Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

luận văn thạc sĩ tội trốn thuế từ thực tiễn tỉnh đồng nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.47 KB, 81 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO VIỆN TRIỀU

TỘI TRỐN THUẾ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐÀO VIỆN TRIỀU

TỘI TRỐN THUẾ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐỒNG NAI
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. VÕ KHÁNH VINH

HÀ NỘI - 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi;
kết quả nêu ra trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chưa
được công bố ở các cơng trình nghiên cứu khác.
Số liệu, tài liệu, dùng cho việc phân tích, đánh giá trong luận
văn này được thu thập từ các nguồn khác nhau nhưng bảo đảm tính
chính xác, trung thực có trích dẫn nguồn gốc.
Ngồi ra, luận văn còn sử dụng một số ý kiến, nhận xét, đánh
giá, có liên quan đến tội phạm về thuế của một số tác giả khác, nội
dung này được ghi chú, trích dẫn theo quy định.
Nếu phát hiện có sự gian lận, tơi xin chịu hồn tồn trách
nhiệm trước pháp luật.
Kính đề nghị Học viện khoa học xã hội xem xét cho tôi được
bảo vệ luận văn.
Tác giả luận văn

Đào Viện Triều


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ LỊCH SỬ VỀ TỘI
TRỐN THUẾ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM …………. 7


1.1. Khái niệm, các dấu hiệu của tội trốn thuế ………………………….. 7
1.2. Các cấu thành tăng nặng của tội trốn thuế ………………………… 18
1.3. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế ……… 20
1.4. Hình phạt đối với tội trốn thuế ……………………………………... 21
1.5. Lịch sử phát triển các quy định của pháp luật hình sự về tội trốn thuế…... 23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ
TỘI TRỐN THUẾ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH
ĐỒNG NAI …………………………………………………….… 32

2.1. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội trốn thuế …..……. 32
2.2. Những vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt
đối với tội trốn thuế …………………………………....………….… 44
2.3. Tình hình xét xử tội trốn thuế tren địa bàn tỉnh Đồng Nai…………... 51
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỐN THUẾ …. 63

3.1. Hoàn hiện quy định của pháp luật hình sự về tội trốn thuế ………..... 63
3.2 Tổng kết thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trốn thuế .…71
3.3. Hướng dẫn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội trốn thuế .. 72
3.4. Các giải pháp khác ………………………………………………...… 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………… 78


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi sung năm 2017


BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

BLDS

Bộ luật dân sự năm 2015

CTTP

Cấu thành tội phạm

TNHS

Trách nhiệm hình sự

NLTNHS

Năng lực trách nhiệm hình sự

PNTM

Pháp nhân thương mại

NSNN

Ngân sách nhà nước

GTGT


Thuế giá trị gia tăng

TNDN

Thuế thu nhập doanh nghiệp


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Số hiệu
Bảng 2.3.1.

Bảng 2.3.2.

Bảng 2.4.1.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế là một khoản nộp ngân sách nhà nước bắt buộc dưới hình thái giá trị,
mang tính cưỡng chế mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải nộp cho Nhà nước
theo quy định của các luật th́.
Tính bắt buộc đó thể hiện nghĩa vụ chuyển giao tài sản của người nộp thuế
cho nhà nước mà khơng có sự thỏa thuận. Th́ là một cơng cụ tài chính để nhà
nước phân phối lại thu nhập quốc dân, nghĩa là thuế phản ánh mối quan hệ phân
chia lại của cải dưới hình thái giá trị giữa nhà nước với người nộp thuế bằng
quyền lực nhà nước thơng qua pháp luật, hay nó cách khác bản chất của thuế là
cưỡng chế một phần thu nhập của người nộp thuế vào ngân sách bằng pháp luật.
Trong mối quan hệ đó, quyền thu thuế của nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế của

người nộp thuế có sự xung đột về lợi ích, lợi ích ln là mục tiêu thúc đẩy người
nộp thuế thực hiện hành các vi trốn thuế để tối thiểu hóa số thuế phải nộp nhằm tối
đa hóa thu nhập. Trốn thuế có nguyên nhân từ mâu thuẫn về lợi ích, mâu thuẫn đó
có cơ sở để tồn tại, bởi vì thuế luôn gắn liền với nhà nước, cịn th́ là cịn có hiên
tượng trốn thuế, nó tồn tại như hai mặt của một vấn đề.
Có thể khẳng định, thuế là cơ sở vật chất chủ yếu để nhà nước tồn tại và
phát triển, thuế khơng chỉ là cơng cụ tài chính để phân phối lại thu nhập quốc dân
mà cịn là cơng cụ, phương tiện để nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế, duy trì sự
ổn định, tạo động lực phát triển toàn diện về kinh tế xã hội, giáo dục y tế, an ninh
quốc phòng … của đất nước. Để bảo đản cho ngân sách nhà nước có nguồn thu ổn
định, nhà nước phải ban hành pháp luật thuế để làm cơ sở pháp lý quy định quyền
đánh thuế và nghĩa vụ nộp thuế của các chủ thể có liên quan, như hệ thống các
luật thuế (luật về nội dung) và luật quản lý thuế (luật về hình thức) buộc các bên
phải chấp hành nghiêm chỉnh. Mọi sự vi phạm pháp luật về thuế đều bị xử lý
nghiêm minh bằng chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự.
Đồng Nai là một tỉnh có vị trí quan trọng, là cửa ngõ phía đơng thành phố
Hồ Chí Minh - một trung tâm kinh tế lớn của cả nước; Đồng Nai có vai trò quan
trọng trong phát triển của vùng kinh tế trọng điểm phía nam [50]. Đồng Nai có
1


diện tích hơn 5,8 triệu km2 với dân số gần 3,1 triệu người đứng thứ 5 cả nước và
đứng thứ 2 ở miền Đơng Nam Bộ [51]. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh có khoảng
38

ngàn doanh nghiệp trong nước đang hoạt động với tổng số vốn đăng ký trên
264 ngàn

tỷ đồng, có 1.457 dự án của doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài


