Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

TÌM HIỂU về vấn đề LUẬT PHÁP TRONG THƯƠNG mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (508.83 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THÁI BÌNH
KHOA CƠNG NGHỆ THƠNG TIN
= = = =****= = = =

HỌC PHẦN:
CÁC HỆ THỐNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

TIỂU LUẬN:
TÌM HIỂU VỀ VẤN ĐỀ LUẬT PHÁP TRONG
THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Thành viên: Vũ Hồng Sang
Trần Hữu Quang
Nguyễn Đức Quang
Giảng viên hướng dẫn: Trần Thu Hà
Năm học : 2019 - 2020

Thái Bình, năm 2020


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và đặc
biệt là sự phát triển của công nghệ thông tin, Thương mại điện tử cũng ra đời và
phát triển nhanh chóng. Hiện nay Thương mại điện tử đang phát triển nhanh
chóng trên tồn thế giới mà trong đó có Việt Nam, và nó được xem như là sự
phát triển tất yếu của nền “kinh tế số hố” và “xã hội thơng tin”.
Thương mại điện tử bao trùm phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế xã
hội, Thương mại điện tử mang lại nhiều lợi ích và đồng thời cũng mang đến
thách thức cho người sử dụng.


Thương mại điện tử đang phát triển nhanh chóng trên tồn cầu, nhất là ở
các nước cơng nghiệp phát triển, những nước có nền kinh tế đang phát triển
cũng đã và đang tham gia phát triển Thương mại điện tử.
Thương mại điện tử mang lại lợi ích tiềm tàng giúp người tham gia thu
được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm được chi phí, mở rộng
quy mơ doanh nghiệp, rút ngắn chu kỳ kinh doanh…
Việt Nam về cơ sở hạ tầng cho Thương mại điện tử đang hình thành và
hồn thiện, song cùng với xu hướng hội nhập, chúng ta đã là thành viên chính
thức của WTO và với sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp, cửa hàng,
siêu thị…thì việc bán hàng qua mạng sẽ đem lại nhiều tiện lợi và thu được kết
quả cao.
Nhận thức được vai trò và tiện ích của Thương mại điện tử với sự nghiệp
công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, trong điều kiện thực tế ở Việt Nam có
nhiều điều kiện thuận lợi cho Thương mại điện tử phát triển, chúng em xin
nghiên cứu đề tài : Pháp luật trong Thương mại điện tử ở Việt Nam. Nội dung
chính của bài tiểu luận được bố cục theo bốn chương như sau:
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LUẬT PHÁP TRONG THƯƠNG MẠI
ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP
CHƯƠNG IV: KẾT LUẬN
3


Để hoàn thiện tốt bài tiểu luận này, chúng em xin trân trọng cảm ơn cô
Trần Thu Hà, giảng viên phụ trách môn “Các hệ thống thương mại điện tử” đã
hỗ trợ và giúp chúng em trong thời gian học tập vừa qua.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện nội dung bài tiểu luận nhưng do thời gian
học tập cùng với sự hiểu biết còn hạn chế, nên bài tiểu luận này khơng tránh
khỏi những sai sót. Rất mong cơ, và các bạn đóng góp ý kiến để bài tiểu luận

được hoàn thiện hơn.

4


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. Khái niệm thương mại điện tử
Theo định nghĩa của tổ chức WTO thì “Thương mại điện tử bao gồm việc
sản xuất, phân phối, tiếp thị, bán hoặc giao hàng hóa và dịch vụ bằng phương
tiện điện tử”. Còn tại Việt Nam cũng đã có nghị định của Chính Phủ về thương
mại điện tử. Trong đó có định nghĩa giới thiệu về thương mại điện tử là:
“Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc tồn bộ
quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với
mạng Internet, mạng viễn thơng di động hoặc các mạng mở khác”
Hiểu theo một nghĩa rộng thì bất cứ một hoạt động thương mại nào được
triển khai trên các phương tiện điện tử thì đều được gọi là thương mại điện tử.
Tuy nhiên, đối với nhiều người dùng hiện nay thì thương mại điện tử được hiểu
theo nghĩa hẹp hơn, đơn giản hơn tức là mua bán trao đổi hàng hóa và dịch vụ
thơng qua các phương tiện điện tử và internet.
Thương mại điện tử được thực hiện đối với các hoạt động truyền thống
(chăm sóc sức khỏe, giáo dục,…), thương mại dịch vụ (dịch vụ pháp lý, dịch vụ
tài chính,….) và đặc biệt thương mại hàng hóa (hàng gia dụng, quần áo,….).
Tóm lại, thương mại điện tử đang dần trở thành một cuộc cách mạng có thể thay
đổi hoàn toàn cách thức mua sắm của con người trong tương lai.
Ngay từ năm 1996, khi Việt Nam cịn rất ít người biết internet và q xa
lạ với khái niệm “Thương mại điện tử (TMĐT)” thì Uỷ ban Luật Thương mại
quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo một Luật mẫu về thương
mại điện tử rồi. Luật này là cơ sở để sau đó các nước hoàn thiện các quy định
pháp luật về thương mại điện tử của mình theo các nguyên tắc :
- Tài liệu điện tử có giá trị pháp lý như tài liệu ở dạng văn bản, nếu thoả

mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất định
- Tự do thoả thuận hợp đồng
- Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện cách thức truyền thông điện tử

5


- Giá trị pháp lý của hợp đồng và những quy định pháp lý về hình thức
hợp đồng; điều kiện của hợp đồng để có giá trị pháp lý và phải được tôn trọng
thi hành
- Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng phải đi trước.

