Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.79 KB, 9 trang )

JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE
Social Sci., 2016, Vol. 61, No. 2A, pp. 87-95
This paper is available online at

DOI: 10.18173/2354-1067.2016-0035

XU HƯỚNG PHÂN TẦNG XÃ HỘI VÀ LUẬN BÀN VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
HỢP THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tô Phương Oanh
Khoa Công tác Xã hội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tóm tắt. Trong q trình thực hiện đường lối đổi mới đất nước và phát triển kinh tế thị
trường, phân tầng xã hội (PTXH) nổi lên như một vấn đề thời sự cấp bách. Có thể nhận
thấy rất rõ sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các
tầng lớp dân cư tăng nhanh; khoảng cách chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng
lớp nhân dân, giữa các vùng miền có xu hướng ngày một nới rộng. Phân tầng xã hội và
phân hóa giàu nghèo đã trở thành những vấn đề nổi cộm mà ai cũng cảm nhận được. Tuy
nhiên phân tầng xã hội có phải là bất cơng bằng xã hội hay khơng? Phân tầng xã hội có
hồn tồn xấu và tiêu cực hay khơng? PTXH có ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, sự bất
ổn xã hội để phải ngăn chặn, khống chế, kiểm soát, giảm thiểu tác hại cũng như thu hẹp
phạm vi tác động? Ở bài viết này, tác giả sẽ nghiên cứu góc nhìn khác từ sự phân tách khái
niệm PTXH và luận bàn về phân tầng hợp thức hướng tới công bằng xã hội ở nước ta hiện
nay.
Từ khóa: Phân tầng xã hội (PTXH), phân tầng xã hội hợp thức, phân tầng xã hội không
hợp thức, cơng bằng xã hội, phân hóa giàu nghèo.

1.

Mở đầu

Phân tầng xã hội cùng với cấu trúc xã hội là chủ đề nghiên cứu cơ bản của xã hội học. Nhiều
nhà khoa học xã hội lớn trên thế giới đã đưa ra các quan niệm khác nhau về bản chất, nguyên nhân


và xu hướng của sự phân tầng xã hội (PTXH).
Karl Marx coi bản chất của PTXH là bất bình đẳng xã hội do cấu trúc xã hội giai cấp gây
ra. Giai cấp thống trị về mặt kinh tế đồng thời là giai cấp chiếm vị thế cao và thống trị các giai cấp
khác về mặt chính trị, tinh thần. Giai cấp bị trị về mặt kinh tế đồng thời nằm ở những tầng lớp dưới
của cơ cấu PTXH. Học thuyết của Marx về cấu trúc xã hội giai cấp cũng chỉ rõ rằng trong xã hội
có sự phân chia giai cấp, sự PTXH diễn ra dưới hình thức bất bình đẳng xã hội sâu sắc với hình
dạng chóp nón, tức là đa số dân cư trong xã hội nằm ở tầng đáy của hình tháp và một bộ phận nhỏ
thiểu số giai cấp thống trị nằm ở tầng đỉnh chóp của tháp.
Các nhà khoa học sau Marx đã tiếp tục nghiên cứu sự PTXH và chỉ ra nhiều chiều cạnh của
mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và xã hội của nó. PTXH ln có quan hệ với phân hóa giàu
Ngày nhận bài:1/2/2016. Ngày nhận đăng:1/5/2016.
Liên hệ: Tơ Phương Oanh, e-mail:

87


Tơ Phương Oanh

nghèo trong xã hội: những người giàu có trong xã hội ln có xu hướng chiếm giữ những tầng cao
trong tháp PTXH. Những người lao động làm các công việc đơn giản, thô sơ hay thiếu việc làm
hoặc thất nghiệp thường có thu nhập thấp và do vậy thường bị rơi xuống tầng lớp đáy của xã hội.
Sự phân hóa giàu nghèo và PTXH ở Việt Nam cũng diễn ra theo xu hướng chung của lịch
sử xã hội lồi người trong đó sự phân hóa giàu nghèo ln gắn với PTXH. Các điều kiện kinh tế
ln đóng vai trò quy định vị thế và vai trò xã hội của các cá nhân, gia đình trong cơ cấu PTXH.
Những người giàu có thường chiếm lĩnh vị trí thuộc tầng lớp trên và những người nghèo đói bị rơi
xuống tầng lớp dưới. Ở Việt Nam vấn đề PTXH được đề cập và nghiên cứu trong thời gian không
lâu nhưng đã có nhiều nhà xã hội học quan tâm, nghiên cứu và có nhiều cơng trình sâu sắc về vấn
đề này.
Cơng trình nghiên cứu sớm nhất về cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là đề tài nghiên cứu
đã được công bố vào đầu những năm 1990. Các nghiên cứu này đã xuất phát từ quan điểm của chủ