(FDI) với số vốn đăng ký khoảng 30 tỷ USD và có hàng trăm ngàn hộ kinh
doanh cá thể đang hoạt động. Chỉ tính riêng năm 2019 đã có hơn 3,8 ngàn
doanh nghiệp
đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký khoảng 34 ngàn tỷ đồng; tổng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký cấp mới và dự án tăng vốn là hơn 1,4 tỷ USD.
Như vậy, chủ thể kinh doanh có phát sinh nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước trên
địa bàn tỉnh Đông Nai là rất lớn, chỉ riêng năm 2019 Đồng Nai đã nộp ngân sách
nhà nước hơn 54 nghìn tỷ đồng, Đồng Nai luôn là một trong năm địa phương nộp
ngân sách lớn nhất cả nước [52].
Để đạt được thành tích đó, các tổ chức, các nhân người nộp th́ đã rất nỗ
lực phấn đấu trong sản xuất kinh doanh, chấp hành nghiêm chính sách pháp luật
thuế, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế xã hội. Bên cạnh những người nộp th́ rất đáng trân trọng đó, vẫn
cịn nhiều tổ chức, hộ gia đình, cá nhân kinh doanh trên địa bàn tỉnh Đồng Nai
không chấp hành nghiêm pháp luật thuế, dùng nhiều thủ đoạn gian dối để thực
hiện hành vi trốn thuế làm thất thu ngân sách nhà nước. Hàng năm Ngành thuế và
Kiểm toán nhà nước đã thực hiện hàng chục ngàn cuộc thanh tra, kiểm tra việc
chấp hành pháp luật thuế, qua đó truy thu, xử phạt mỗi năm hàng chục ngàn tỷ
đồng góp phần tăng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hiện tượng trốn thuế ngày
càng phức tạp, cả về quy mô và số tiền thuế trốn, thế nhưng trong số hàng chục
ngàn doanh nghiêp có sai phạm về thuế, chủ yếu được áp dụng chế tài hành chính,
rất ít người nộp thuế bị truy cứu TNHS về tội trốn thuế, qua đó cho thấy ngày
càng gia tăng xu hướng hành chính hóa hành vi trốn thuế, có thể nhận xét rằng
trong lĩnh vực thuế có tỷ lệ tội phạm ẩn rất cao. Đó là một thực tế đáng báo động
về tình hình tội phạm trong lĩnh vực thuế, trong đó có Đồng Nai.
Như vậy, trốn thuế là hành vi trái pháp luật, làm thất thu ngân sách nhà
nước, trốn th́ cịn làm xấu mơi trường doanh, và làm sói mịn niềm tin của người
2



dân vào cơ quan quản lý thuế. Trước tình hình tội phạm về thuế ngày càng phức
tạp, để đấu tranh phòng chống tội phạm về thuế đạt hiệu quả, bên cạnh việc nhà
nước ban hành hệ thống pháp luật thuế hoàn chỉnh, nhà nước cần phải nghiên cứu
sửa đổi, bổ sung hoàn thiện Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
để đáp ứng yêu cầu đấu tranh phịng chống tội phạm, trong đó có tội phạm về
thuế. Qua thực tiễn áp dụng BLHS nhận thấy còn một số vần đề cần phải kịp thời
sửa đổi, hoàn thiện nhất là các nội dung có liên quan đến việc truy cứu trách
nhiệm hình sự pháp nhân thương mại phạm tội trốn thuế.
Cho đến nay Bộ Luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có
hiệu lực thi hành hơn 2 năm, nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề lý
luận về tội trốn thuế một cách đầy đủ chuyên sâu và cũng chưa có cơng nào trình
nghiên cứu tổng kết thực tiễn tội trốn thuế trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài:“Tội trốn thuế từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai”
làm cơ sở nghiên cứu cho luận văn của mình, trong bối cảnh thất thu ngân sách
nhà nước rất lớn. Luận văn này khơng chỉ có ý nghĩa về lý luận mà cịn có ý nghĩa
thực tiễn tại Đồng Nai.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về tội trốn thuế hoặc có liên
quan đến tội phạm về thuế trong Luật hình sự Việt Nam, như:
Luận văn thạc sỹ “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội trốn thuế trong
luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Việt Dũng, năm 2010, Khoa luật Đại
học quốc gia Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ “Tội trốn thuế theo luật hình sự Việt Nam” của tác giả
Trần Thị Hoa, năm 2015, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ “Trách nhiệm hình sự đối với tội trốn thuế trong luật hình
sự Việt Nam” của tác giả Lê Thị Hồng Nhung, năm 2017, Khoa luật Đại học quốc
gia Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ “Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế trong lĩnh vực
hoàn thuế giá trị gia tăng theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu thực
tiễn tại TP. Hải Phòng)” của tác giả Lê Thị Khánh Ly, năm 2015, Khoa luật Đại

