Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn quận tân bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (917.11 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BIỆN THỊ THU THỦY

BIỆN THỊ THU THỦY

NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

KHĨA IX

Hà Nội, năm 2020



năm


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BIỆN THỊ THU THỦY

BIỆN PHÁP TẠM GIỮ ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI
PHẠM TỘI TỪ THỰC TIỄN QUẬN TÂN BÌNH
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự


Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG THẾ VẮC

Hà Nội, năm 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và chưa được cơng bố trong
bất cứ cơng trình nào.
Người cam đoan

Biện Thị Thu Thủy


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU……………………………..………………………....................

1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI................................................................................
1.1. Nhận thức chung về biện pháp tạm giữ người ………………………..

8

1.2. Thủ tục tố tụng đặc biệt tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi……….…


13

1.3. Các nguyên tắc áp dụng biện pháp tạm giữ người dưới 18 tuổi………

20

1.4. Khái quát lịch sử quy định pháp luật về biện pháp tạm giữ người dưới
18 tuổi đến trước khi ban hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015……….…………………………………………………………………

24

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM
2015 VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TẠI QUẬN TÂN BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH..............................................................................................................

31

2.1. Một số đặc điểm có ảnh hưởng đến thi hành quy định pháp luật tố tụng
hình sự về biện pháp tạm giữ người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn quận
Tân Bình.........................................................................................................

31

2.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về biện pháp tạm giữ
người dưới 18 tuổi...........................................................................................

36


2.3. Thực trạng thi hành quy định pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp
tạm giữ người dưới 18 tuổi từ thực tiễn của quận Tân Bình, thành phố Hồ
Chí Minh..........................................................................................................

47

2.4. Nhận xét, đánh giá....................................................................................

53

Chương 3: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG TẠM GIỮ NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI TẠI QUẬN TÂN
BÌNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH........................................................

59

3.1. u cầu nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giữ người dưới 18
tuổi...................................................................................................................

59


3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tạm giữ người dưới 18 tuổi....

62

KẾT LUẬN …………………………………………………………………

78


TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
: Bộ luật hình sự

BLHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS

:

CSTHAHS

: Cảnh sát thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp

CQĐT

: Cơ quan điều tra

HTTP

:

TTHS

: Tố tụng hình sự


VKS

:

Hỗ trợ tư pháp
Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1.

Thống kê lực lượng trực tiếp áp dụng biện pháp tạm giữ
người thuộc Công an quận Tân Bình

Bảng 2.2.

Phân tích trình độ cán bộ thuộc Đội CSTHAHS và HTTP
Cơng an quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
(tổng số 44 – tính đến tháng 06/2020)

Bảng 2.3.

Tổng số phòng giam, giữ Đội CSTHAHS và HTTP hiện
đang quản lý tại Cơng an quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí
Minh

Bảng 2.4.

Cơng cụ hỗ trợ phục vụ cơng tác quản lý giam giữ tại Đội

CSTHAHS và HTTP Công an quận Tân Bình

Bảng 2.5.

Bảng thống kê số người dưới 18 tuổi bị áp dụng biện pháp
tạm giữ trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm được
Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những cơng tác hết sức quan trọng
có ảnh hưởng khơng nhỏ đến đời sống chính trị xã hội và đã được Đảng, Nhà
nước ta đưa vào các Nghị quyết. Trong cuộc đấu tranh đó, để đạt được hiệu
quả cao, đáp ứng yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài, đảm bảo hài hồ giữa
lợi ích của cá nhân và lợi ích của xã hội. Nhà nước đã đưa ra nhiều cách thức,
biện pháp, một trong những biện pháp được áp dụng hiện nay đó là các biện
pháp ngăn chặn. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện nay, biện
pháp ngăn chặn được áp dụng với đối tượng trong trường hợp khẩn cấp, phạm
tội quả tang, người phạm tội đầu thú, tự thú hoặc đối với người bị bắt theo
quyết định truy nã nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn người bị bắt trốn việc điều
tra, xác minh và để quyết định khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do cho
người bị bắt. Trong các biện pháp ngăn chặn, tạm giữ được xem là biện pháp
hết sức nghiêm khắc vì đã hạn chế các quyền tự do cơ bản của công dân đã
được hiến pháp, pháp luật quy định và bảo vệ.
Biện pháp tạm giữ được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (gọi tắt
là BLTTHS) năm 2015. Đây là kết quả của sự kế thừa, bổ sung và phát triển
trải qua nhiều giai đoạn lịch sử của đất nước kể từ sau cách mạng tháng tám
thành công năm 1945 cho tới nay. Trải qua quá trình áp dụng, biện pháp tạm
giữ đã đạt được nhiều kết quả khả quan, thể hiện được những mặt tích cực,

góp phần khơng nhỏ trong việc phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, hạn chế việc
người bị bắt bỏ trốn ảnh hưởng đến quá trình điều tra, xác minh và đưa ra các
quyết định khởi tố bị can, tạm giam hoặc trả tự do cho người bị bắt. Tuy
nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được biện pháp tạm giữ nói chung và biện
pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi nói riêng vẫn cịn một số tồn tại, hạn