nghĩa Mác-Lênin để nhấn mạnh vai trò quyết định của phương thức sản xuất và trao đổi đối với cơ
cấu xã hội ở Việt Nam. Công cuộc đổi mới kinh tế đã thúc đẩy sự biến đổi mới cơ cấu xã hội và
đặt ra yêu cầu nghiên cứu về thành phần và cơ cấu xã hội đang đổi mới ở Việt Nam. Tài liệu [4]
đã chỉ ra tác động về KT-XH trong công cuộc đổi mới và được phản ánh trước hết trong việc nâng
cao mức sống. Nghiên cứu này đã chỉ ra hệ quả của PTXH theo mức sống được đo bằng các chỉ
báo về nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, thu nhập và chi tiêu hàng tháng. Tác giả chỉ ra rằng, phát triển
kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến phân hoá, phân cực giàu nghèo song phản ứng của người dân Hà
Nội trước hiện tượng này là khá bình tĩnh, tuy vẫn có sự phản ứng khác nhau giữa người giàu và
người nghèo, nhóm nghề nghiệp, nhóm cán bộ về hưu, nhóm người già,. . . Kết quả cũng cho thấy,
chiều hướng và mức độ PTXH ngày một gia tăng. Nghiên cứu này đã xây dựng bốn chỉ báo khách
quan như điều kiện nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chi tiêu, thu nhập và một chỉ báo chủ quan là sự tự
đánh giá mức sống để đánh giá sự phân tầng xã hội và khoảng cách giàu nghèo của người dân ở
Hà Nội; [5] trình bày những quan điểm tranh luận của các tác giả như: Marx, Max Weber, Celia
S. heller, Wesley Sharrock, Auguste Comte, Emile Durkheim,. . . Ngồi ra tác giả cịn trình bày
một số khuynh hướng, trường phái lí thuyết đương đại về PTXH như của Talcott Parson, Pierre
Bourdieu. Trên cơ sở vận dụng những lí thuyết hạt nhân hợp lí trong lí thuyết về PTXH của nhiều
học giả cùng với vận dụng phù hợp phương pháp luận Mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và nét đặc
thù của xã hội Việt Nam, tác giả đã mô tả thực trạng PTXH ở nước ta và khẳng định rằng PTXH là
động lực của sự phát triển xã hội, tạo ra sự đồng thuận xã hội nhằm phát huy các nhóm xã hội như:
trí thức; thanh niên; các nhà doanh nghiệp; cán bộ lãnh đạo, quản lí; những người lao động giỏi
trong sản xuất cơng, nơng, lâm nghiệp và hoạt động dịch vụ khác nhằm thúc đẩy mạnh công cuộc
CNH, HĐH đất nước; [6] đã phân tích các lí thuyết về giai cấp và phân tầng. Theo tác giả các nhà
XHH phương Tây cho rằng các giai cấp khác nhau về vốn văn hóa, mạng lưới xã hội – vốn xã hội
và ở mức độ nhất định giới cũng ảnh hưởng đến sự phân tầng. Trong khi phân tích vị trí giai cấp,
tác giả chỉ ra rằng ngồi các yếu tố đánh giá vị trí giai cấp của cá nhân khơng chỉ dưới góc độ kinh
tế học và công ăn, việc làm mà cả các nhân tố văn hóa như phong cách sống, mơ hình tiêu dùng.
Theo tác giả sự phát triển gần đây về lí luận ở phương Tây gợi ra nhiều điều đáng nắm bắt và suy
ngẫm cho XHH Việt Nam khi tìm hiều sự phân tầng đang diễn ra ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Còn trong [7] đã tập trung làm rõ lí thuyết PTXH của M.Weber cho rằng chính những quan
hệ kinh tế đã hình thành nên cơ sở của sự bất bình đẳng và tạo tiền đề, điều kiện cho sự phân chia