3


học quốc gia Hà Nội.
Luận văn thạc sỹ “Các biện pháp pháp lý chống thất thu thuế nhập khẩu ở
nước ta hiện nay” của tác giả Nguyễn Tiến Đạt, năm 2016, Khoa luật Đại học
quốc gia Hà Nội.
Bài viết “Bàn về tội trốn thuế trong BLHS Việt Nam” của tác giả Thái
Ngun Tồn, Tạp chí Kiểm sát số 23, tháng 12/2013,
Bài viết “Tội trốn thuế và trách nhiệm của Kiểm tốn viên Nhà nước” của
tác giả Hồng Văn Chương và Lưu Thị Thanh Hà. Cổng thông tin điện tử của
Kiểm tốn nhà nước, ngày 11/05/2010,
Các cơng trình nghiên cứu của những tác giả nêu trên đã đề cập và làm rõ
một số chiều cạnh về lý luận cũng như thực tiễn có liên quan đến tội phạm trốn
thuế trong luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh đất nước có nhiều sự
thay đổi, trong đó có sự thay đổi của pháp luật thuế, pháp luật về Quản lý thuế, và
chính sách pháp luật hình sự, đặc biệt là quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ
sung năm 2017 đã sửa đổi căn bản nội dung của tội trốn thuế, trong đó lần đầu tiên
lịch sử lập pháp Việt Nam quy định pháp nhân thương mại phải chịu hình phạt về
tội trốn thuế.
Trong Luận văn này, tác giả nghiên cứu về tội trốn thuế quy định tại BLHS
2015 nhằm làm rõ hơn cơ sở pháp lý của hành vi trốn thuế, không chỉ được mô tả
trong Luật Quản Lý th́ mà thơng qua đó cịn làm sáng tỏ một số vấn đề của Luật
hình sự Việt Nam đối với tội trốn thuế; đồng thời tác giả có đưa một số giải pháp
kiến nghị phòng chống tội phạm trong lĩnh vực th́. Theo cách tiếp cận đó, chưa
có cơng trình nào nghiên cứu về tội trốn thuế từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, trong bối
cảnh có nhiều sự thay đổi về chính sách pháp luật, nhất là sự thay đổi của BLHS
2015 quy định pháp nhân thương mại là chủ thể của tội trốn thuế.
3.
3.1.


Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu được đăt ra trong luận văn này là hệ thống hóa một số
quan điểm đối với tội trốn thuế; nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự và
thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhằm phát
4


hiện ra những điểm bất cập, chồng chéo của pháp luật và trong hoạt động xét xử,
đưa ra một số giải pháp để hạn chế các vi phạm, sai lầm trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Phân tích làm rõ khái niệm, các dấu hiệu tội phạm, cấu thành tăng nặng, thời

hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với tội trốn thuế, qua đó thấy được
những vướng mắc, tồn tại để có kiến nghị, giảp pháp khắc phục hồn thiện. Luận văn
cịn khái qt lịch sử hình thành của tội trốn thuế, qua đó thấy được tính kế thừa của
các quy định về tội trốn thuế trong pháp luật hình sự Việt Nam;
-

Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trốn thuế tại Đồng Nai,

kết hợp phân tích, chỉ ra những sai lầm, hạn chế trong áp dụng pháp luật hình sự;
-

Đề xuất các giải pháp hoàn thiện một số quy định của pháp luật về tội trốn


thuế và các giải pháp bảo đảm cho công tác xét xử tội trốn thuế đúng pháp luật,
phù hợp với thực tiễn tại Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Là các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội trốn thuế và thực
tiễn xét xử tội trốn thuế tại Đồng Nai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu trong đề tài này được tiếp cận dưới góc độ pháp luât
hình sự và thực trạng trốn thuế cũng như việc xét xử trên địa bàn tỉnh Đồng Nai từ
năm 2015 đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận: Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận duy
vật lịch sử và duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về vấn đề tội phạm và
hệ thống quan điểm của Đảng, Nhà nước trong đấu tranh phòng chống tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả sử
dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp đối chiếu so sánh; phương pháp thống kê, phương
pháp định lượng và định tính…, các phương pháp này được vận dụng
5


đan xen nhằm đưa ra kết quả nghiên cứu có tính khả thi cả về lý luận và thực tiễn.
6.

Ý nghĩa của luận văn

6.1. Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội trốn
thuế, lược sử quá trình xây dựng pháp luật hình sự về tội trốn th́; đồng thời góp
phần hồn thiện các quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội trốn thuế. Luận

văn này có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong đào tạo và nghiên cứu khoa
học luật hình sự và trong lĩnh vực Quản lý thuế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: qua phân tích lý luận, thực tiễn xét xử tội trốn thuế
tại Đồng Nai, và đề xuất các giải pháp cụ thể trong luận văn sẽ góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm về thuế. Luận văn này có thể
được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu cho các đơn vị phòng chống tội phạm về
thuế trên địa bàn tỉnh Đồng Nai và ở một số địa phương khác.
7. Cơ cấu của luận văn
Trong Luận văn, ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục các tài liệu
tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung và lịch sử về tội trốn thuế theo
luật hình sự Việt Nam
Chương 2. Quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tội trốn thuế và
thực tiễn áp dụng tội trốn thuế tại tỉnh Đồng Nai
Chương 3. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về tội trốn thuế

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VÀ LỊCH SỬ VỀ TỘI TRỐN THUẾ
THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu của tội trốn thuế
1.1.1. Khái niệm tội trốn thuế
Thuế là một khoản thu bắt buộc dưới hình thái giá trị, mang tính cưỡng chế
mà tổ chức, hộ gia đình, cá nhân phải nộp cho Nhà nước khi có đủ điều kiện theo
luật định. Tính bắt buộc đó thể hiện nghĩa vụ chuyển giao tài sản của người nộp
th́ cho nhà nước khơng có sự thỏa thuận. Như vậy, bản chất của thuế là sự
cưỡng chế một phần thu nhập của người nộp thuế vào NSNN bằng pháp luật, nó

phản ánh mối quan hệ phân phối của cải giữa nhà nước với người nộp thuế [36,
tr.10].

Dưới góc độ kinh tế thì giữa quyền thu thuế của nhà nước và nghĩa vụ đóng
th́ của người kinh doanh ln có sự xung đột lợi ích. Lợi ích kinh tế là mục đích
chính thúc đẩy người nộp thuế thực hiện hành vi trốn thuế để tối đa hóa thu nhập
của mình. Trốn th́ có ngun nhân từ mâu thuẫn lợi ích, thực tế đã chứng minh
trốn thuế và phòng, chống trốn thuế cùng tồn tại như hai mặt của một vấn đề.
Dưới góc độ nghiên cứu khoa học luật hình sự, về lý thuyết hiện nay có
nhiều quan niệm về trốn thuế, chẳng hạn có một số quan điểm cho rằng:
Trốn thuế là không nộp thuế cho Nhà nước theo quy định của pháp luật [18, tr. 185].

