng “học không biết chán,
dạy không biết mỏi”. Lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc ông mở trường dạy học và
chủ trương “hữu giáo vô loại”, “học đạo lý không cầu lợi”.
Tư tưởng coi trọng giáo dục đào tạo của ơng đến nay vẫn cịn có giá trị rất lớn.
Tư tưởng đó đã được Đảng ta tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng để xây dựng đất
nước. Trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc làn thứ VIII, Đảng ta đã chỉ rõ: “giáo
dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu”[11, tr. 29] với mục tiêu
nâng cao mặt bằng dân trí, đào tào bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực,
phát triển, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài. Hội nghị lần thứ 2 ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa VIII đã chú trọng bàn về cơng tác giáo dục, đào tạo, phát triển khoa
học công nghệ. Hội nghị đã chỉ ra những hạn chế, đồng thời vạch ra những biện pháp
để phát triển giáo dục đào tạo.
Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo nước ta không chỉ “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
công chức, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý” [11, tr.135] mà còn phải đào
tạo, xây dựng con người mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Trong những tiêu
chuẩn con người mới mà Hội nghị lần thứ 5 (khóa VIII) đề ra có mục tiêu là “thường
xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chun mơn, trình độ thẩm mỹ và thể lực”.
Tiếp tục tư tưởng của đại hội VIII, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đưa ra chủ

trương: “Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con
người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [12,
tr. 108]. Nghị quyết Đại hội X tiếp tục khẳng định: Giáo dục và đào tạo, khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Nghị quyết Đại hội XI vẫn kế thừa quan điểm đó: Phát triển giáo dục là
quốc sách hàng đầu.
2.2.2. Hạn chế trong tư tưởng đức trị của Khổng Tử.
Bên cạnh ảnh hưởng tích cực, tư tưởng “đức trị” của Khổng Tử cũng có một số
tác động tiêu cực, cụ thể là: Một số người do quá “trọng đức”, “duy tình” trong khi xử
lý các công việc và các mối quan hệ xã hội, dẫn đến buông lỏng kỷ cương phép nước
và vi phạm pháp luật. Coi trọng đạo đức là cần thiết nhưng vì tuyệt đối hóa vai trị của
đạo đức mà quên pháp luật là sai lầm. Tiếp thu truyền thống trọng đức của phương
20


Đông, nhấn mạnh quan hệ đạo đức “thân thân”, “thân hiền” của Nho giáo, nhiều người
khi có chức quyền đã kéo bè kéo cánh, đưa người thân, anh em họ hàng vào cơ quan
mình đang quản lý. Sắp xếp và bố trí cán bộ khơng theo năng lực, trình độ và địi hỏi
của cơng việc mà dựa vào sự thân thuộc, gần gũi trong quan hệ tơng tộc, dịng họ.
Trong cơng tác tổ chức cán bộ, vì đề cao quan hệ thân thích dẫn đến tư tưởng cục
bộ địa phương. Nhiều người vì quan hệ thân thuộc mà khơng dám đấu tranh với những
sai lầm của người khác. Do quan niệm sai lệch về đức Nhân Nghĩa với nội dung đền
ơn trả nghĩa mà trong thực tế một số cán bộ có thái độ ban ơn, cố tình lợi dụng kẽ hở
của chính sách và luật pháp để trục lợi, móc ngoặc, hối lộ, cửa quyền….Thậm chí, một
số người dùng tư tưởng gia trưởng để giải quyết các công việc chung. Một trong
những phẩm chất của người lãnh đạo là tính quyết đốn. Nhưng quyết đốn theo kiểu
độc đốn, chun quyền là biểu hiện của thói gia trưởng.
Việc coi trọng lễ và cách giáo dục con người theo lễ một cách cứng nhắc, bảo
thủ là cơ sở cho tư tưởng tôn ti, tư tưởng bè phái, cục bộ, đề cao địa vị, coi thường lớp

trẻ, trọng nam khinh nữ… hiện nay vẫn còn tồn tại trong suy nghĩ và hành động của
khơng ít người. Những tư tưởng trên phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội phong kiến
phụ quyền gia trưởng: Đứng đầu gia đình là người cha, người chồng gọi là gia trưởng,
đứng đầu dòng họ là trưởng họ, đại diện cho cả làng là ông lý, cả tổng là ông chánh, hệ
thống quan lại là cha mẹ dân và cao nhất là vua (thiên tử - gia trưởng của gia đình lớn
– quốc gia, nước). Vì vậy, mọi người có nghĩa vụ theo và lệ thuộc vào “gia trưởng”.
Thực chất đạo cương – thường của Nho giáo là bắt bề dưới phải phục tùng bề trên đã
tạo nên thói gia trưởng. Thói gia trưởng biểu hiện ở quan hệ xã hội, ở tổ chức nhà
nước. Trong gia đình là quyền quyết định của người cha, người chồng :”cha mẹ đặt
đâu con ngồi đấy”; “phu xướng phụ tòng”.
Ở cơ quan là quyền duy nhất là của lãnh đạo. Ở đâu vẫn cịn có cán bộ mang tư
tưởng gia trưởng, bè phái thì ở đó quần chúng nhân dân sẽ không phát huy được khả
năng sáng tạo, chủ động được. Ngày nay, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đang rất cần những con người năng động, sáng tạo, dám nghĩ,
dám làm và dám chịu trách nhiệm. Cũng từ việc coi trọng lễ giáo, coi trọng quan hệ
gia đình thân thuộc nên nhiều người đã đưa quan hệ gia đình vào cơ quan hình thành