88


Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay

xã hội thành các giai cấp khác nhau song lại nhấn mạnh tầm quan trọng của yếu tố thị trường như
là cơ sở kinh tế cho giai cấp hơn là tài sản. Lí thuyết PTXH của Emile Durkheim quan tâm nhiều
hơn đến phân công lao động xã hội và cho rằng trong xã hội hiện đại nó làm cho CCXH đa dạng
hơn song lại phụ thuộc lẫn nhau giữa các cá nhân do yêu cầu của phân công lao động. Nhà XHH
Pháp Pierre Bourieu quan niệm các giai tầng xã hội tồn tại 3 loại vốn là vốn kinh tế, vốn chính trị
và vốn xã hội. Ba vốn này có thể chuyển hóa lẫn nhau làm đa dạng cơ cấu giai tầng xã hội; [8]
là một nghiên cứu có cách tiếp cận mới về PTXH. Từ thực tiễn xã hội đã và đang diễn ra, tác giả
đưa ra quan điểm tiếp cận: Phải dựa vào quyền kiểm soát với tư liệu sản xuất (và quyền kiểm soát
đối với các lực lượng khác) để nghiên cứu những vấn đề thuộc về PTXH. Cũng từ thực tiễn nghiên
cứu tác giả lựa chọn tiêu chuẩn phân chia các tầng lớp trong xã hội theo cách tiếp cận phổ biến đo
lường trên thế giới đó là tiêu chuẩn dựa vào địa vị kinh tế xã hội để xác định các tầng lớp trong xã
hội; [9] cho rằng sự chênh lệch giảu nghèo là quá trình tự nhiên, tất yếu của xã hội lồi người. Từ
các số liệu điều tra, tác giả phác họa bức tranh về mức thu nhập và tỉ lệ hộ nghèo trong 25 năm
thực hiện đường lối đổi mới đất nước. Thu nhập bình quân đầu người liên tục tăng, mức sống của
người dân liên tục được cải thiện qua các năm. Tỉ lệ hộ nghèo chung của cả nước đều giảm mạnh,
song sự chênh lệch giàu nghèo có xu hướng tăng lên. Trên cơ sở thực trạng sự phân hóa giàu nghèo
ở Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng, tác giả đã tổng kết và đưa ra một số xu hướng biến đổi
của PTXH, phân hóa giàu nghèo.
Người có công theo đuổi và nghiên cứu chuyên sâu về PTXH ở Việt Nam có thể kể đến [10]
cho rằng PTXH là một hiện tượng xã hội tồn tại rất lâu trong lịch sử, là một cấu trúc xã hội bất
bình đẳng, một cấu trúc thang bậc bao gồm những tầng lớp xã hội khơng ngang bằng nhau. Tác
giả phân tích khái niệm PTXH và tiến hành thao tác hóa thành hai khái niệm bộ phận là PTXH
hợp thức và PTXH không hợp thức và cho rằng ở nước ta PTXH là tất yếu có tích cực và tiêu cực.
[11] Tác giả đã chỉ ra rằng quá trình đổi mới, phát triển KTTT và hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo
ra những biến đổi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có xu hướng biến

đổi cấu trúc tầng bậc. Tác giả phân tích 4 xu hướng PTXH ở nước ta hiện nay: Một là, xu hướng
PTXH về mặt kinh tế; Hai là xu hướng PTXH về đời sống văn hóa tinh thần; Ba là xu hướng hình
thành PTXH hợp thức và mặt trái không tránh khỏi là PTXH không hợp thức; Bốn là xu hướng
hình thành tầng lớp xã hội ưu trội và nhóm xã hội yếu thế trong q trình phát triển KTXH. . .
Trong cuốn sách [12] tác giả đưa ra cơ sở để kì vọng vào cấu trúc PTXH hợp thức sẽ chiếm ưu thế
bởi con đường đổi mới của chúng ta là phát triển kinh tế thị trường, giữ vững định hướng xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do dân,
của dân, vì dân điều hành quản lí.
Những đóng góp nổi bật của các cơng trình nghiên cứu về PTXH kể trên đã phân tích cụ
thể quá trình biến đổi, phát triển về PTXH ở Việt Nam. Qua đó nghiên cứu có thể tiếp thu được cả
về mặt lí luận và các phương pháp nghiên cứu, đánh giá về PTXH ở Việt Nam hiện nay từ đó đi
sâu phân tích, làm rõ hơn, phong phú hơn để phát triển nghiên cứu này.
Nhìn nhận vấn đề như vậy để hiểu rằng khi tiếp nhận, nghiên cứu về PTXH chúng ta cần
trả lời một cách rõ ràng, trọng tâm 3 câu hỏi lớn: Thứ nhất, câu hỏi về nguồn gốc của PTXH? Vì
sao lại có hiện tượng PTXH? Thứ hai, PTXH để lại hậu quả gì cho con người? Nó là tốt hay xấu,
tiêu cực hay tích cực? Thứ ba, chúng ta cần có thái độ như thế nào đối với PTXH? Chúng ta thừa
nhận nó, cần thiết chế nó hay tìm cách xóa bỏ, mở rộng hay thu hẹp khoảng cách cũng như phạm
89


Tơ Phương Oanh

vi tác động của nó? Bình luận về điều này trước hết cần trân trọng và ghi nhận những nỗ lực to lớn
của các nhà khoa học đi trước bởi họ đã tích cực tìm kiếm, lao động sáng tạo, mang lại những kiến
giải quý giá để chúng ta học hỏi, nghiên cứu, phê phán, kế thừa và phát triển. Nếu khơng có những
kiến giải đó, sẽ khơng có chất liệu để phân tích, lí giải cho những tri thức mới. Tuy nhiên chúng
ta cần phải tiến hành bằng cách tổng tích hợp những lí giải của các lí thuyết, trả lời một cách gián
tiếp câu hỏi và tách câu hỏi lớn thành các câu hỏi nhỏ và trả lời lần lượt từng câu hỏi để thỏa đáng
vấn đề nghiên cứu.