Trốn thuế là hành vi dùng thủ đoạn gian dối để khơng phải đóng th́ hoặc
đóng th́ ít hơn mức th́ phải nộp [5, tr. 119].
Trốn thuế là hình thức của người nộp thuế thực hiện hành vi bất hợp pháp
để không phải thực hiện nghĩa vụ thuế theo luật định [1, tr.17].
Còn theo từ điển luật học thì: “Hành vi trốn thuế được hiểu là (hành vi xâm
phạm đến chính sách thuế của Nhà nước thông qua việc chủ thể) không hành động
hoặc hành động không đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế” [3, tr.815].
Dưới góc độ của pháp luật thực định, BLHS khơng có định nghĩa về tội trốn
thuế, và ngay trong Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 là một đạo luật chuyên
ngành cũng khơng có định nghĩa về trốn th́ mà chỉ tiếp cận theo phương pháp
7


mô tả liệt kê các hành vi trốn thuế như quy định tại Điều 143 nếu người nộp thuế
thực hiện các hành vi đó thì được xem là trốn thuế [22, Điều 143].
Theo các quan điểm trên, mặc dù có cách diễn đạt khác nhau nhưng đều có
điểm chung, và có thể tóm tắt như sau: Trốn thuế là hành vi vi phạm pháp luật do
người nộp thuế thực hiện một cách có lỗi, hậu quả của hành vi trốn thuế làm thất

thu NSNN. Tội trốn thuế cũng như tội phạm nói chung phải thỏa mãn các dấu hiệu
của tội phạm: về phương diện khách quan tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã
hội, về phương diện chủ quan tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS
thực hiện một cách có lỗi, về phương diện pháp lý tội phạm là hành vi trái pháp
luật hình sự và phải chịu hình phạt [14, tr.106].
Pháp luật hình sự hiện hành định nghĩa tội phạm như sau: Tội phạm là hành
vi

nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có
năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà
theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự

[21, tr.13] .

Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa về tội trốn thuế như sau: Trốn
thuế là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, gây thất thu ngân sách
nhà nước và phải bị xử lý theo quy định của Bộ luật hình sự.
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội trốn thuế
Tội trốn thuế là một loại tội phạm cụ thể nên có nội dung biểu hiện riêng,
nhưng trong các tội phạm cụ thể chúng đều có những biểu hiện giống nhau.
Những biểu hiện giống nhau đó được coi là những dấu hiệu chung có tính đặc
trưng cho các tội phạm nhất định và khi quy định về tội phạm phải sử dụng các
dấu hiệu này để mô tả tội phạm; trong khoa học luật hình sự việc mơ tả đó được

8


gọi là cấu thành tội phạm. Những dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã trở thành
căn cứ để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hộị là tội phạm, là cơ sở pháp lý
để truy cứu TNHS người thực hiện tội phạm; theo pháp luật hình sự Việt Nam để
truy cứu TNHS và thừa nhận một người hoặc pháp nhân thương mại là có lỗi thì
cần phải xác định hành vi do người đó hoặc pháp nhân thương mại đó thực hiện
thỏa mãn cấu thành tội phạm nhất định.
Theo đó, cấu thành tội phạm là hệ thống các dấu hiệu khách quan và chủ
quan được quy định trong pháp luật hình sự đặc trưng cho hành vi nguy hiểm cho
xã hội là tội phạm. Cấu thành tội phạm là một hệ thống các dấu hiệu đặc trưng cho
khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm [14, tr.123]
Theo lý luận về luật hình sự Việt Nam, tội phạm là một thể thống nhất giữa
các yếu tố khách quan và chủ quan, bao gồm: khách thể của tội phạm, mặt khách
quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm.
Các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội trốn thuế, bao gồm:
1.1.2.1. Khách thể của tội trốn thuế
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ
và bị tội phạm xâm hại. Bất cứ tội phạm nào cũng đều gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho một hoặc một số khách thể nhất định, việc gây ra thiệt hại cho
một hoặc một số khách thể đã quy định trong BLHS được gọi là hậu quả; hành vi
phạm tội và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra có mối liên hệ nhân quả; khơng có
khách thể bị xâm hại thì khơng thể có tội phạm, do vậy khách thể của tội phạm là
yếu tố bắt buộc của tội phạm [14, tr.131] .
Lý luận luật hình sự Việt Nam chia khách thể của tội phạm thành ba loại:
khách thể chung, khách thể loại và khách thể trực tiếp.
Khách thể chung của tội phạm là các quan hệ xã hội được quy định tại Điều
8


Bộ luật hình sự, thông qua khách thể chung cho ta thấy được phạm vi của
các quan hệ xã hội được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự và cho ta
hiểu được chính sách hình sự của nhà nước.
Tội trốn thuế được các nhà làm luật xếp trong nhóm tội xâm hại đến trật tự

quản lý kinh tế quy định tại Chương XVIII của BLHS có tên gọi chung là Các tội
9


xâm phạm trật tự quản lý kinh tế [21, tr.144]. Dấu hiệu chung của nhóm tội này là
xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, đây là nhóm quan hệ xã hội cùng loại có
mối liên hệ tác động qua lại hình thành nên trật tự quản lý kinh tế của nhà nước,
do vậy tội trốn thuế có khách thể loại là trật tự quản lý kinh tế của nhà nước trong
lĩnh thuế.
Từng tội phạm trong số các tội phạm được nhóm thành một loại có khách
thể loại giống nhau bao giờ cũng có khách thể loại trực tiếp, khách thể trực tiếp
của tội phạm là những quan hệ xã hội cụ thể được một quy phạm pháp luật hình sự
bảo vệ và bị một tội phạm trực tiếp xâm hại. [39, tr.147]
Như vậy, khách thể trực tiếp của tội trốn thuế xâm hại chính sách thuế và lợi
ích của nhà nước.
Đối tượng tác động của tội trốn thuế là tiền thuế mà người phạm tội có nghĩa
vụ nộp NSNN theo luật định. Thuế bao gồm các loại thuế phải nộp với tính chất là
một nghĩa vụ bắt buộc như: thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế giá trị gia tăng …;