II. Đặc trưng của thương mại điện tử
Để xây dựng khung pháp luật thống nhất cho Thương mại điện tử, chúng
ta cần nghiên cứu và tìm ra các đặc trưng của thương mại điện tử. So với các
hoạt thương mại truyền thống, thương mại điện tử có một số điểm khác biệt cơ
bản sau :
- Các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử khơng tiếp xúc
trực tiếp với nhau và khơng địi hỏi phải biết nhau từ trước.
- Các giao dịch thương mại truyền thống được thực hiện với sự tồn tại của
khái niệm biên giới quốc gia, còn thương mại điện tử được thực hiện trong một
thị trường khơng có biên giới. Thương mại điện tử trực tiếp tác động đến mơi
trường cạnh tranh tồn cầu.
6


- Trong hoạt động giao dịch thương mại điện tử đều có sự tham gia của ít
nhất ba chủ thể, trong đó có một bên khơng thể thiếu được là người cung cấp
dịch vụ mang, các cơ quan chứng thực.
- Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thơng tin chỉ là phương

tiện để trao đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thơng tin
chính là thị trường.

III. Thực trạng thương mại điện tử trong và ngoài nước
1. Thực trạng trong nước
- Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin: Nhờ các mạng nội bộ và mạng
quốc gia, công việc quản lý một số ngành đã được tin học hố. Tuy nhiên,
tính tin cậy của dịch vụ truyền thơng cịn thấp và chi phí cịn rất cao so với
mức trung bình của người dân, vì vậy tính phổ cập chưa cao.
- Cơ sở hạ tầng nhân lực: Đào tạo tin học và thông tin tin học rộng
rãi (nhất là từ khi triển khai Chương trình quốc gia về cơng nghệ thơng
tin) đã làm cho tin học phổ thơng khơng cịn xa lạ với đơng đảo dân chúng
ở thành thị và các tụ điểm buôn bán khác.
- Hạ tầng cơ sở kinh tế: Nền kinh tế ổn định, cơ bản thoát khỏi khủng
hoảng và đạt được tỷ lệ tăng trưởng nhờ vào cải cách kinh tế vĩ mô. Công
nghiệp, những năm gần đây ngành này đã đứng ở vị trí hàng đầu trong tăng
trưởng kinh tế ở Việt nam nhưng đang bắt đầu có dấu hiệu chững lại.
- Hạ tầng pháp lý: Hàng loạt vấn đề pháp lý liên quan đến thương mại
điện tử chưa được phản ánh trong Bộ luật thương mại, Bộ luật bảo vệ quyền sở
hữu trí tuệ, Bộ luật hình sự và các Bộ luật khác có liên quan, trong đó có các vấn
đề như luật pháp về giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử, về xác thực và
chứng nhận chữ ký điện tử, về chống xâm nhập trái phép vào các dữ liệu.
- Hạ tầng cơ sở chính trị, xã hội: Trong q trình đổi mới hơn 10 năm
qua, đất nước đã chuyển một bước đáng kể sang hướng “mở cửa”. Về cách
sống và làm việc, đa số dân chúng vẫn còn quen giao dịch trên văn bản, giấy
tờ, mua hàng nhất thiết phải trải qua công đoạn nhìn, sờ, nếm, thử...; thích
đếm tiền mặt v..v.., Về mặt xã hội, cũng phải lưu ý tới nhận xét của nhiều học
7



giả rằng: do lịch sử hàng nghìn năm sống trong nền “văn minh làng xã”, đông
đảo dân chúng Việt nam chưa xây dựng được một tác phong “làm việc đồng
đội” (teamwork) ở tầm toàn xã hội và tầm quốc tế.

2. Thực trạng ngồi nước
- Với một quốc gia có đến 53% dân số sử dụng internet và gần 50 triệu
thuê bao sử dụng smartphone. Thị trường thương mại điện tử ở Việt Nam được
dự đoán sẽ bùng nổ trong thời gian tới. tiềm năng tăng trưởng của lĩnh vực
thương mại điện tử của Việt Nam rất lớn.
- Hội doanh nghiệp hàng Việt Nam chất lượng cao đánh giá, những năm
gần đây; với sự ra đời của hàng loạt các website thương mại điện tử như Lazada,
Tiki, Shopee, Sendo, Adayroi… Việc mua sắm online đã khơng cịn xa lạ với
người người tiêu dùng Việt. Thị trường mua sắm trực tuyến trở nên sôi động hơn
khi người tiêu dùng trẻ tham gia vào việc mua bán trên mạng xã hội ngày càng
nhiều.

IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại điện tử
1. Yếu tố kinh tế
Sự phát triển kinh tế chung của đất nước sẽ quyết định tần suất của các
hoạt động thương mại điện tử. Các tổ chức doanh nghiệp sẽ nhắm mục tiêu nền
8


kinh tế phát triển để giao dịch dựa trên internet nhiều hơn so với một quốc gia
đang phát triển. Toàn cầu hóa đã khuyến khích sự phát triển của một thị trường
quốc tế duy nhất cho các giao dịch thương mại. Nó đã làm giảm sự khác biệt xã
hội và văn hóa giữa các quốc gia. Điều này đã thúc đẩy văn hóa tiêu chuẩn hóa
giá cả và giảm thiểu các trung gian.
Sự khác biệt về ngôn ngữ và văn hóa đặt ra một vấn đề đặc biệt đối với
các cơng ty nhỏ hơn vì họ khơng có đủ nguồn tài chính để phát triển một thương

mại điện tử cụ thể trong khu vực.
2. Yếu tố văn hóa – kinh tế xã hội
Sự phát triển của thương mại điện tử một mặt, là kết quả của xu hướng số
hoá, điện tử hoá; mặt khác, là kết quả của vấn đề tạo môi trường kinh tế - xã hội,
cùng các chủ trương chính sách cho kinh tế "số hố" nói chung và thương mại
điện tử nói riêng. Thương mại điện tử (Electronic Commerce) một yếu tố hợp
thành của nền "Kinh tế số hóa", là hình thái hoạt động thương mại bằng các
phương pháp điện tử; là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các
phương tiện công nghệ điện tử, không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn
nào của q trình giao dịch (cịn gọi là "Thương mại khơng có giấy tờ").
Nói cách khác, thương mại điện tử là hình thái hoạt động thương mại
bằng các phương pháp điện tử, việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các
phương tiện điện tử. Thương mại điện tử mang lại những tiện ích sau: đơn giản
hố truyền thơng; các doanh nghiệp có được thơng tin nhanh, phong phú về thị
trường; khách hàng dễ dàng hơn trong lựa chọn khi mua hàng; giảm được các
chi phí quản lý; bán hàng và giao dịch nhiều lần; rút ngắn thời gian sản xuất sản
phẩm; đưa nền kinh tế tiếp cận với nền kinh tế số. Hạ tầng cơ sở của thương mại
điện tử là tổng hồ nhiều vấn đề có liên quan đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế
quốc dân, trong đó hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội có vai trị đặc biệt quan trọng
cho sự phát triển của thương mại điện tử. Nó được hiểu là tồn bộ các nhân tố,
các điều kiện cơ bản về kinh tế - xã hội nhằm tạo ra một môi trường cho sự hình
thành và phát triển của thương mại điện tử.
9


V. Tình hình thực tế thị trường Việt Nam
1. Ưu điểm
Xu hướng thị trường Thương mại điện tử ở nước ta có xu hướng tăng dần
đều
Tăng trưởng vượt bậc, thu được nhiều lợi nhuận và đã có hơn nhiều người

sử dụng.
Trong năm 2019, lượng người sử dụng mạng tại Việt Nam là 59,2
triệu/tổng dân số cả nước, dự đoán trong năm 2021 con số này sẽ tăng trưởng
lên thành 68 triệu người/tổng dân số.
Lượng người sử dụng điện thoại thông minh để mua sắm cũng tăng khá rõ
rệt, dự đoán cho đến năm 2021 sẽ tăng thêm 5 triệu người sử dụng, tăng từ 35
triệu lên 40 triệu người.
2. Nhược điểm
- Thời gian giao hàng quá lâu : Có rất nhiều trường hợp khách đã để sản
phẩm cần mua vào giỏ hàng và chuyển đến trang thanh toán, tuy nhiên, khi thấy
thời gian giao hàng dự kiến thì lại có hành vi thốt ra và khơng mua nữa.
- Sàn Thương mại Điện tử trong và ngoài nước cạnh tranh với nhau :
Thị trường sẽ tăng trưởng mạnh nhưng sẽ có đến 70 – 80% thị phần bị các sàn
Thương mại Điện tử nước ngoài chiếm lấy, các sàn Thương mại Điện tử cộp
mác Việt Nam sẽ chỉ chiếm được khoảng 20% cịn lại trong các thị trường
ngách. Chi phí cho việc đầu tư vào sàn Thương mại Điện tử quá tốn kém, chính
vì thế các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ “lực” để chiến đấu kéo dài với các
sàn Thương mại Điện tử nước ngoài.
- Xu hướng dùng sản phẩm nước ngoài của dân Việt Nam : người tiêu
dùng tại Việt Nam điều có xu hướng hướng ngoại do họ cảm thấy hàng hóa trên
các sàn Thương mại Điện tử nước ngoài đa dạng hơn, nhiều sản phẩm phong
phú hơn và đặc biệt là sản phẩm có chất lượng cao hẳn các sản phẩm ở Việt
Nam, ít xuất hiện hàng nhái.
- An ninh mạng không được đảm bảo : Trong khu vực Đơng Nam Á
Việt Nam có số người mua hàng online lên đến 70% trên tổng số người sử dụng
10


Internet nhưng vẫn còn khá thấp so với mặt bằng chung của các nước Đơng
Nam Á. Tầm nhìn ở thị trường Thương mại Điện tử Việt Nam chỉ dừng ở mức

độ phát triển và thu lợi nhuận, chưa có tầm nhìn sâu như các nước phát triển
mạnh về Thương mại Điện tử như mỹ, hàn…Vấn đề bảo mật thông tin cá nhân
của người tiêu dùng và an ninh mạng tại Việt Nam khá yếu kém, Luật pháp của
việc tiết lộ thông tin người dùng tại Việt Nam chưa thật sự răn đe.