2.

Nội dung nghiên cứu

Trước hết phải thừa nhận rằng, PTXH nảy sinh là do có sự tồn tại của hiện tượng bất bình
đẳng tức là sự khơng ngang bằng nhau giữa các thành viên trong xã hội về mặt năng lực, thể chất,
trí tuệ, điều kiện, cơ may; hai là, do có sự phân cơng lao động xã hội về mặt nghề nghiệp và những
vị thế xã hội chiếm ưu thế. Chính sự tồn tại khách quan, tự nhiên, phổ biến của hai hiện tượng xã
hội này đã ln làm nảy sinh hiện tượng PTXH. Đến lượt nó PTXH lại tác động trở lại xã hội một
cách tích cực hoặc tiêu cực. Dù muốn hay không muốn PTXH đã và đang tồn tại trên phạm vi toàn
thế giới, không trừ một quốc gia nào và lẽ dĩ nhiên Việt Nam không phải là một ngoại lệ.
Trong thời gian qua ở Việt Nam đã hình thành một số xu hướng phân hóa giàu nghèo và
PTXH như sau (dựa theo nguồn số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2012 [3]):
- Tỉ lệ nghèo của Việt Nam giảm nhanh chóng trong thời gian qua và tiếp tục giảm cùng với
mức sống của các giai tầng xã hội được cải thiện không ngừng.
- Mức chênh lệch về thu nhập, tài sản và mức chi tiêu giữa các nhóm dân cư, giữa các vùng,
miền, giữa thành thị và nông thôn có xu hướng tăng.
- Thành tựu xóa đói giảm nghèo đạt được ở nước ta thời gian qua là khá lớn, nhưng khơng
đồng đều giữa các nhóm dân cư và đang có xu hướng chậm lại.
Bảng 1. Thu nhập bình quân đầu người một tháng chia theo khu vực, vùng
Năm
2002
2004
2006
2008
2010
2012
Cả nước
356,1
484,4

636,5
995,2
1387,1
1999,8
Thành thị
622,1
815,4
1058,4
1605,2
2129,5
2989,1
Nông thôn
275,1
378,1
505,7
762,2
1070,4
1579,4
Đồng bằng sông Hồng
353,1
488,2
653,3
1048,5
1567,8
2337,1
Đông Bắc
268,8
379,9
511,2
768,0

1054,8
1482,1
Tây Bắc
197,0
265,7
372,5
549,6
740,9
998,8
Bắc Trung Bộ
235,4
371,1
418,3
641,1
902,8
1344,8
Duyên hải Nam Trung Bộ
305,8
414,9
550,7
843,3
1162,1
1698,4
Tây Nguyên
244,0
390,2
522,4
794,6
1087,9
1643,3

Đông Nam Bộ
619,7
833.0
1064.7
1649,2
2165,0
3016,4
Đồng bằng sông Cửu Long
371,3
471,1
627,6
939,9
1247,2
1796,7
(Nguồn: Tổng cục Thống kê 2012)
- Sự PTXH diễn ra trên tất cả các phương diện của đời sống từ kinh tế đến giáo dục, y tế,
văn hóa, thể thao, giải trí, chính trị. Trong đó, PTXH về mặt kinh tế (thu nhập, chi tiêu) bộc lộ khá
90


Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay

rõ và có xu hướng tăng lên. PTXH về mặt quyền lực, uy tín đã bộc lộ, song nghiên cứu nó vẫn là
một vấn đề nhạy cảm (khó tiếp cận và đa lường).
- Cơ cấu xã hội ít thành phần chuyển sang cơ cấu PTXH nhiều thành phần, nhiều tầng lớp
xã hội phong phú, đa dạng về ngành nghề theo hướng dịch vụ và thị trường. Cơ cấu xã hội nghề
nghiệp nặng về nông nghiệp đang chuyển sang cơ cấu xã hội công nghiệp – dịch vụ.
- Cùng với xu thế cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xuất hiện nhiều nghề nghiệp gắn với
khoa học công nghệ thông tin, thị trường tài chính và các loại dịch vụ xã hội.
- Cùng với xu thế phát triển kinh tế thị trường đã xuất hiện ngày càng nhiều các nhóm xã