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội trốn thuế
Hành vi của con người trong thế giới khách quan ln có các dấu hiệu ở bên
ngoài và các dấu hiệu ẩn chứa bên trong, tội phạm là hành vi (nguy hiểm) của con
người nên cũng chứa đựng dấu hiệu bên ngoài và dấu bên trong. Những dấu hiệu
bên ngoài của hành vi nguy hiểm cho xã hội cấu thành mặt khách quan bao gồm:
hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối

quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả; các điều kiện bên ngồi gắn liền với
hành vi phạm tội (cơng cụ, phương tiện, thủ đoạn, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội).
Như vậy, mặt khách quan của tội phạm được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm,
bao gồm các biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan [14, tr.158].
Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là dấu hiệu
được phản ánh trong tất cả cấu thành tội phạm cơ bản, còn nội dung biểu hiện
khác có thể được phản ánh trong cấu thành tội pham cơ bản hoặc cấu thành tội
phạm tăng nặng. Hành vi khách quan của tội trốn thuế là không thực hiện nghĩa vụ
thuế đúng theo quy định, để trốn thuế người nộp thuế dùng các thủ đoạn gian
10


dối khác nhau nhằm mục đích khơng phải đóng th́ hoặc đóng th́ ít hơn mức
th́ phải đóng như: khơng kê khai, kê khai gian dối, sử dụng hóa đơn chứng từ
không hợp pháp, làm sai lệch hồ sơ sổ sách kế toán…, hậu quả của hành vi trốn
thuế làm thất thu NSNN. Hành vi khách quan của tội trốn thuế được mô tả chi tiết
tại khoản 1 Điều 200 BLHS.
Trong tội trốn thuế, hành vi phạm tội cũng được thể hiện dưới hai hình thức
hành động phạm tội (ví dụ: sử dụng hóa đơn, chứng từ khơng hợp pháp để hạch
tốn hàng hóa, ngun liệu đầu vào, làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng
số tiền thuế được miễn, giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, được hồn) và
khơng hành động phạm tội (ví dụ: khơng ghi chép trong sổ kế tốn các khoản thu
liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp).
Để trốn được thuế, người phạm tội thường sử dụng nhiều thủ đoạn khác
nhau để thực hiện hành vi trốn thuế, có thể là: Khơng kê khai th́; sử dụng hóa
đơn khơng hợp pháp; Bỏ ngồi sổ sách kế tóan; Thực hiện hành vi chuyển giá
không hợp pháp; Ghi giá bán trên hóa đơn thấp hơn giá thực nhận; Hạch tốn kế
toán sai quy định…;
Hành vi trốn thuế chỉ được coi là tội phạm khi nó phải thỏa mãn các dấu
hiệu được mô tả trong cấu thành cơ bản của tội trốn thuế. Có thể nhận thấy rằng,

trong cấu thành cơ bản của tội trốn th́, ngồi việc mơ tả liệt kê chi tiết các hành
vi

khách quan của tội phạm, trong cấu thành cơ bản còn quy định những dấu
hiệu bắt buộc khác mang tính định lượng như số tiền trốn thuế phải từ 100
triệu đồng trở lên, nếu số tiền trốn thuế dưới 100 triệu đồng thì cần phải
kèm theo một số dấu hiệu khác, như đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi trốn th́ mà cịn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một
số tội quy định trong BLHS chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.
Chúng ta cần lưu ý, để được coi là xóa án tích và cách tính thời hạn xóa án

tích, cịn tùy thuộc vào hình phạt chính đã tuyên, mà cụ thể là căn cứ vào các Điều
69 đến Điều 73 BLHS.
Nếu như tội trốn thuế quy định tại Điều 161 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ
sung năm 2009 [19, Điều 161] chỉ nêu hành vi khách quan cùng với các điều kiện
11


bắt buộc để hành vi đó cấu thành tội trốn thuế, thì đến BLHS 2015 các nhà làm
luật đã mô tả, liệt kê chi tiết những hành vi vi phạm là dấu hiệu khách quan của tội
trốn thuế ngay trong cấu thành cơ bản của tội trốn thuế, các hành vi này tương
đồng với các hành vi trốn thuế quy định tại điều 108 Luật quản lý thuế năm 2006
[23, Điều 108] nay là Điều 143 Luật quản lý thuế năm 2019 [22, Điều 143]. Điều này

cho thấy đã có sự đồng nhất về quan điểm giữa luật chuyên ngành với BLHS. Việc
quy định chi tiết hành vi khách quan được coi là trốn thuế ngay trong BLHS
không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử, mà còn tạo
thuận lợi cho việc tìm hiểu, nghiên cứu, giảng dạy pháp luật hình sự.
Về hậu quả của tội trốn thuế
Hậu quả của tội phạm là những thiệt hại (sự thay đổi nguy hiểm) do hành vi

phạm tội gây ra cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ [14, tr.168].
Theo quan điểm đó, hậu quả của tội trốn thuế gây ra có thể là các thiệt hại
về vật chất hoặc phi vật chất, và có thể chia ra: Hậu quả trực tiếp của tội trốn thuế
là làm thiệt hại NSNN, có nghĩa là nhà nước không thu được đủ số tiền thuế mà lẽ
ra phải thu. Hậu quả gián tiếp của tội trốn thuế làm ảnh hưởng đến việc đầu tư
phát triển kinh tế xã hội, giáo dục, y tế …, và các lợi ích cơng cộng khác, nó cịn
gây ra bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế, làm sai lệch các quan hệ kinh tế, làm chậm
quá trình đổi mới phát triển của đất nước.
1.1.2.3. Chủ thể của tội trốn thuế
Chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố bắt buộc của cấu thành tội
phạm, khơng có chủ thể phạm tội thì khơng có tội phạm trong thực tế khách quan.
Pháp luật hình sự Việt Nam không trực tiếp sử dụng khái niệm Chủ thể của tội
phạm mà thể hiện khái niệm đó thơng qua các điều luật của BLHS như: người nào
phạm một tội, người phạm tội, PNTM nào phạm một tội.
Theo pháp luật hình sự truyền thống, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là cá
nhân, về nội dung này đã có nhiều quan điểm khác nhau, chẳng hạn như:
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành
vi

nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm trong tình
trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định do luật quy
định và trong
12


một số trường hợp khác có các dấu hiệu đặc biệt được chỉ ra trong điều luật tương
ứng [14, tr.180]. hoặc
Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và
đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể [15, tr.114]. hoặc
Chủ thể của tội phạm là người có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) trong việc thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự
và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường
hợp cụ thể chủ thể của tội phạm cịn có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy
phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định) [4, tr 357].
Theo các quan điểm trên, Chủ thể của tội phạm chỉ có thể là một cá nhân cụ
thể đang tồn tại, nhưng chỉ có cá nhân nào thỏa mãn các dấu hiệu nhất định do
pháp luật hình sự quy định mới trở thành chủ thể của tội phạm. Về mặt lý luân,
điều kiện để trở thành chủ thể của tội phạm phải thỏa mãn hai dấu hiệu “có năng
lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS”, trong một số trường hợp nhất định cần phải có
thêm dấu hiệu đặc biệt được chỉ ra trong điều luật tương ứng mới đủ điều kiện là
chủ thể của tội phạm, hay nói cách khác đó là “chủ thể đặc biệt”, ví dụ: chỉ người
có chức vụ, quyền hạn mới có thể trở thành chủ thể của tội Lập quỹ trái phép
(Điều 205 BLHS). Tuy có những cách diễn đạt khác nhau, nhưng các tác giả đều
có quan điểm chung về chủ thể của tội phạm: Chủ thể của tội phạm là cá nhân và
chỉ khi họ có đủ các dấu hiệu, điều kiện do pháp luật hình sự quy định thì mới trở
thành chủ thể của tội phạm.
Trong những năm gần đây có nhiều quan điểm cho rằng, khơng chỉ có cá
nhân mới là chủ thể của tội phạm mà pháp nhân cũng có thể là chủ thể của tội
phạm, pháp nhân là chủ thể của tội phạm chỉ khi pháp nhân đó thỏa mãn các yêu
cầu của luật hình sự trong việc tham gia vào quan hệ pháp luật hình sự, điều đó có
nghĩa là khơng phải mọi pháp nhân đều có thể trở thành chủ thể của tội phạm mà
chỉ có PNTM thỏa mãn các điều kiện về hình thức tổ chức và điều kiện chịu trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
do BLHS quy định mới là chủ thể của tội phạm.
Qua đó, có thể định nghĩa chủ thể của tội phạm như sau: Chủ thể của tội
13


phạm là cá nhân có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định (trong một
số trường hợp phải thỏa mãn các dấu hiệu đặc biệt khác) hoặc là pháp nhân

thương mại thỏa mãn các dấu hiệu về hình thức và điều kiện chịu trách nhiệm
hình sự đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình
sự quy định là tội phạm và phải chịu hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự.
Pháp luật hình sự hiện hành (BLHS) đã có những thay đổi căn bản, mở rộng
chủ thể của tội phạm, đó là một bước tiến dài trong quá trình lập pháp, và cũng là
để đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi từ thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm
trong tình hình mới và tiến trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự.
Trong đó bổ sung quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại
phạm tội nói chung và phạm tội trốn thuế nói riêng phải chịu trách nhiệm hình sự
và hình phạt theo các quy định của BLHS.
Về chủ thể là cá nhân của tội trốn thuế:
Theo pháp luật hình sự, chủ thể của tội phạm nói chung và của tội trốn thuế
nói riêng phải là người có NLTNHS, đạt độ tuổi luật định, đã thực hiện hành vi
phạm tội một cách có lỗi. Như vậy, để cá nhân trở thành chủ thể của tội trốn thuế
cần phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau: Có NLTNHS; Đạt độ tuổi từ đủ 16
tuổi trở lên; Đã thực hiện hành vi trốn thuế. Nói cách khác, trước hết họ phải biết
hành vi trốn thuế là nguy hiểm cho xã hội một cách có ý thức, họ phải là người từ
đủ 16 tuổi trở lên, sau đó họ phải là người có nghĩa vụ nộp thuế và có hành vi trốn
thuế được mô tả trong cấu thành tội trốn thuế.
Tóm lại, chủ thể là cá nhân của tội trốn thuế là bất kỳ ai có đủ điều kiện
chung về chủ thể của tội phạm và theo pháp luật thuế họ phải có nghĩa vụ đóng
thuế cho nhà nước.
Về chủ thể là pháp nhân của tội trốn thuế:
Lần đầu tiên luật hình sự Việt Nam đã được ghi nhận cơ sở trách nhiệm
hình sự của PNTM, đây là cơ sở nền tảng, là tiền đề để các nhà làm luật xác định
những vấn đề khác có liên quan đến TNHS đối với PNTM trong BLHS. Theo đó,
PNTM chỉ phải chịu TNHS khi có đủ các điều kiện sau: Hành vi phạm tội được
thực hiện nhân danh PNTM; Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của
14