1


chế nhất định về căn cứ, trình tự thủ tục, thẩm quyền hay thời hạn quyết định
tạm giữ. Một trong những nguyên nhân hiện nay dẫn đến sự bất cập, hạn chế
trên là do quy định của pháp luật vẫn cịn chồng chéo, chưa hồn chỉnh, gây
cho cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng trong q trình áp dụng gặp khó
khăn, trở ngại khi phân cơng, phân cấp áp dụng chế định tạm giữ. Ví dụ như:
Luật quy định căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi
vẫn còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng; thẩm quyền áp dụng biện pháp
tạm giữ còn nhiều điểm chưa hợp lý ví như tại khoản 2 Điều 117 quy định:
những người có thẩm quyền ra lệnh giữ người, trong đó “người chỉ huy tàu
bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, biến cảng”, quy định
này khơng tương thích với quy định tại khoản 2, 4 Điều 110 BLTTHS năm
2015 vì người chỉ huy tàu bay, tàu biển khơng thể có thẩm quyền ra lệnh tạm
giữ do họ phải giải người bị giữ khẩn cấp đến Cơ quan điều tra (gọi tắt là
CQĐT), Cơ quan điều tra mới có quyền ra lệnh tạm giữ.
Mặt khác, theo quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành
niên bị tước bỏ quyền tự do (ban hành bởi Nghị quyết số 45/113 ngày
14/12/1990 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, điểm b, Điều 11) [29] và Luật
Trẻ em năm 2016 (số 102/2016/QH13 ngày 05/4/2016) [49] cần có những
quy định riêng về thủ tục, thời hạn tạm giữ đối với trẻ em, nhưng hiện nay
luật pháp nước ta chưa quy định cụ thể, chi tiết về thủ tục, thời hạn tạm giữ
đối với người dưới 18 tuổi, đó cũng là hạn chế làm ảnh hưởng khơng nhỏ đến

q trình áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi. Với những
tồn tại và hạn chế nêu trên đã gây ra khơng ít khó khăn, vướng mắc cho các
cơ quan, người có thẩm quyền trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ đối
với người dưới 18 tuổi. Mặt khác, trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ,
một số cán bộ trong các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn còn chủ quan, chưa
thực sự nêu cao tinh thần, trách nhiệm, còn sai sót ảnh hưởng khơng nhỏ đến

2


quyền lợi của người bị tạm giữ, làm giảm hiệu quả của quá trình điều tra, giải
quyết vụ án hình sự.
Để cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm đáp ứng yêu cầu thực tiễn
đặt ra, Nhà nước ta đã ban hành nhiều kế hoạch, chương trình, Nghị quyết,
một trong số đó là “chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” theo tinh thần
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02/06/2005 [8] và chiến lược
quốc gia phịng chống tội phạm nhằm thúc đẩy việc phòng ngừa, xử lý đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định
của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định đó về tạm giữ người dưới 18
tuổi phạm tội có ý nghĩa hết sức quan trọng, góp phần sáng tỏ về mặt khoa
học lẫn thực tiễn đồng thời đưa ra một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật và tổ chức thực hiện biện pháp này trong cuộc sống. Vì những lý do
trên, tác giả đã chọn đề tài “Biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội từ thực tiễn quận Tân Bình” làm đề tài nghiên cứu của luận văn thạc
sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
- Về giáo trình, sách chun khảo có các cơng trình như:
Nguyễn Vạn Ngun (1995) Một trăm câu hỏi đáp về bắt, giam, giữ và
khám xét đúng pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thế Liên Hoàng
(1996) Bảo vệ quyền trẻ em trong pháp luật Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội;

Trần Quang Tiệp (2004) Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế trong tố
tụng hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2004) Bình
luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, Nxb Cơng an nhân dân, Hà Nội;
Nguyễn Ngọc Anh (2012) Sổ tay pháp luật của Điều tra viên, Nxb Tư pháp,
Hà Nội; Đại học quốc gia (2014) Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia.