hội “ưu trội”, tầng lớp xã hội “ưu trội”, đặc biệt là sự lớn mạnh của các tầng lớp doanh nhân. Trái
ngược với nó là sự xuất hiện của các nhóm xã hội yếu thế, tầng lớp xã hội yếu thế rất cần được xã
hội quan tâm, hỗ trợ để phát triển.
- Cơ chế phân phối có xu hướng tuân theo các quy luật thị trường như quy luật giá trị và
định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là phân phối theo nguyên tắc: Làm nhiều hưởng nhiều, làm theo
năng lực, hưởng theo lao động, có tính đến cơng bằng xã hội, bình đẳng xã hội thể hiện ở chính
sách và chương trình xóa đói giảm nghèo và các chương trình, chính sách khác nhằm hỗ trợ nhóm
xã hội yếu thế.
- PTXH ở nước ta có xu hướng ngày càng tăng, song bất bình đẳng xã hội đang cịn ở mức
trung bình so với khu vực và thế giới. Đảng và Nhà nước ta đang nỗ lực lãnh đạo và điều hành để
kết hợp thành công giữa tăng trưởng kinh tế và việc thực hiện tốt công bằng và tiến bộ xã hội.
- Việt Nam là một nước còn nghèo, nhưng nhờ công cuộc đổi mới kinh tế xã hội nên vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế đang được củng cố và tăng lên. Mặc dù khoảng cách chênh lệch
về kinh tế – xã hội của Việt Nam so với các quốc gia khác đang được rút ngắn rõ rệt, nhưng biên
độ vẫn còn lớn.
- Sự PTXH ở Việt Nam được điều tiết bởi đường lối, chính sách lãnh đạo quản lí theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhờ công cuộc đổi mới kinh tế xã hội mà trực tiếp nhất là chính sách và
chương trình xóa đói giảm nghèo, nên tỉ lệ nghèo chung và nhất là tỉ lệ nghèo lương thực ở VN đã
giảm mạnh trong thời gian qua ở tất cả các nhóm xã hội yếu thế ở thành thị, nông thôn và nhất là
đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Đồng thời các chính sách phát triển kinh tế – xã hội cũng
khuyến khích các cá nhân, gia đình làm giàu chính đáng.
Có thể thấy rằng phân hóa giàu nghèo, PTXH đã trở thành những vấn đề xã hội bức thiết
được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm, giải quyết. Tuy nhiên, điều quan trọng là chúng ta
cần phải đánh giá cho đúng thực chất bản chất của PTXH. PTXH là tốt hay xấu, là tích cực hay
tiêu cực, là cái cần thiết cho trật tự xã hội hay là cái làm phương hại đến ổn định xã hội... Để làm
được điều này chúng ta cần đi sâu tìm hiểu và tiến hành thao tác hóa khái niệm, bóc tách khái niệm
PTXH nói chung thành hai khái niệm bộ phận là PTXH hợp thức và PTXH không hợp thức.
Phân tầng xã hội hợp thức là một cấu trúc tầng bậc xã hội được hình thành trên cơ sở sự
khác biệt tự nhiên của các cá nhân về tài, đức, sự đóng góp, cống hiến thực tế của họ cho xã hội.
PTXH hợp thức phản ánh một cấu trúc vừa phù hợp với đạo lí, pháp lí và các chuẩn mực, giá trị

của xã hội trong hiện tại, vừa phù hợp với quy luật và xu hướng phát triển đi lên của văn hóa, văn
minh xã hội. PTXH hợp thức vừa phản ánh một trật tự của công bằng xã hội vừa phản ánh những
khát vọng của nhân loại tiến bộ và tất cả những ai có tư duy lành mạnh, bình thường trong xã hội.
91