11


CHƯƠNG II: TÌM HIỂU VỀ LUẬT PHÁP TRONG THƯƠNG
MẠI ĐIỆN TỬ
I. Khái niệm pháp luật trong thương mại điện tử
Luật pháp về thương mại điện tử là tổng thể các qui phạm pháp luật có
mối liên hệ nội tại mật thiết với nhau, được thể hiện trong các văn bản qui phạm
pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực thương mại điện tử hoặc có liên quan
đến lĩnh vực thương mại điện tử.
Pháp luật thương mại điện tử là luật do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực
thương mại điện tử hoặc có liên quan đến lĩnh vực thương mại điện tử.
Cho đến nay, khi đề cập đến hoạt động thương mại điện tử thì được hiểu
là giao dịch thương mại sử dụng công nghệ web (web-commerce) và cơng nghệ
mobile (mobile-commerce) bởi đặc tính kĩ thuật của những loại hình cơng nghệ
này có thể hỗ trợ một giao dịch thương mại điện tử hoàn chỉnh, từ việc trưng bày
giới thiệu hàng hóa, dịch vụ cho đến khâu thanh tốn trực tuyến và hậu mãi,
chăm sóc khách hàng trực tuyến.

12


II. Đặc điểm pháp luật trong thương mại điện tử

Luật pháp về thương mại điện tử cịn có những đặc điểm sau :
- Một là, luật pháp về thương mại điện tử có sự kết hợp các qui phạm
truyền thống với qui phạm hiện đại. Bản chất hoạt động thương mại điện tử là sự
kết hợp giữa hoạt động thương mại truyền thống và việc ứng dụng công nghệ
thông tin.
- Hai là, luật pháp về thương mại điện tử có sự giao thoa của các qui phạm
pháp luật ở nhiều ngành luật.
- Ba là, luật pháp về thương mại điện tử có độ trễ nhất định nhưng nhanh
chóng lạc hậu. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tốc độ đổi mới thiết bị, thay
đổi công nghệ cũng như đào thảo cơng nghệ cũ, lạc hậu diễn ra nhanh chóng.
- Bốn là, luật pháp về thương mại điện tử có đối tượng điều chỉnh bao
gồm vật thể và phi vật thể.
- Năm là, luật pháp về thương mại điện tử được thực thi chủ yếu trên môi
trường mạng. Để điều chỉnh hoạt động thương mại diễn ra trên môi trường
mạng, các qui định của pháp luật về thương mại điện tử được thiết kế, xây dựng
phù hợp với đặc điểm này.

III. Vai trò pháp luật trong thương mại điện tử
Thứ nhất, pháp luật về thương mại điện tử nhằm thể chế hóa các quan
điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển hạ tầng thương mại nói
chung và phát triển thương mại điện tử nói riêng. Bằng việc đề ra đường lối, chủ
trương của mình, Đảng thực hiện lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để thực hiện chủ
trương của Đảng, Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật để cụ thể hóa đường
lối, chủ trương đó.
Thứ hai, pháp luật về thương mại điện tử là cơ sở pháp lý để thực hiện
quản lý nhà nước về hoạt động thương mại điện tử, để các chủ thể tham gia hoạt
động thương mại điện tử hiểu rõ về quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình;
đồng thời là căn cứ để xử lý các hành vi vi phạm trong lĩnh vực thương mại điện
tử.
13



Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Trên cơ sở quy định quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động thương mại điện tử,
quy định về hàng hóa, dịch vụ được phép kinh doanh trên mơi trường mạng, quy
định về mơ hình hoạt động TMĐT,… pháp luật về thương mại điện tử xác định
các hành vi vi phạm pháp luật thương mại điện tử và chế tài xử lý hành vi vi
phạm (bao gồm xử lý hành chính và xử lý hình sự); xác định công tác quản lý
nhà nước phải thực hiện như: Quản lý, giám sát các hoạt động thương mại điện
tử; tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về thương mại điện tử; tổ chức
thực hiện hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao công nghệ trong thương
mại điện tử; tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp triển
khai, ứng dụng thương mại điện tử; tổ chức thực hiện công tác đào tạo, bồi
dưỡng nhân lực cho thương mại điện tử; thống kê về thương mại điện tử; hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Thứ ba, pháp luật về thương mại điện tử góp phần thúc đẩy hồn thiện các
quy định khác của pháp luật có liên quan.
Với đặc điểm là hoạt động trên môi trường mạng, không chỉ giới hạn ở
các hoạt động kinh doanh điện tử hay hoạt động nhằm mục đích sinh lợi từ mơi
trường mạng, mà ngay cả các hoạt động của cơ quan nhà nước hiện nay cũng
được ưu tiên thực hiện trên môi trường mạng như: cấp phép điện tử; tiếp nhận
hồ sơ điện tử; khai thuế và nộp thuế điện tử; khai báo hải quan điện tử;… và các
dịch vụ công trực tuyến khác. Qua đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh những hành
vi giao dịch điện tử, sự tương tác trực tuyến, những mối quan hệ trên mơi trường
mạng cũng dần được hình thành. Từ sau thời điểm Quốc hội ban hành Luật Giao
dịch điện tử, tiếp đến là việc liên tục ban hành các luật, pháp lệnh, chế định pháp
luật, quy định pháp luật điều chỉnh các hoạt động trên môi trường mạng như :
quy định về thương mại điện tử, quảng cáo điện tử, hóa đơn điện tử, thuế điện
tử, thanh tốn điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên môi trường mạng,
xử lý vi phạm trên môi trường mạng,… có thể thấy, hệ thống pháp luật về điều