3


- Về luận văn: Trần Thế Linh (2014) Kiểm sát tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn
Trung Thắng (2017) Biện pháp tạm giam đối với người dưới 18 tuổi trong
Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh;
- Về bài báo khoa học: Nguyễn Mai Bộ (2001) “Một số ý kiến về chính
sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội trong Bộ luật Hình sự
năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 4; Hoàng Thị Minh Sơn
(2007) “Một số bấp cập trong quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
và những kiến nghị sửa đổi bổ sung”, hội thảo khoa học, Hà Nội; Đặng
Thanh Nga (2008) “Một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên phạm
tội”, Tạp chí Luật học, số 1; Trần Văn Độ (2010) “Hoàn thiện quyền và
nghĩa vụ tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp”, Tài liệu Hội thảo quốc tế về quyền con người trong tố tụng
hình sự; Dương Tuyết Miên (2015) “Một số ý kiến về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự và biện pháp thay thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành
niên phạm tội được quy định trong dự thảo bộ luật hình sự sửa đổi”, Tạp chí
Tịa án nhân dân, số 16.
Tuy nhiên các tài liệu, bài báo khoa học, luận văn trên chỉ phân tích,
bình luận, giải thích một số vấn đề về trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp

ngăn chặn hoặc việc quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự và biện pháp thay
thế xử lý hình sự áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội được quy
định trong bộ luật hình sự, BLTTHS mà chưa có tài liệu nào đề cập trực tiếp
đến việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên
địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nghiên cứu biện
pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Tân Bình

4


là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra trong giai đoạn hiện nay
trên địa bàn quận Tân Bình nói riêng và trong phạm vi cả nước nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp
luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự (gọi tắt là TTHS) và thực tiễn áp dụng
các quy định về tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trên địa bàn
quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, phát hiện những khó khăn,
vướng mắc, thiếu sót trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người
dưới 18 tuổi. Từ đó đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần hồn thiện các
quy định của pháp luật hình sự, tố tụng hình sự về áp dụng biện pháp tạm giữ
đối với người dưới 18 tuổi và nâng cao hiệu quả việc áp dụng biện pháp này
trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở những mục đích đã nêu, luận văn đề ra một số nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về tạm giữ người và tạm giữ
người dưới 18 tuổi trong BLTTHS năm 2015.
- Khảo sát, đánh giá việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới
18 tuổi phạm tội trên địa bàn quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

- Đánh giá những kết quả đạt được những tồn tại, thiếu sót, khó khăn,
vướng mắc khi thực hiện các quy định của BLTTHS về áp dụng biện pháp
tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Đồng thời đưa ra các giải pháp
khắc phục tồn tại đó và nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giữ đối với
người dưới 18 tuổi từ thực tiễn quận Tân Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

5


Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự hiện hành bao gồm: Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015, các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan và thực tiễn áp dụng biện
pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Từ đầu năm 2015 đến tháng 06 năm 2020.
Về không gian: Nghiên cứu người dưới 18 tuổi phạm tội từ thực tiễn
quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quy định của Đảng và Nhà
nước ta về pháp luật hình sự, TTHS, về quá trình cải cách tư pháp và chiến
lược quốc gia phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng các phương pháp
cụ thể và đặc thù như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp so
sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp; nghiên cứu
tâm lý lứa tuổi, phương pháp thống kê và nghiên cứu án điển hình được sử

dụng để nhận xét, đánh giá thực trạng việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Giúp các cơ quan tiến hành tố tụng hiểu rõ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn
cũng như trách nhiệm của mỗi cán bộ chiến sĩ trong cơng tác đấu tranh phịng
chống tội phạm, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, nâng cao
niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và lực lượng Cảnh sát nhân dân.

6


6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Qua việc phân tích các quy định của pháp luật TTHS, chỉ ra những bất
cập, tồn tại góp phần giải quyết những khó khăn vướng mắc phát sinh trong
thực tiễn cơng tác. Từ đó giúp các cơ quan tiến hành tố tụng thuận lợi hơn
trong việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn.
6.3. Ý nghĩa về mặt lập pháp
Từ những ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Luận văn có ý nghĩa quan
trọng về mặt lập pháp. Đây sẽ là một tài liệu quan trọng, có giá trị cao dành
cho những cán bộ trực tiếp thực thi pháp luật trong việc nắm bắt được những
đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của người dưới 18, đồng thời qua đó giúp cán
bộ thực thi pháp luật cẩn trọng trong công tác áp dụng biện pháp tạm giữ đối
với nhóm đối tượng là người dưới 18 tuổi. Mặt khác, luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích dành cho học viên và giảng viên chuyên ngành luật hình
sự trong quá trình nghiên cứu lý luận tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả
nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Cơ quan quản lý giam giữ trong quá trình áp dụng biện pháp
tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được chính xác, khách quan.