Tô Phương Oanh

Bên cạnh cấu trúc PTXH hợp thức – một khuynh hướng chủ đạo hiện nay ở Việt Nam thì
cũng đồng thời tồn tại một cấu trúc PTXH khơng hợp thức đối nghịch với PTXH hợp thức. Đó
là cấu trúc xã hội được hình thành khơng phải do sự khác biệt về tài, đức, về sự cống hiến thực
tế của mỗi cá nhân, tổ chức cho xã hội mà dựa vào sự bợ đỡ, nịnh nọt, sự liên minh ma quỷ theo
lợi ích nhóm; những quy tắc chuẩn mực xã hội bị bóp méo, bị thao túng; những chính sách xã hội
thiếu đúng đắn, thiếu khoa học, lạc hậu, sơ hở, chậm đổi mới; những hành vi tham nhũng, làm ăn
phi pháp (trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái, buôn bán ma túy, ...); sự thao túng hay tha
hóa quyền lực hoặc ngay cả sự lười biếng, trông chờ, ỷ lại. Cấu trúc này nảy sinh và hình thành do
nhiều ngun nhân trong đó có sự sơ hở, lạc hậu về chính sách, bng lỏng quản lí của các cấp có
thẩm quyền, do sự gian tham, tiêu cực của một số người cũng như những quán tính xấu của quá
khứ chưa được gột rửa, lưu truyền từ xã hội trước đó để lại. Cấu trúc xã hội này chính là sự bất
cơng xã hội, ni dưỡng những bất bình, xung đột xã hội, làm phương hại đến bộ mặt nhân văn,
nhân bản xã hội. Cấu trúc này tuy không lấn át cấu trúc PTXH hợp thức song sự tàn phá của nó là
hết sức ghê gớm khơng thể chủ quan, xem nhẹ.
Với phân tích như vậy, PTXH không đơn giản chỉ được quy về cái tốt, cái tích cực như lập
luận của những người theo thuyết chức năng; nó cũng khơng chỉ được quy giản một chiếu về cái
xấu, cái tiêu cực như ý kiến của những người theo thuyết xung đột. Trên thực tế PTXH có cả mặt
tốt, mặt tích cực và mặt xấu, mặt tiêu cực. Theo đó, thì tùy ở từng loại phân tầng mà chúng ta sẽ có
những thái độ và hành vi ứng xử một cách tương ứng. Đối với bất kì một người bình thường, lành
mạnh nào thì rõ ràng với PTXH hợp thức, chúng ta cần thừa nhận nó, ủng hộ sự tồn tại của nó; hơn
thế nữa, cần phải thiết chế hóa nó, cần phải làm cho nó trở nên phổ biến, cần phải xây dựng một
xã hội trên cơ sở PTXH hợp thức. Cịn đối với PTXH khơng hợp thức, tức là một trật tự xã hội bất

công bằng, bất hợp lí, dựa trên những cơ sở tiêu cực xã hội, tham nhũng, trộm cắp, lãng phí, làm
ăn phi pháp, chúng ta cần phủ nhận nó, đấu tranh loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội.
Trả lời một cách rành mạch câu hỏi này sẽ cho phép chúng ta không đơn giản quy PTXH
vào tốt hay xấu, tích cực hay tiêu cực, từ đó đưa ra các đề xuất về các giải pháp ủng hộ, thiết chế
hóa hay ngăn chặn, thu hẹp, xóa bỏ như những người theo thuyết chức năng hay xung đột, cũng
như những kiến giải và đề xuất của những người theo thuyết dung hịa. Ở đây, chúng ta có thể kế
thừa, tổng tích hợp một cách có phê phán những hạt nhân hợp lí ở mỗi lí thuyết và đưa ra cách kiến
giải mới. Với sự phân tích trên, thì hiển nhiên rằng, khơng phải PTXH nói chung là tốt, là tích cực
như những người theo thuyết chức năng nói đến mà chỉ có PTXH hợp thức mới là tốt, có chức năng
tích cực tạo ra trật tự xã hội, công bằng xã hội, đồng thuận xã hội, đoàn kết xã hội. Chúng ta khơng
đồng tình với những người theo thuyết xung đột khi đã quy PTXH nói chung vào cái xấu, tiêu cực
từ đó phê phán gay gắt và phủ định sạch trơn những luận điểm của những người theo thuyết chức
năng dẫn đến chủ trương tìm cách xóa bỏ PTXH. Như đã phân tích ở trên, chỉ những phân tầng nào
là bất hợp thức mới là xấu, tiêu cực thì mới cần ngăn chặn, kiểm soát và từng bước đẩy lùi, xóa bỏ
Phân tích trên khía cạnh đó, chúng ta thấy rằng PTXH hợp thức thực chất là trật tự của công
bằng xã hội, là điều kiện, phương thức, nền tảng của xã hội đảm bảo cho việc thực hiện công bằng
xã hội; cịn cơng bằng xã hội lại là tiêu chuẩn “nhân lõi” cốt yếu bên trong của PTXH hợp thức.
Để nhận thức cho đúng và đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm hướng tới mục tiêu xây dựng một
xã hội cơng bằng địi hỏi chúng ta phải phát hiện và tìm ra được điểm chung của PTXH hợp thức
và công bằng xã hội.
92


Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay

Công bằng được hiểu là sự phù hợp giữa năng lực thực tiễn của người ta với địa vị xã hội
mà họ đảm nhiệm, giữa nghĩa vụ và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ, sự hy sinh, đóng góp và
sự đền đáp công lao và sự thừa nhận, giữa làm và hưởng, lao động và sự trả công, giữa tội ác và sự
trừng phạt. Theo cách hiểu này thì công bằng không phải là sự cào bằng, cũng không phải bất cứ
sự bằng nhau nào.