chỉnh hành vi tương tác trên môi trường mạng ngày càng được hoàn thiện.
14


Thứ tư, pháp luật về thương mại điện tử góp phần nâng cao nhận thức của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế.
Quá trình xây dựng pháp luật, ban hành và thực hiện pháp luật về thương
mại điện tử, tất yếu phải lấy ý kiến nhân dân rộng rãi, lắng nghe ý kiến phản hồi
để chỉnh sửa, hoàn thiện pháp luật. Để pháp luật đi vào cuộc sống, công tác
tuyên truyền, phổ biến kiến thức, nâng cao ý thức về pháp luật thương mại điện
tử luôn được Nhà nước tiến hành thường xuyên, liên tục. Nhờ đó mà các tổ
chức, cá nhân hiểu rõ hơn quy định của pháp luật về thương mại điện tử, chủ
động ứng dụng thương mại điện tử để mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, dịch
vụ, phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần tăng trưởng kinh tế quốc
gia.
Thứ năm, pháp luật về thương mại điện tử góp phần thúc đẩy hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong thương mại quốc tế, thương mại đa biên, thương mại đa
quốc gia thì Luật mẫu về thương mại điện tử nói chung và pháp luật về thương
mại điện tử của từng quốc gia sẽ giúp các quốc gia thêm nhiều cơ hội giao lưu,
hợp tác kinh tế, trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ xuyên biên giới,
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.

IV. Ảnh hưởng của luật pháp đến thương mại điện tử
Trong thương mại điện tu các vấn để pháp lý liên quan đến nhiều chế định
pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau. Trong thương mai truyền thông, các bên
thường gặp nhau trực tiếp để tiền hành giao dịch hay la những người đa quen
biết nhau từ trước. Còn trong thrơng mại điện từ, các bên không tiếp xúc trực
tiếp với nhau và khơng địi hoi phải biết nhau từ trước. Các giao dịch thương
mại truyền thống được phần đình rõ ràng về ranh giới quốc gia, trong khi đó
thương mại điện tử lại được thực hiện trong môi trường hay thị trường phi biên

giới. Tuy nhiên thương mại diên tur không the thực hiện dược nếu khơng có
người thứ ba là các nhà cung cấp dịch vụ mạng. Nếu như trong thương mại
truyền thống, mạng lưới là phương tiện để trao đổi thơng tin thì trong thương
mại điện từ mạng Internet chinh là một thị trường. Do vậy các vàn dể pháp lý
nay snh trong thị trường ảo là hoàn toàn khác với thị trưởng truyền thống. Sự
cần thiết xây dựng luật thrơng mại điện tư.

15


Sự phát triển của thương mại diện tir trên the giới đã làm thay đổi cách
thức kinh doanh, giao dịch truyền thông và dem lại những lợi ich to lon cho xã
hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng tơn tại những rui ro gặp phải trong quá trình
giao dịch, kinh doanh trên mạng và việc này địi hỏi phải có các giải pháp khơng
chi về mặt kỹ thuật màa cịn cần phai hinh thành được một cơ sở pháp lý đây đủ.
Thương mại điện từ phát triển thì vai trị của Nhà nước phải được thể hiện
rõ nét trên hai linh vực : cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ thống
pháp luật đầy đủ thông nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thương mại
điện tử . Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thương mại
điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan Nhà nước cũng sẽ
rất khó có cơ sở để kiểm sốt được các hoạt động kinh doanh thương mại điện
tử. Hơn thế nữa, thương mại điện từ là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được
niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là một
việc làm có tính cấp thiết , mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một
sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ.

V. Thực trạng luật pháp trong thương mại điện tử
1. Thực trạng trong nước
Năm 2005, Quốc hội thơng qua ba luật có tính chất đặt nền tảng pháp lý

cho TMĐT, đó là Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự và Luật Giao dịch điện tử.
Bên cạnh đó, hoạt động TMĐT và việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực
TMĐT còn chịu sự điều chỉnh của một số luật như; Luật Công nghệ thông tin
năm 2006; Luật Viễn thơng năm 2009; Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009); Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Luật Quảng cáo năm
2012; Luật Đầu tư 2014; Luật Doanh nghiệp năm 2014. Ngoài ra, để hướng dẫn,
quản lý hoạt động giao dịch và các hoạt động liên quan đến TMĐT, Chính phủ
đã ban hành: Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006 về Thương mại điện tử;
Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về Thương mại điện tử (thay thế
Nghị định 57/2006/NĐ-CP); Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007quy
định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ ký số và Dịch vụ chứng
thực chữ ký số; Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP về Chữ ký và Dịch vụ chứng thực chữ ký; Nghị
định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật
Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số
106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007; Nghị định 27/2007/NĐ-CP ngày
16