7. Kết cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 03 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giữ người dưới 18
tuổi.
Chương 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ
người dưới 18 tuổi và thực tiễn thi hành tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí
Minh.
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tạm giữ
người dưới 18 tuổi tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIỮ NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI
1.1. Nhận thức chung về biện pháp tạm giữ người
1.1.1. Khái niệm
Tạm giữ là biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người bị bắt trong
trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang để cách li họ với xã hội trong
một thời gian cần thiết nhằm ngăn chặn người đó tiếp tục phạm tội, cản trở
điều tra và xác định sự liên quan của người này đối với tội phạm. Để có thể
làm rõ được khái niệm tạm giữ người theo thủ tục TTHS cần xác định và làm
rõ được những nội dung cơ bản sau:
- Mục đích tạm giữ người: Nhằm ngăn chặn hành vi phạm tội trốn tránh

pháp luật; cản trở hoạt động điều tra; tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
điều tra thu thập tài liệu, chứng cứ, bước đầu xác định tính chất của hành vi
phạm tội.
- Đối tượng bị áp dụng:


Tại khoản 1 Điều 117 BLTTHS năm 2015, quy định tạm giữ có thể áp
dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong
trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với
người bị bắt theo quyết định truy nã [46, tr.52].
- Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ:

Những người có quyền ra lệnh tạm giữ được quy định cụ thể tại khoản 2
Điều 110 BLTTHS năm 2015. Bao gồm những người sau đây:
+ Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp;
+ Thủ trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng
Đồn biên phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng
Bộ đội biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục

8


trinh sát biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy
và tội phạm Bộ đội biên phịng, Đồn trưởng Đồn đặc nhiệm phịng, chống
ma túy và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển,
Cục trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biển, Đoàn
trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát
biển; Chi cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng;
+ Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân
bay, bến cảng [46, tr.48].
- Thủ tục tạm giữ: BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể thủ tục tạm giữ,

việc tạm giữ phải có lệnh tạm giữ của người có thẩm quyền. Pháp luật cũng
quy định chặt chẽ việc phải ghi rõ họ và tên, địa chỉ cụ thể của người bị tạm
giữ, lý do vì sao tạm giữ họ, thời gian hết hạn tạm giữ và lệnh tạm giữ phải

giao cho người bị tạm giữ một bản. Nếu việc tạm giữ khơng có lệnh tạm giữ
của người có thẩm quyền, người bị tạm giữ có quyền yêu cầu trả tự do cho họ.
- Thời hạn tạm giữ: Theo quy định của luật TTHS về thời hạn áp dụng

biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi được thể hiện tại Điều 118
BLTTHS năm 2015 như sau:
“1. Thời hạn tạm giữ không quá 03 ngày kể từ khi Cơ quan điều tra, cơ
quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhận người bị
giữ, người bị bắt hoặc áp giải người bị giữ, người bị bắt về trụ sở của mình
hoặc kể từ khi Cơ quan điều tra ra quyết định tạm giữ người phạm tội tự thú,
đầu thú.
2. Trường hợp cần thiết, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm
giữ nhưng không quá 03 ngày. Trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm
giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 03 ngày.
Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền phê chuẩn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi

9


nhận hồ sơ đề nghị gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê
chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn”.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố bị can thì Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra
phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ; trường hợp đã gia hạn tạm giữ thì
Viện kiểm sát phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm
giữ được tính bằng một ngày tạm giam” [46, tr.52].
Trên cơ sở đó có thể đưa ra khái niệm về tạm giữ người theo thủ tục
TTHS như sau: Tạm giữ người theo thủ tục TTHS là biện pháp ngăn chặn

được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự, do người có thẩm quyền áp dụng
đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã
nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người bị bắt trốn tránh việc điều tra;
để xác minh tội phạm và để quyết định việc truy cứu trách nhiệm hình sự
(khởi tố bị can) đối với họ.
1.1.2. Đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi
Việc tìm hiểu những đặc điểm tâm lý của người dưới 18 tuổi là không
thể thiếu được đối với cơ quan và người tiến hành tố tụng hình sự.
Lứa tuổi này có thể phân chia thành 2 nhóm cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất, người đủ 14 tuổi tròn đến dưới 16 tuổi
Các em vừa vượt qua giai đoạn trẻ con, sống phụ thuộc vào gia đình,
nhưng có sự phát triển mạnh mẽ về tính cách. Ở lứa tuổi này nhân cách của
các em có sự phát triển mạnh mẽ, các quan niệm về cuộc sống rõ ràng hơn và
các quan hệ xã hội bước đầu được mở rộng. Hoạt động chủ đạo của trẻ lúc
này là học tập, tuy nhiên cũng cần tránh tạo gánh nặng trí tuệ và tránh thúc ép
các em học quá sức, cả về văn hóa, thể thao, âm nhạc, hội họa…