PNTM; Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp
thuận của PNTM; Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS theo quy định của BLHS.
Luật hình sự Việt Nam coi “hành vi” là cơ sở để truy cứu TNHS một chủ
thể nào đó phạm một tội đã được BLHS quy định. Chúng ta biết rằng PNTM
không phải là con người với tư cách như một thực thể tự nhiên, do vậy PNTM
khơng thể có hành vi xử sự như một con người; xét dưới góc độ xã hội PNTM là
một thực thể pháp lý, thông qua các hoạt động của mình, hành vi của PNTM đươc
thể hiện bằng những hành vi cụ thể của những người thuộc PNTM hoặc người đại
diện của PNTM đó; hành vi của những người này khơng theo ý chí của riêng họ
mà theo ý chí của PNTM, vì lợi ích của PNTM và nhân danh PNTM. Trong
trường hợp này, học thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm đã được các nhà lập pháp
Việt Nam vận dụng làm cơ sở cho việc truy cứu TNHS đối với PNTM. Do vậy
những quy định về PNTM phạm tội và phải chịu TNHS là ở nội dung ý nghĩa của
quy định pháp lý này.
Tuy rằng nhà nước thừa nhận xác lập chủ thể của tội phạm là PNTM, nhưng
trong BLHS khơng có khái niệm về PNTM, có lẽ đây là một thiếu sót cần được bổ
sung trong thời gian tới. Vì vậy chúng ta chỉ có thể tham chiếu đến các quy định
của BLDS để xác định về tư cách pháp lý của PNTM.
Theo 75 BLDS năm 2015 pháp nhân thương mại được hiểu như sau: Pháp
nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi
nhuận đó được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh
nghiệp và các tổ chức kinh tế khác [25, Điều 75].
Theo Điều 74 BLDS 2015 thì, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế được coi
là có tư cách pháp nhân khi có đủ các điều kiện: Được thành lập theo quy định của
Bộ luật này và luật khác có liên quan; Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83
BLDS 2015; Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng chính tài sản của mình; Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật
một cách độc lập [25, Điều 74].
Theo quy định của pháp luật hình sự hiện hành thì PNTM chỉ phải chịu

TNHS đối với một số tội danh thuộc các nhóm tội phạm về trật tự quản lý kinh tế;
15


nhóm các tội phạm về mơi trường; nhóm các tội phạm về an tồn cơng cộng, trật
tự cơng cộng, điều này cho thấy đã có một sự thận trọng nhất định của nhà làm
luật khi quy định TNHS đối với PNTM bởi đây là một vấn đề mới trong luật hình
sự Việt Nam.
Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại:
Theo quy định của pháp luật hình sự thì năng lực TNHS chỉ được đặt ra cho
cá nhân, không quy định năng lực TNHS đối với PNTM; quy định này có phần
mâu thuẫn với quy định về điều kiện chịu TNHS của PNTM. Bộ luật hình sự quy
định về điều kiện chịu TNHS của PNTM như sau:
Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại: Theo
BLDS và Luật Doanh nghiệp [26] thì những người sau đây có thể xác lập và thực
hiên các hành vi trên danh nghĩa của pháp nhân: Người đại diên theo pháp luật
hoặc người đại diện ủy quyền theo điều lệ của pháp nhân, người lãnh đạo, quản lý,
điều hành pháp nhân, người được giao một số nhiệm vụ theo quy định của pháp
nhân. Điều kiện này phản ánh mối liên hệ giữa PNTM với hành vi phạm tội do cá
nhân thực hiện; đây là căn cứ để buộc PNTM phải chịu TNHS về hành vi phạm tội
của các cá nhân; nếu cá nhân thuộc PNTM thực hiện hành vi phạm tội nhân danh
cá nhân mình thì PNTM đó không phải chịu TNHS.
Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của PNTM: Điều kiện thứ hai
này phản ánh mối liên hệ giữa PNTM với tội phạm được thực hiện bởi cá nhân
nhân danh pháp nhân; là căn cứ để buộc PNTM phải chịu TNHS. Bởi vì mục đích
phạm tội phải mang lại lợi ích (bao gồm lợi ích vật chất hoặc phi vật chất) duy
nhất cho PNTM. Nếu thực hiện hành vi phạm tội trên danh nghĩa của PNTM
nhưng mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc nhóm cá nhân thì PNTM khơng phải chịu
TNHS.
Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận

của PNTM: Điều kiện này phản ánh mối liên hệ giữa PNTM với cá nhân thực hiện
tội phạm và với hành vi phạm tội đã thực hiện, đây là căn cứ để buộc PNTM phải
chịu TNHS. Điều kiện này phản ánh dấu hiệu “lỗi” của PNTM thông qua ý thức
của người đại diện pháp nhân, người lãnh đạo, quản lý, điều hành pháp nhân đã cố
16


ý

chỉ đạo điều hành hoặc chấp thuận để cá nhân thực hiện tội phạm. Vậy,
PNTM phải chịu TNHS khi người đại diên pháp nhân, người lãnh đạo, quản
lý, điều hành pháp của PNTM ý thức được hành vi của người chấp hành
mệnh lệnh là trái pháp luật nhưng vẫn chỉ đạo hoặc chấp thuận cho cá nhân
đó thực hiện tội phạm nhằm phục vụ cho lợi ích của PNTM.
Chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS quy định của BLHS: theo điều kiện này,

thời hiệu truy cứu TNHS là thời hạn do BLHS quy định, khi hết thời hạn đó chủ
thể phạm tội khơng bị truy cứu TNHS.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng thấy rằng BLHS có quy định nguyên tắc không
loại trừ TNHS của cá nhân khi xử lý TNHS của PNTM. Điều này có nghĩa là
TNHS của PNTM khơng thay thế, loại bỏ hoặc làm ảnh hưởng đến việc truy cứu
TNHS đối với cá nhân, mà cá nhân đó phải cùng chịu TNHS với PNTM về tội
phạm đã gây ra.
1.1.2.4. Mặt chủ quan của tội trốn thuế
Về mặt lý luận, thì: Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và
chủ quan; nếu mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội
phạm, thì mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người
phạm tội liên quan đến việc thực hiện tội phạm. Với tư cách là một mặt của hiện
tượng thống nhất – tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm không tồn tại một cách
độc lập mà luôn gắn liền với mặt khách quan của tội phạm. Hoạt động tâm lí bên