23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Nghị định
35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân
hàng; Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống thư rác; Nghị
định 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 sửa đổi bổ sung Nghị định số
90/2008/NĐ-CP về Chống thư rác; Nghị định 25/2011/NĐ-CP ngày 06/04/2011
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông; Nghị
định 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và
dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử
của cơ quan nhà nước; Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về

Thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013
của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên
mạng; Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 quy định về khu công
nghệ thông tin tập trung; Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo.
Về xử lý vi phạm trong lĩnh vực TMĐT có các Nghị định sau: Nghị định
số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực văn hóa, thể thao du lịch và quảng cáo; Nghị định số
174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng nghệ thơng tin và tần số vô tuyến điện;
Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 quy định về Phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng cơng nghệ cao. Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong
hoạt động thương mại, sản xuất, buốn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng; Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015, sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buốn
bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Về Thông tư hướng dẫn thi hành, có các văn bản sau: Thơng tư số
78/2008/TT-BTC ngày 15/9/2008, của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số
nội dung của Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động
tài chính; Thơng tư số 12/2008/TT-BTTTT ngày 30/12/2008, của Bộ Thông tin
và Truyền thông hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số
90/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chống thư rác; Thơng tư 03/2009/TT-BTC
ngày 2/03/2009, của Bộ Tài chính quy định về mã số quản lý đối với nhà cung
cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư điện tử, tin nhắn, nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn
qua mạng Internet, hướng dẫn thi hành Nghị định số 90/2008/NĐ-CP; Thông tư
số 50/2009/TT-BTC ngày 16/03/2009, của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn giao
dịch điện tử trên thị trường chứng khốn; Thơng tư 26/2009/TT-BTTTT ngày
17



31/07/2009, của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về cung cấp thông tin
và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử của cơ
quan nhà nước; Thông tư số 37/2009/TT-BTTTT ngày 22/7/2010, của Bộ Thông
tin và Truyền thông quy định về hồ sơ và thủ tục liên quan đến cấp phép, đăng
ký, công nhận các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số; Thông tư số
17/2010/TT-BKH ngày 22/07/2010, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi
tiết thí điểm đấu thầu qua mạng; Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày
28/9/2010, của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP
ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng
dịch vụ; Thơng tư số 23/2010/TT-NHNN ngày 9/11/2010, của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước quy định về việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống thanh
tốn điện tử liên ngân hàng; Thơng tư số 180/2010/TT-BTC ngày 9/11/2010 ,của
Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế; Thông tư số
25/2010/TT-BTTTT ngày 15/11/2010, của Bộ Thông tin và Truyền thông quy
định việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo an tồn và bảo vệ thơng tin cá
nhân trên trang thơng tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà
nước; Thông tư số 209/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010, của Bộ Tài chính quy
định giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ kho bạc nhà nước; Thông tư số
32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011, của Bộ Tài chính hướng dẫn về khởi tạo, phát
hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thơng tư liên
tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC ngày
10/9/2012, của Bộ Cơng an – Bộ Quốc phịng – Bộ Tư pháp - Bộ Thông tin và
Truyền thông - Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao hướng
dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông; Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày
05/12/2014, của Bộ Công thương quy định về quản lý website thương mại điện
tử; Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014, của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước về dịch vụ trung gian thanh toán.


18


1.1. Luật pháp thương mại điện tử cập nhập năm 2014

- Luật Đầu tư năm 2014 có nhiều nội dung mới bảo đảm hành lang pháp
lý mở rộng thu hút đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, đảm bảo
quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động đầu tư, đem lại lợi ích tốt nhất cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Điểm mới nổi bật trong Luật Đầu tư năm 2014 là các
vấn đề liên quan đến nguyên tắc về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân
trong các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư
kinh doanh có điều kiện theo pháp luật loại trừ, theo đó các nhà đầu tư chỉ được
quyền thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp
luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư, kinh doanh tất cả các ngành,
nghề mà Luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện.
- Luật Doanh nghiệp năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật Doanh
nghiệp năm 2005, thể hiện theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do
kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp. Mà theo đó, những gì luật pháp
khơng cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh. Luật
Doanh nghiệp năm 2014 đã tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các
thủ tục về đầu tư dự án, chứng nhận đầu tư, tạo cơ hội về khả năng gia nhập thị
trường cho doanh nghiệp; bãi bỏ quy định đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã
nghành khi thực hiện đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ kinh
doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành,
19


nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và nghành,
nghề kinh doanh; theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử thì

việc sử dụng con dấu có sự thay đổi. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình
thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp
luật; đồng thời, có nghĩa vụ thơng báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh
để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Không phải tất cả văn bản của doanh nghiệp phải đóng dấu mà chỉ đóng dấu vào
văn bản nào pháp luật quy định hoặc đối tác yêu cầu phái có dấu. Trước đây,
theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định, Doanh nghiệp nhà nước là Doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, thì nay theo Luật Doanh
nghiệp 2014 quy định , Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước
nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Mà theo đó, nội dung sửa đổi từ khoản 32 đến khoản 35 Điều 1 của Nghị
định 124/2015/NĐ-CP, đã quy định các hành vi vi phạm hành chính và mức xử
phạt cho từng hành vi vi phạm cụ thể:
+ Đối với hành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc
ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động (gọi tắt là ứng dụng di
động), mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong
các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng
dịch vụ thương mại điện tử mà không đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền theo quy định;
b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử
hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển
nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền theo quy định;
c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ
đăng ký;
d) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung
cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử;
đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại
điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử;

e) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm
dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký.
20