PTXH hợp thức là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, là nhân tố tạo ra sự ổn định và phát
triển bền vững của xã hội, góp phần tạo nên bộ mặt nhân văn, nhân bản, nhân ái trong xã hội. Như
vậy, PTXH hợp thức là cái chúng ta đang mong muốn, cần thiết phải có và cùng nhau thừa nhận
nó một cách tự giác. PTXH hợp thức chính là trật tự xã hội lí tưởng của sự cơng bằng xã hội.
Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy xã hội nước ta hướng tới xây dựng một xã hội trên cơ
sở của PTXH hợp thức:
- Tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, các diễn đàn thảo luận ở tất cả
các cấp nhằm làm sáng rõ nội dung thực chất của PTXH hợp thức, theo đó từng bước xây dựng và
thiết chế hóa nó vào trong cuộc sống
- Làm rõ mặt tiêu cực của PTXH không hợp thức, đồng thời tiếp tục cải cách bộ máy hành
chính, tăng cường pháp luật, kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, trừng phạt kịp thời những hành vi
tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác của PTXH bất hợp thức.
- PTXH và phân hóa xã hội là hai hiện tượng vừa có điểm chung vừa có sự khác biệt chính
vì vậy trong chiến lược tồn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói giảm nghèo cần có những
chương trình, giải pháp đồng bộ.
- Kiên quyết chỉ đạo và xây dựng mơ hình xã hội PTXH hợp thức, gắn nó với chính sách
xóa đói giảm nghèo, đồng thời đặt nó trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội tổng hợp của đất
nước.
- Đảng, Nhà nước có chính sách thu hút, phát hiện, đào tạo, sắp xếp những nhóm xã hội ưu
trội, những cá nhân ưu tú góp phần thúc đẩy xã hội.
- Có những giải pháp sát hợp nhằm hỗ trợ người nghèo, người có hồn cảnh khó khăn vươn
lên sống tích cực.
- Tăng cường điều tra khảo sát nắm bắt kịp thời những biến đổi trong cơ cấu các giai tầng
xã hội.

3.

Kết luận

Khi xem xét những vấn đề phong phú của đời sống thực tiễn, chúng ta phải tính tốn một

cách thực sự đầy đủ các yếu tố thực tế, đa dạng và sinh động của xã hội hiện thực với các yếu tố
nhân văn, nhân bản có từ trong chiều sâu của đạo lí và truyền thống tương thân, tương ái quý báu
của dân tộc. PTXH ở Việt Nam cũng cần xem xét và nghiên cứu ở nhiều chiều cạnh để thấy được
những mặt tích cực và hạn chế từ đó có những quan điểm và chính sách phù hợp từ cấp trung ương
đến địa phương.
- Đối với cấp trung ương: Nghiên cứu cho thấy rõ vai trò hàng đầu của mơi trường pháp lí
và chính sách đối với sự biến đổi xã hội. Cơ cấu xã hội và PTXH có thể điều chỉnh từ góc độ quản
lí vĩ mơ thơng qua các cơng cụ quản lí của Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan ở cấp Trung ương cần
tiếp tục rà sốt và điều chỉnh các chính sách kinh tế xã hội, chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo
93


Tô Phương Oanh

việc làm, xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển giáo dục và đào tạo nghề nghiệp, chăm sóc sức khỏe,
phịng chống tệ nạn xã hội và các chính sách khác của nhà nước.
Cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, rà sốt lại cơng tác tổ chức cán bộ, chấn
chỉnh bộ máy... Xây dựng đồng bộ các giải pháp bao gồm cả việc cải cách thể chế, nâng cao năng
lực điều hành và sự phối hợp hoạt động giữa các ban, bộ, cơ quan chức năng, các ngành, các cấp.
Xây dựng cán bộ một cách bài bản, đồng bộ, hệ thống “dài hơi”, tương đối ổn định và có trình
tự, bước đi thích hợp trong một chỉnh thể thống nhất. Cần phải đưa ra được những tiêu chuẩn về
những phẩm chất và yêu cầu cần thiết của từng loại cán bộ. Xây dựng những nguyên tắc khoa học
để tạo nguồn cán bộ, sắp xếp, luân chuyển cán bộ, có chế độ khen thưởng với những người làm tốt,
có thành tích và xử phạt nghiêm minh đối với những người sai phạm, làm việc kém hiệu quả. Một
mặt, cần có phương cách, giải pháp thích hợp để khai thác cán bộ, đãi ngộ cán bộ... Mặt khác cần
kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng “mua quan bán chức”, độc đoán, chuyên quyền, cứng
nhắc trong công tác cán bộ.
- Đối với cộng đồng xã hội: Cần tích cực đẩy mạnh cơng tác thơng tin, giáo dục và truyền
thơng để mọi người tích cực xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội và tăng cường sản
xuất, kinh doanh theo hướng người nghèo bớt nghèo và người giàu thêm giàu hơn. Tạo dư luận xã