10


Mặc khác, trẻ vẫn có những khủng hoảng tâm lý đi kèm với những biến
đổi mạnh mẽ về sinh lý. Đối với trẻ em gái, nếu không được chuẩn bị chu đáo
về tâm lý cho lần thấy kinh nguyệt đầu tiên các em dễ bị những mặc cảm
nặng nề, ở trẻ em trai sự phát triển tâm lý giới tính cũng chuyển sang thời kỳ
mới. Nếu các em bị những tác động xấu của video đen, phim ảnh đồi trụy...
thì rất dễ có những hành vi chống đối xã hội, phi đạo đức.
Nhóm thứ hai, người từ 16 tuổi trịn đến dưới 18 tuổi
Đang ở giai đoạn sắp bước vào tuổi người lớn, nhận thức xã hội khá
hơn nhóm thứ nhất nhưng vẫn chưa tách khỏi gia đình, vẫn phụ thuộc vào

kinh tế từ gia đình. Ở giai đoạn này các em có những thay đổi về tâm lý cũng
như biến đổi mạnh mẽ về thể chất, xuất hiện nhiều cung bậc cảm xúc trái
ngược. Chính sự thay đổi mạnh mẽ về cảm xúc dẫn đến việc nhiều em có
những hành động bộc phát, những hành vi không kiềm chế được, nhiều khi
chỉ là mâu thuẫn nhỏ cũng dẫn đến xô xát và gây ra những hậu quả đáng tiếc.
Từ những phân tích trên cho thấy, người dưới 18 tuổi có một số đặc
điểm cơ bản như sau:
+ Có sự thay đổi mạnh mẽ về thể chất và tinh thần, sự biến đổi sâu sắc
về đời sống tâm sinh lý. Các em có xu hướng muốn độc lập trong nhiều lĩnh
vực, khơng muốn bị gị ép theo một khn mẫu, không nghe theo sự sắp xếp,
sắp đặt, chỉ bảo quá cụ thể từ cha mẹ, ông bà hay thầy cô. Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng và cần thiết đối với các em trong quá trình hình thành nhân
cách, giúp các em phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần.
Tuy nhiên, nếu quá trình trưởng thành đó có sự quan sát, chỉ bảo, động viên,
giúp đỡ của những người xung quanh thì các em sẽ phát triển theo hướng tích
cực và hình thành nhân cách tốt, ngược lại nếu nó phát triển theo hướng thái
quá thì dễ dẫn đến hình thành những nhân cách sai lệch. Vì vậy, qua nghiên
cứu đặc điểm này sẽ giúp các cơ quan tiến hành tố tụng nói riêng và gia đình,

11


nhà trường nói chung nắm bắt được đặc điểm, tâm sinh lý lứa tuổi của các em
từ đó có cách thức, biện pháp phù hợp trong việc quản lý, giáo dục các em
nhằm ngăn ngừa tình trạng các em vi phạm pháp luật.
+ Dễ bị tác động bởi môi trường bên ngồi. Tính cách của các em
thường phát triển theo khuynh hướng thích chứng tỏ mình đã là người lớn và
mong muốn người xung quanh thừa nhận. Do đó các em thường có những
hành động mất kiểm sốt, đơi lúc hùa theo bạn bè tụ tập, ăn chơi, rồi dẫn đến
bỏ học, nghiện hút hay vi phạm pháp luật… Một số em do tác động từ những

mơi trường bên ngồi gia đình, tiếp cận những thói hư tật xấu, cũng như ảnh
hưởng bởi những suy nghĩ lệch chuẫn mà dần dần đánh mất bản thân và hành
động theo nhu cầu, sở thích hoặc đơi khi là hành động theo sự chỉ đạo, hướng
dẫn của một số đối tượng xấu dẫn đến hành vi phạm tội.
+ Nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đây là giai đoạn các em còn thiếu
kinh nghiệm sống, đặc biệt là khả năng nhận thức về pháp luật cịn nhiều hạn
chế, đơi khi hành động theo cảm tính hoặc đua địi theo bạn bè. Chẳng hạn,
khi đi xe đạp thì dăng thành hàng ba, hàng tư trên đường phố, gây cản trở giao
thông; đi xe máy thì đèo ba, đèo bốn, phóng nhanh, vượt ẩu gây nguy hiểm
cho chính các em và đặc biệt là cho những người tham gia giao thông khác.
Mặt khác, trong nhiều trường hợp người chưa thành niên thực hiện hành vi
phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng lại không biết rằng mình phạm tội,
khơng thấy được hết tính nguy hiểm đối với xã hội của hành vi đó mà lại cho
rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự vệ hoặc bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình. Chính vì vậy, ý thức về các chuẩn mực xã hội nói chung và các
chuẩn mực pháp luật nói riêng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát
triển nhân cách của các em. Nó giúp các em phát triển nhân cách một cách
đúng đắn và trở thành công dân tốt cho xã hội. Khi các em có ý thức pháp luật
đúng đắn thì đây chính là biểu hiện của cái “siêu tôi”, là sự hạn chế, ngăn