+ Đối với hành vi vi phạm về thông tin và giao dịch trên website thương
mại điện tử hoặc ứng dụng di động, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Giả mạo hoặc sao chép giao diện website thương mại điện tử hoặc ứng
dụng di động của thương nhân, tổchức, cá nhân khác để kiếm lợi hoặc để gây
nhầm lẫn, gây mất lòng tin của khách hàng đối với thương nhân, tổ chức, cá
nhân đó;
b) Đánh cắp, tiết lộ, chuyển nhượng, bán các thông tin liên quan đến bí
mật kinh doanh của thương nhân, tổ chức khác hoặc thông tin cá nhân của người
tiêu dùng trong thương mại điện tử khi chưa được sự đồng ý của các bên liên
quan.
+ Đối với hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động
thương mại điện tử, mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối
với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không được sự
đồng ý trước của chủ thể thông tin;
b) Thiết lập cơ chế mặc định buộc người tiêu dùng phải đồng ý với việc
thông tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ hoặc sử dụng cho mục đích quảng
cáo và các mục đích thương mại khác;
c) Sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng khơng đúng với mục
đích và phạm vi đã thơng báo.
Thơng tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014, của Bộ Công Thương
quy định về quản lý website thương mại điện tử, có hiệu lực từ ngày 20/01/2015
(viết tắt Thông tư 47/2014/TT-BCT - thay thế Thông tư 12/2013/TT-BCT quy
định thủ tục thông báo, đăng ký và công bố thông tin liên quan đến website

thương mại điện tử) hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 52/2013/NĐCP ngày 16/5/2013, của Chính phủ về Thương mại điện tử.
Bên cạnh việc kế thừa về các quy định liên quan đến thủ tục thông báo,
đăng ký liên quan website thương mại điện tử thì Thơng tư 47/2014/TT-BCT đã
chi tiết hóa hơn một số các quy định khác của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP
ngày 16/5/2013, của Chính phủ về Thương mại điện tử, như các vấn đề liên
quan đến: Quản lý hoạt động kinh doanh trên các website TMĐT, bao gồm việc
phân định trách nhiệm quản lý với các website chuyên ngành; hoạt động kinh
doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều
21


kiện trên website TMĐT; quản lý hoạt động kinh doanh TMĐT trên các mạng xã
hội;... Thông tư 47/2014/TT-BCT không áp dụng đối với các website hoạt động
trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, website mua bán, trao
đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh tốn khác, website cung cấp
dịch vụ trị chơi trực tuyến, đặt cược hoặc trị chơi có thưởng.
Việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội, chủ sở hữu mạng xã
hội sẽ cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới
thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; chủ sở hữu mạng xã hội cho phép người tham gia
mở gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; chủ sở hữu
mạng xã hội có chuyên mục mua bán, trên đó cho phép người tham gia đăng tin
mua bán hàng hóa và dịch vụ. Tất cả các hoạt động này đều phải đăng ký qua
sàn giao dịch TMĐT.
Thông tư 47/2014/TT-BCT cũng quy định việc quản lý hoạt động kinh
doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều
kiện trên website TMĐT theo đó: Thương nhân, tổ chức, cá nhân khơng được
phép kinh doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh trên website TMĐT bán hàng và
website cung cấp dịch vụ TMĐT; cá nhân không được phép kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện; thương nhân, tổ chức được phép thiết lập
website TMĐT bán hàng để kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều

kiện và phải cơng bố trên website của mình số, ngày cấp, nơi cấp Giấy chứng
nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ đó trong trường hợp
pháp luật quy định phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện đăng ký kinh doanh;
thương nhân và tổ chức được phép sử dụng website cung cấp dịch vụ TMĐT để
bán hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện; phải đáp ứng các điều kiện kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ đó theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu website
cung cấp dịch vụ TMĐT trong trường hợp này phải có trách nhiệm: yêu cầu
người bán cung cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh (trong trường hợp
pháp luật quy định phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh); loại bỏ
khỏi website thông tin bán hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật khi phát hiện
hoặc nhận được phản ánh có căn cứ xác thực.
Thơng tư 39/2014/TT-NHNN Ngày 11/12/2014, Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước ban hành Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung
gian thanh tốn (viết tắt Thơng tư 39/2014/TT-NHNN), được quy định tại Nghị
định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2013 của Chính phủ về thanh tốn khơng
dùng tiền mặt.