hội ủng hộ tích cực đối với PTXH hợp thức, ủng hộ các cá nhân vượt trội, các nhóm vượt trội trong
cơ cấu PTXH về nghề nghiệp, lao động, việc làm, lối sống văn hóa; đồng thời phê phán, đấu tranh
với PTXH không hợp thức.
Tăng cường nghiên cứu về PTXH để bổ sung dữ liệu và thông tin làm cơ sở thực hiện đường
lối, chính sách phát triển kinh tế xã hội. Mở rộng hướng nghiên cứu sự PTXH trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội như văn hóa, giáo dục, uy tín xã hội, mức độ cạnh tranh và sự tham gia quản
lí xã hội trong bối cảnh hội nhập kinh tế thế giới và tồn cầu hóa.
- Đối với địa phương: Địa phương bao gồm từ các đơn vị hành chính tỉnh, thành phố đến
quận, huyện, xã, phường là những mắt khâu quan trọng nối liền sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
từ trung ương đến từng người dân. Địa phương, nhất là địa phương ở cấp cơ sở có một vai trị đặc
biệt quan trọng trong hệ thống chính trị, bởi họ là nơi trực tiếp triển khai mọi chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước đến từng người dân; là đầu mối tiếp nhận những
tâm tư, nguyện vọng, đề xuất của người dân lên các cơ quan Đảng, Nhà nước; là người chịu trách
nhiệm chính, trực tiếp mọi thành bại ở cơ sở. Bởi vây, cần phải tăng cường sự quản lí, chỉ đạo và
việc phối hợp hoạt động một cách chặt chẽ, nhịp nhàng giữa cơ quan địa phương cấp xã, phường
với các cơ quan ngang cấp cũng như theo ngành dọc từ dưới lên trên nhằm đảm bảo mọi hoạt động
kinh tế xã hội cũng như các hoạt động xóa đói giảm nghèo, xây dựng mơ hình PTXH hợp thức đạt
được kết quả mong đợi. Ở đây rất cần những cam kết có trách nhiệm của các nhà lãnh đạo, quản lí
địa phương với Đảng, Nhà nước, với nhân dân, tiếp theo đó cần có sự giám sát, đánh giá về mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của nhân dân, của hệ thống chính trị đối với địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

Nguyễn Đình Tấn, 2005. Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội.

[2]

Nguyễn Đình Tấn, 2010. Xu hướng phân tầng xã hội trong quá trình Phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay. Nxb Lao động, Hà Nội.


94


Xu hướng phân tầng xã hội và luận bàn về phân tầng xã hội hợp thức ở Việt Nam hiện nay

[3]

Tổng cục Thống kê, 2012. Kết quả khảo sát mức sống dân cư Việt Nam. Nxb Thống kê, Hà
Nội. tr.265

[4]

Trịnh Duy Luân, 1992. Sự phân tầng xã hội theo mức sống tại thủ đô Hà Nội trong những
năm đầu thực hiện đổi mới. Tạp chí Xã hội học số 4 (40), tr.16-28.

[5]

Tương Lai, 1995. Khảo sát xã hội học về phân tầng xã hội – cơ sở lí luận và phương pháp
luận. Tạp chí Xã hội học, số 3 (51), tr.9-29.

[6]

Mai Huy Bích, 2006. Lí thuyết phát triển xã hội và những phát triển gần đây ở Phương Tây.
Tạp chí Xã hội học số 3, tr.106.

[7]

Phạm Xuân Nam, 2009. Một số lí thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu về PTXH và CCXH. Tạp
chí Lí luận Chính trị số 1.


[8]

Đỗ Thiên Kính, 2009. Một số vấn đề cơ bản về sự biến đổi cơ cấu xã hội ở Việt Nam trong
giai đoạn 2011 – 2020. Đề tài cấp bộ do Viện XHH chủ trì.

[9]

Lê Ngọc Hùng, 2010. Chênh lệch giàu nghèo và PTXH ở HN hiện nay. Báo điện tử Đảng
Cộng sản, ngày 8/10/2010.

[10] Nguyễn Đình Tấn, 2008. Phân tầng xã hội và phân hóa giàu nghèo trong q trình phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí Khoa học xã hội, số 1 (26).
[11] Nguyễn Đình Tấn, 2008. Xu hướng biến đổi PTXH ở VN trong quá trình phát triển kinh tế
thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tạp chí XHH, số 2 (102).
[12] Nguyễn Đình Tấn, 2010. Ơng đã xuất bản cuốn sách tham khảo Xu hướng phân tầng xã hội
trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở VN hiện nay. Nxb Lao động.
ABSTRACT
Social stratification trends and a discussion
of legitimate social stratification in Vietnam today
Vietnam is in the process of implementing a national renewal policy and developing a
market economy. Social stratification has resulted and is a problem which requires an urgent
solution. Social stratification makes social justice very difficult and has a negative impact on
human life and society. This article takes a close look at this issue.
Keywords: Social Stratification, legitimate social stratification, illegitimate social
stratification, social balance, the gap between the rich and the poor

95




×