12


ngừa những nhu cầu, hành vi mang tính vơ thức, những khẳng định của nhu
cầu độc lập không hợp lý của các em.
+ Ln có nhu cầu tìm hiểu, khám phá cái mới. Các em muốn tiếp thu,
học hỏi kinh nghiệm sống, các kiến thức, tri thức từ những người khác. Đặc
biệt trong thời đại công nghệ thông tin phát triển như hiện nay thì nhu cầu tìm
hiểu của các em khơng chỉ gói gọn trong phạm vi gia đình, nhà trường mà các
em còn học hỏi, tiếp thu từ nhiều nguồn thông tin trên các mạng viễn thông

của nhiều nước khác trên thế giới. Việc tiếp thu, học hỏi cái mới sẽ giúp các
em có nhận thức, hiểu biết hơn. Đây là điều hết sức quan trọng giúp các em
phát triển nhân cách của mình. Tuy nhiên, các em khơng chỉ có nhu cầu khám
phá cái mới mà cịn tìm tịi, thử nghiệm cái mới, trong đó có cả những cái
thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội. Đây chính là một trong những
nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Các em có xu hướng tìm
kiếm, khám phá những cái mới lạ hay bắt chước nên rất dễ bị lôi cuốn vào
những hoạt động tiêu cực.
Như vậy, qua nghiên cứu những đặc điểm nổi bật của người dưới 18 tuổi
để có cơ sở nền tảng đánh giá quá trình hình thành nhân cách của các em.
Đồng thời qua đó giúp gia đình, nhà trường và xã hội chủ động cùng nhau
phối hợp trong việc giáo dục, rèn luyện cũng như quản lý, răn đe các em phù
hợp với đặc điểm lứa tuổi cũng như nắm bắt được những biến đổi tâm lý của
các em để có biện pháp theo dõi, giám sát phù hợp.
1.2. Thủ tục tố tụng đặc biệt tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi
Do tính chất đặc biệt của người dưới 18 tuổi nên BLTTHS năm 2015
quy định tại phần 7 thủ tục đặc biệt và chương XXVIII thủ tục tố tụng đối với
người dưới 18 tuổi.
1.2.1. Khái niệm

13


Tạm giữ là một trong những biện pháp ngăn chặn trong TTHS, hạn chế
quyền tự do đi lại của cá nhân, quyền con người. Do đó, khi áp dụng biện
pháp tạm giữ phải tạo mọi điều kiện, phải đảm bảo phù hợp với đặc điểm tâm
lý cũng như lứa tuổi của người bị tạm giữ; đồng thời quá trình tiến hành phải
đáp ứng thủ tục tố tụng thân thiện, đảm bảo đúng với yêu cầu, mức độ trưởng
thành, khả năng nhận thức của người dưới 18 tuổi; ngoài ra cũng cần bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi, cũng như góp phần đem lại

những lợi ích tốt nhất cho người dưới 18 tuổi” [46, Điều 414].
Trên thực tế ở nhóm trẻ dưới 18 tuổi các em vẫn còn những nhận thức
chưa đầy đủ về mức độ nguy hiểm do hành vi mình gây ra, cũng khơng lường
trước được hậu quả do hành vi đó đem lại. Vì vậy chính sách hình của Nhà
nước ta đối với người dưới 18 tuổi chủ yếu là giáo dục, giúp đỡ họ sữa chữa
những sai lầm, phát triển lành mạnh để trở thành người có ích cho xã hội. Do
vậy, thủ tục tố tụng càng phải được quy định phù hợp với lứa tuổi của người
dưới 18 tuổi.
Theo BLTTHS của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện
hành, thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi được tiến hành theo một trình
tự đặc biệt quy định tại phần 7, chương XXVIII từ Điều 413 đến Điều 430.
- Mục đích: Kịp thời ngăn chặn tội phạm, để tiếp tục điều tra, xác minh
làm rõ hành vi, nội dung vụ việc; đảm bảo an toàn cho họ tránh được sự trả
thù của bị hại và các đồng phạm khác hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị
buộc tội sẽ tiếp tục gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ
tiếp tục phạm tội; cũng như bảo đảm cho quá trình thi hành án hình sự.
- Chủ thể áp dụng: Trên thực tế pháp luật khơng có quy định riêng về
chủ thế áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi nên thẩm quyền
áp dụng biện pháp tạm giữ là những người được quy định tại khoản 2 Điều
110 BLTTHS năm 2015. Tuy nhiên, để phù hợp với thực tiễn đấu tranh