21


nên quan hệ “chú cháu”, “anh em” khiến cho người cấp dưới khơng dám góp ý và đấu
tranh với khuyết điểm của họ vì vị nể bậc cha chú.
Từ việc xem xét và giải quyết các vấn đề của xã hội thơng qua lăng kính gia
đình nhiều khi dẫn đến những quyết định thiếu khách quan, không công bằng. Tư
tưởng trọng nam khinh nữ đã dẫn đến một số người lãnh đạo không tin vào khả năng
của phụ nữ, ngại tiếp nhận nữ giới vào cơ quan hoặc cho rằng họ chỉ là người thừa
hành mà không được tham gia góp ý kiến…là những trở ngại cho việc đấu tranh vì
quyền bình đẳng giới. Vì quan hệ thứ bậc đã tạo nên quan niệm chạy theo chức quyền.
Trong xã hội phong kiến, địa vị luôn gắn với danh vọng và quyền lợi. Địa vị
càng cao thì quyền và lợi càng lớn. Hơn nữa, khi có chức, khơng những bản thân được

vinh hoa phú quý mà “một người làm quan cả họ được nhờ”. Hám danh, tìm mọi cách
để có danh, để thăng quan, tiến chức đã trở thành lẽ sống của một số người. Thạm chí
việc học tập theo họ cũng là “học để làm quan”. Sự giáo dục và tu dưỡng đạo đức của
Nho giáo cịn mang tính cứng nhắc đã tạo nên những con người sống theo khuôn mẫu,
hành động một cách thụ động. Những tàn dư tư tưởng trên đang làm cản trở và gây
khó khăn cho việc xây đựng đạo đức mới và xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Qua những điều phân tích ở trên có thể thấy rằng, tư tưởng đạo đức Nho giáo đã
có ảnh hưởng đáng kể ở nước ta. Sự tác động, ảnh hưởng này ở hai mặt vừa có tính
tích cực, vừa có những hạn chế nhất định.
Để xây dựng đạo đức mới cho cơn người Việt Nam hiện nay chúng ta cần kế
thừa mặt tích cực, đồng thời khắc phục và xóa bỏ dần những ảnh hưởng tiêu cực của tư
tưởng đạo đức Nho giáo. Công việc này phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và
lâu dài.
KẾT LUẬN
Tư tưởng Đức trị của Khổng Tử là một trong những nội dung cơ bản nhất trong
học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo. Trong Nho giáo, học thuyết chính trị và học
thuyết đạo đức quan hệ chặt chẽ với nhau, chính trị và đạo đức gắn chặt với nhau. Nho
giáo đặc biệt đề cao đạo đức trong trị nước, coi đó là cơng cụ và phương tiện hữu hiệu
nhất để hoàn thiện con người và ổn định, hồn thiện xã hội, đưa xã hội từ “vơ đạo”
thành “hữu đạo”.
22


Tư tưởng Đức trị là những quan điểm về đường lối trị nước, quản lý xã hội dựa
trên cơ sở những chuẩn mực đạo đức. Đó là hệ thống những chuẩn mực, những
nguyên tắc, quy phạm đạo đức để điều chỉnh hành vi của con người trong, các mối
quan hệ xã hội, nhằm đảm bảo sự thống nhất giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng đồng.
Đức trị phản ánh nhu cầu và lợi ích xã hội của giai cấp thống trị, được biểu hiện dưới
hình thức những quy định và những đánh giá trên cơ sở xác lập những giá trị luân lý,
được mọi người thừa nhận và chấp hành một cách tự giác. Trên cơ sở đó, Nho giáo

cũng khẳng định tính đúng đắn của quan niệm chính danh định phận trong xã hội, đề
ra những nguyên tắc, tiêu chí làm chuẩn mực để người cầm quyền nhận thức đạo lý,
giáo hóa hành vi, điều chỉnh hoạt động của mọi người.
Từ khi du nhập vào Việt Nam cho đến ngày nay, Nho giáo đã có những bước
thăng trầm biến đổi, từ chỗ bị phản kháng mãnh liệt trong đời sống cộng đồng dân cư
người Việt ngay buổi ban đầu, Đức trị Nho giáo đã dần dần chiếm lĩnh, dần dần khẳng
định vị trí của mình từ trong đời sống làng xã cho đến các triều đinh phong kiến trung
ương tập quyển. Ngày nay, trước những biến đổi lớn lao của xã hội, Đức trị Nho giáo
khơng cịn độc tôn là một công cụ cai trị, quản lý xã hội, song nó vẫn chứa đựng một
số hạt nhân hợp lý và giá trị bền vững cần được vận dụng một cách sáng tạo vào thực
tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Đoàn Trung Cịn (2000) Tứ Thư, Nxb Thuận Hố.

2.

Dỗn Chính (2013), Đại cương lịch sử triết học phương Đông cổ đại, Nxb Thanh
Niên.

3.

Trần Trọng Kim (1974), Nho giáo, Nxb. Tân Việt.

4.

Nguyễn Hiến Lê ( 1995) Luận ngữ, NXB Văn học.
23



5.

Hồ Chí Minh (1960), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội.

6.

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7.

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8.

Hồ Chí Minh (2000), Tồn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9.

Lê Công Sự (2014), Triết học cổ đại, Nxb chính trị Quốc gia – sự thật Hà Nội.

10. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị trung ương 3 (khóa VIII), Nxb
Chính trị quốc gia.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đai hội Đảng tồn quốc khóa VIII, Nxb
Chính trị quốc gia.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khóa IX, Nxb Chính
trị quốc gia.
13. Nguyễn Hữu Vui (2002), Lịch sử triết học, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.


24



×