trong của người phạm tội ln gắn liền với biểu hiện bên ngồi của tội phạm.
Như vậy, mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm tội, là
thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ
thực hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng
gây ra hậu quả đó. Nội dung của mặt chủ quan của tội phạm đươc thể hiện thông
qua các dấu hiệu pháp lý: Lỗi, động cơ, mục đích [14, tr.197].
Dấu hiệu lỗi cho biết thái độ tâm lý của người phạm tội đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra như thế nào; Dấu hiệu động
cơ lý giải điều gì thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội; Dấu hiệu mục đích chỉ rõ thông qua việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
17


xã hội, người phạm tội nhằm đạt được điều gì. Lỗi là dấu hiệu bắt buộc đối với
mọi tội phạm; động cơ và mục đích khơng phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi
tội phạm (trong một số trường hợp động cơ và mục đích là dấu hiệu định tội của
một số CTTP, trong một số trường hợp khác động cơ và mục đích là dấu hiệu của
CTTP tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) [14, tr.198].
Theo lý luận trên thì, mặt chủ quan của tội trốn thuế là hoạt động tâm lý bên
trong của người hoăc PNTM phạm tội trốn thuế quy định tại Điều 200 BLHS
2015. Thể hiện thông qua các dấu hiệu sau:
- Lỗi cuả người hoặc PNTM phạm tội trốn thuế là lỗi cố ý trực tiếp.
Vì người/PNTM nhận thức rõ hành vi trốn thuế là nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi và trái pháp luật, làm thất thu NSNN và mong muốn thúc đẩy việc thực hiện
hành vi trốn thuế sảy ra, để không phải nộp thuế hoặc nộp thuế ít hơn. Đối với tội
trốn thuế lỗi là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội trốn thuế.
-

Động cơ, mục đích của người hoặc PNTM phạm tội là vụ lợi, bởi người


nộp thuế cho rằng càng nộp th́ ít thì càng có lợi nhiều hơn. Động cơ, mục đích
khơng là dấu hiệu bắt buộc trong CTTP tội trốn thuế.
1.2. Các cấu thành tăng nặng của tội trốn thuế
Cấu thành tội phạm tăng nặng là cấu thành tội phạm mà ngồi dấu hiệu định
tội cịn có thêm dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ của tính nguy hiểm cho xã
hội tăng lên đáng kể (so với bình thường). Ví dụ: cấu thành tội phạm ở khoản 2
Điều 200 BLHS là cấu thành tăng nặng của tội trốn thuế, bởi nó có thêm các dấu
hiệu như có tổ chức, lợi dụng chức vụ quyền hạn…, như vậy các dấu hiệu này sẽ
làm gia tăng một cách đáng kể tính nguy hiểm cho xã hội so với bình thường. Mỗi
loại tội phạm có một cấu thành cơ bản và có thể có một hoặc một số cấu thành
tăng nặng. Những dấu hiệu có thêm trong cấu thành tội phạm tăng nặng so với cấu
thành cơ bản được gọi là những dấu hiệu định khung tăng nặng [36, tr.70-71].
Như vậy, Cấu thành tội phạm tăng nặng của tội trốn thuế là tổng hợp các
dấu hiệu của cấu thành tội phạm cơ bản được nêu tại khoản 1 và các dấu hiệu định
khung tăng nặng nêu tại các khoản 2, 3, 4 và 5 của tội trốn thuế. CTTP tăng nặng
được áp dụng đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân và pháp nhân thương mại.
18


1.2.1. Các tình tiết định khung tăng nặng đối với cá nhân trốn thuế
Các tình tiết định khung tăng nặng TNHS có thể làm tăng mức độ nghiêm
trọng của các hành vi phạm tội và theo đó khi cá nhân phạm tội sẽ phải chịu hình
phạt nặng hơn trong một khung hình phạt cụ thể của Điều luật đó. Tội trốn thuế có
02 cấu thành tăng nặng đối với cá nhân phạm tội:
Thứ nhất, phạm tội thuộc các trường hợp: Có tổ chức; Số tiền trốn thuế từ ba
trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Phạm tội 02 lần
trở lên; Tái phạm nguy hiểm. Có thể tìm hiểu, làm rõ những tình tiết này, như sau:

Về tình tiết phạm tội có tổ chức: Theo quy định của BLHS thì, phạm tội có
tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng

thực hiện tội phạm. Người đồng phạm bao gồm người tổ chức, người thực hành,
người xúi giục, người giúp sức. Theo Điều luật thì, phải có ít nhất từ hai người trở
lên cùng cố ý thực hiện phạm tội; trong đó, người tổ chức là kẻ chủ mưu, cầm đầu,
lên kế hoạch chỉ huy việc thực hiện tội phạm; người thực hành là người trực tiếp
thực hiện tội phạm; người xúi giục là người kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác
thực hiện tội phạm; người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất
cho việc thực hiện tội phạm. Người đồng phạm không phải chịu TNHS về hành vi
vượt quá của người thực hành [21, tr.17-18].
Về số tiền trốn thuế từ ba trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng: Tình tiết
này xác định số tiền cụ thể làm căn cứ quyết định hình phạt, chỉ cần người phạm
tội trốn thuế với số tiền từ ba trăm triệu đến dưới một tỷ đồng là thuộc tình tiết
định khung tăng nặng. Người phạm tội cịn có thể chịu thêm một hoặc một số hình
phạt bổ sung theo quy định tại điều luật đó.
Về tình tiết lợi dụng chức vụ, quyền hạn: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn là
trường hợp người phạm tội đã sử dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện
phạm tội, tình tiết định khung này cho thấy, chủ thể của tội trốn thuế có thể là chủ
thể đặc biệt. Pháp luật hình sự quy định áp dụng hình phạt nghiêm khắc hơn đối
với người lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.
Về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên: Đây là quy định mới của BLHS so với
BLHS 1999 nó xác định và lượng hóa cụ thể hơn trong trường hợp phạm tội nhiều
19


×