14


phòng, chống tội phạm, BLTTHS năm 2015 bổ sung thẩm quyền tạm giữ cho
một số chủ thể khác như: Bộ đội biên phòng, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, chỉ
huy tàu bay, tàu biển hay lực lượng hải quan...
- Đối tượng bị áp dụng: Đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giữ gồm
những người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người
phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

Tuy nhiên, ở đây đối tượng bị tạm giữ là người dưới 18 tuổi, họ có những đặc
điểm riêng biệt so với người từ 18 tuổi trở lên. Chính vì vậy khi áp dụng biện
pháp tạm giữ đối với họ ngoài việc tuân theo những quy định của pháp luật
cũng cần căn cứ vào độ tuổi và những đặc điểm riêng của lứa tuổi đó để đảm
bảo quyền lợi cho người dưới 18 tuổi.
- Thủ tục áp dụng: Pháp luật quy định thủ tục chung cho tất cả các vụ án
hình sự có người bị tạm giữ. Tuy nhiên, nếu vụ án đó có người dưới 18 tuổi
phạm tội bị tạm giữ thì phải áp dụng theo thủ tục tố tụng đặc biệt dành cho họ
để đảm bảo những quyền lợi riêng mà pháp luật dành cho người dưới 18 tuổi,
cũng như chính sách nhân đạo của Nhà nước ta áp dụng đối với họ.
- Thời hạn áp dụng: Cũng giống như các quy định về trình tự, thủ tục và
thẩm quyền, thời hạn áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi
vẫn khơng có quy định riêng, mà được áp dụng chung đối với người từ đủ 18
tuổi trở lên. Tuy nhiên, do những đặc điểm tâm sinh lý của người dưới 18 tuổi
có sự khác biệt vì vậy trước khi áp dụng biện pháp tạm giữ đối với họ cần
phải xem xét, đánh giá từng khía cạnh cụ thể như độ tuổi, đặc điểm điều kiện
sống, nhận thức của bản thân từng nhóm tuổi để có sự điều chỉnh cũng như
cân nhắc cho phù hợp trước khi áp dụng.
Với những cách tiếp cận khái niệm chung về biện pháp tạm giữ như trên,
những vấn đề thủ tục tố tụng đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi chúng ta có
thể đi đến khái niệm biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi như sau:

15


Biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi là biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với người
dưới 18 tuổi trong các trường hợp bắt người bị tạm giữ trong trường hợp
khẩn cấp, người bị bắt trong các trường hợp phạm tội quả tang, người phạm
tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.

Ngoài những quy định chung đối với người bị tạm giữ như: Mục đích
đối tượng áp dụng, thẩm quyền ra lệnh bắt, thủ tục tạm giữ và thời hạn tạm
giữ… Tạm giữ người dưới 18 tuổi phải áp dụng theo những quy định tại Điều
413 BLTTHS và nguyên tắc tiến hành tố tụng tại Điều 414 BLTTHS.
1.2.2. Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ
Theo quy định tại Điều 419 BLTTHS năm 2015 để có thể áp dụng biện
pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi phải thỏa mãn các căn cứ như sau:
1.2.2.1. Để kịp thời ngăn chặn tội phạm
Trong q trình đấu tranh phịng chống tội phạm việc tạm giữ người
phạm tội sẽ góp phần quan trọng giúp các cơ quan tiến hành tố tụng kịp thời
ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp tục xảy ra, phục vụ tốt cho công tác điều tra,
xử lý tội phạm có hiệu quả. Việc áp dụng biện pháp tạm giữ nói chung và tạm
giữ người dưới 18 tuổi nói riêng là hết sức cần thiết, đây cũng được xem là sự
lựa chọn cuối cùng của các cơ quan tiến hành tố tụng và “chỉ áp dụng biện
pháp tạm giữ, tạm giam đối với người bị buộc tội là người dưới 18 tuổi khi có
căn cứ cho rằng việc áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn chặn
khác khơng hiệu quả”[46, Điều 419].
Như vậy, có thể thấy rằng trước khi quyết định áp dụng biện pháp tạm
giữ người dưới 18 tuổi, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã xem xét, cân nhắc áp dụng biện pháp
giám sát quy định tại Điều 418 BLTTHS năm 2015 [46, tr.161] và các biện
pháp ngăn chặn khác. Các biện pháp ngăn chặn khác ở đây bao gồm: cấm đi

16


khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất cảnh quy định tại Điều 123, Điều 124
BLTTHS năm 2015 [46, tr.56]. Như vậy, có thể hiểu khi người dưới 18 tuổi
có đủ các điều kiện để áp dụng biện pháp giám sát và các biện pháp ngăn
chặn nêu trên thì phải được ưu tiên áp dụng, chỉ khi khơng có đủ điều kiện để

áp dụng các biện pháp này hoặc có cơ sở cho rằng việc áp dụng các biện pháp
này sẽ khơng đạt hiệu quả thì mới được áp dụng biện pháp tạm giữ đối với họ.
Ngoài ra, cũng theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Thông tư liên tịch số
06/2018/TTLT ngày 21/12/2018 trong phối hợp thực hiện một số quy định
của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi hướng dẫn cụ thể
hơn rằng: “Chỉ áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam theo quy định tại khoản
1 Điều 419 Bộ luật Tố tụng hình sự trong trường hợp người bị buộc tội là
người dưới 18 tuổi đã được áp dụng biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn
khác quy định tại khoản 1 Điều này nhưng bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã, có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội, có dấu hiệu tiếp tục phạm tội
hoặc có các hành vi khác quy định tại khoản 2 Điều 418 Bộ luật Tố tụng hình
sự” [52, tr.6].
1.2.2.2. Khi có căn cứ chứng tỏ người phạm tội gây khó khăn cho hoạt
động điều tra
Áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi được quy định
tại Điều 419 BLTTHS hiện hành. Qua đó việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối
với người dưới 18 tuổi được thực hiện trong trường hợp sau khi đã được áp
dụng các biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn khác (cấm đi khỏi nơi cư
trú, tạm hoãn xuất cảnh) nhưng phát sinh một trong những căn cứ sau:
Căn cứ thứ nhất, người dưới 18 tuổi bỏ trốn và bị bắt theo quyết định
truy nã. Đây là trường hợp người dưới 18 tuổi đang bị áp dụng biện pháp
giám sát, biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú hoặc tạm hoãn xuất
cảnh nhưng trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn này người bị

17


tạm giữ vẫn cố tình bỏ trốn khởi nơi cư trú gây khó khăn cho cơng tác điều
tra, truy tố, xét xử nên đã bị cơ quan có thẩm quyền ra quyết định truy nã. Sau
khi bị bắt theo quyết định truy nã thì người dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng

biện pháp tạm giữ để đảm bảo hiệu quả các hoạt động tố tụng tiếp theo.
Căn cứ thứ hai, người dưới 18 tuổi có dấu hiệu bỏ trốn. Trên thực tế
việc áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người dưới 18 tuổi được xác định
trong trường hợp người này có các dấu hiệu của việc bỏ trốn, chứ khơng nhất
thiết người đó đã thực hiện hành vi bỏ trốn. Thực tế hiện nay trong các quy
định của pháp luật hiện hành, chưa có bất kỳ văn bản pháp luật nào hướng
dẫn cụ thể, phân tích làm rõ như thế nào là “có dấu hiệu bỏ trốn”. Do đó, dấu
hiệu bỏ trốn ở đây được hiểu một cách “tùy nghi”. Vì vậy, để xác định được
dấu hiệu bỏ trốn cần căn cứ vào tình hình cụ thể đối với từng trường hợp
người dưới 18 tuổi bị buộc tội mà xem xét cụ thể như: có sự chuẩn bị về cơng
cụ, phương tiện nhằm mục đích bỏ trốn; có hành vi lên kế hoạch để vượt biên;
mua vé tàu, vé xe nhằm mục đích trốn sang địa phương khác mà khơng trình
báo với chính quyền địa phương hoặc cơ quan đang tiến hành tố tụng; có hành
vi móc nối, liên lạc với các cá nhân, tổ chức khác nhằm được hỗ trợ cho việc
bỏ trốn.
Như vậy, “có dấu hiệu bỏ trốn” đối với người dưới 18 tuổi được hiểu là
khi người này đã thực hiện một hoặc một số hành vi nhằm mục đích đi khỏi
nơi cư trú hiện tại của mình, trốn tránh việc điều tra, truy tố, xét xử của các cơ
quan có thẩm quyền đang tiến hành tố tụng.
1.2.2.3. Khi có căn cứ chứng tỏ người dưới 18 tuổi tiếp tục phạm tội
Sau khi đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người dưới 18 tuổi
đã bị áp dụng biện pháp giám sát, biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú
hoặc tạm hỗn xuất cảnh nhưng người dưới 18 tuổi vẫn có các dấu hiệu tiếp
tục thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS.

18


×