22


Thơng tư 39/2014/TT-NHNN làm rõ các loại hình dịch vụ trung gian
thanh toán, đồng thời đưa ra các quy định cụ thể đối với hoạt động cung ứng
dịch vụ trung gian thanh toán, bao gồm: Quản lý rủi ro, đảm bảo an tồn, bảo
mật; đảm bảo khả năng thanh tốn; hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh
toán phải thực hiện các quy định sau:
Một là, xây dựng và thực hiện các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt
động ngân hàng điện tử
Hai là, bảo đảm an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt
động ngân hàng; an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử;
Ba là, tuân thủ các quy định về việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ chứng

từ điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân
hàng.
1.2. Một số vướng mắc phát sinh từ hoạt động Thương mại điện tử và kiến
nghị
Hiện nay chúng ta đang thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch
TMĐT được tiến hành một cách minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh,
qua đó tạo điều kiện để TMĐT phát triển, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của
doanh nghiệp và xây dựng các tập quán thương mại hiện đại cho Việt Nam.Tuy
nhiên, để hoạt động kinh doanh TMĐT được kiểm sốt chặt chẽ hơn, nhưng
khơng “làm khó” cho chủ thể tham gia hoạt động này, theo tác giả cần tiếp tục
nghiên cứu khắc phục một số vướng mắc sau:
Thứ nhất, bên cạnh website TMĐT, các mạng xã hội, đặc biệt là
Facebook, được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam. Hiện số người sử dụng các
diễn đàn mạng xã hội để mua sắm trực tuyến cũng gia tăng. Số doanh nghiệp sử
dụng nền tảng di động như kênh liên lạc giữa nhà bán lẻ và người tiêu dùng
ngày càng tăng. Do đó, quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như
nền tảng di động cũng không kém phần cấp thiết. Thực tế cho thấy, Cơ quan
chức năng cũng chưa có quy định rõ ràng đối với danh sách các website TMĐT
khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng; thiếu hướng dẫn chi tiết về quy trình
giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến cũng như những cảnh báo cần thiết đối
với người tham gia loại hình dịch vụ này. Tại Mục 2 của Nghị định 52/2013/NĐCP dành 8 điều để quy định về quy trình giao kết hợp đồng giữa người bán hàng
trực tuyến với người mua.Theo Điều 23 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, quy định:
“Bộ Cơng thương có trách nhiệm quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng
trực tuyến trên website TMĐT do thương nhân, tổ chức, cá nhân lập ra để mua
23


hàng hóa, dịch vụ.”, nhưng cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết này. Nếu
cho rằng, trước đây Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 09/2008/TT-BCT
ngày 21/7/2008, hướng dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên

website TMĐT, nay không cần phải quy định gì thêm là khơng phù hợp. Vì, tại
thời điểm Thơng tư 09/2008/TT-BCT được ban hành, Luật Bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này chưa
được ban hành, chính vì vậy, việc quy định như tại Điều 23 Nghị định
52/2013/NĐ-CP là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi
tham gia giao dịch TMĐT.
Thứ hai, quy định hiện hành cho phép Bộ Công thương công bố công khai
trên cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT danh sách các website TMĐT bị
phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Câu hỏi đặt ra, đây là điều kiện
quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay là cơ sở để cạnh tranh
không lành mạnh xuất hiện? Quy định hiện hành không giới hạn những người có
quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi
tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn
nhau.
Thứ ba, Thông tư số 47/2014/TT-BCT quy định, các cơng ty có trang web
bán hàng, các trang mạng xã hội phải đăng ký trên sàn giao dịch điện tử và các
trang mạng xã hội phải có trách nhiệm quản lý thơng tin, hoạt động của người
đăng ký trên trang mạng xã hội của mình. Mọi hoạt động kinh doanh TMĐT
phải đăng ký với Cục Thương mại điện tử thuộc Bộ Công thương. Cơ quan thuế
phối hợp, lấy thông tin trên Cục Thương mại điện tử để theo dõi các doanh
nghiệp, các tổ chức sở hữu website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, từ đó
rà sốt các hợp đồng, thỏa thuận hợp tác để thu thuế. Thơng qua đó, cơ quan
thuế kiểm tra chứng từ liên quan đến các khoản thu chi của các doanh nghiệp
này. Thông tin nguồn dữ liệu quản lý kê khai hoạt động TMĐT, cơ quan thuế sẽ
nắm bắt hoạt động kinh doanh qua sàn, nhất là các trường hợp xây dựng kho
hàng trên mạng của các cá nhân, doanh nghiệp để áp dụng các biện pháp quản lý
thuế. Thế nhưng, hiện nay việc kê khai đăng ký với Cục Thương mại điện tử
không nhiều. Nguyên nhân, do Thông tư quy định trách nhiệm đăng ký là của
doanh nghiệp mà không quy định rõ trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, nhiều doanh nghiệp “né” trách nhiệm đăng ký

mà vẫn không bị xử lý. Đó cũng là lý do ngành thuế thất thu vì khơng có nguồn
dữ liệu doanh nghiệp điện tử để tính thuế. Theo Luật Quản lý thuế năm 2006
(sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2016) thì tổ chức, cá nhân phát sinh nghĩa vụ thuế
khi có hoạt động thương mại hoặc làm công, mua bán tài sản, không phân biệt
giao dịch thương mại được thực hiện theo phương thức truyền thống hay theo
24


phương thức điện tử. Có nghĩa là bất kể doanh nghiệp hay cá nhân có đăng ký
kinh doanh hay khơng, miễn có hoạt động mua bán phát sinh thu nhập thì có
trách nhiệm thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế. Với người bán hàng là cá nhân
thì được miễn nộp các loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân nếu mức
doanh thu cả năm không vượt quá 100 triệu đồng. Tuy nhiên, đã mua bán phải
kê khai, khi kê khai mới xác định có phải nộp thuế hay không. Thế nhưng, hầu
hết những cá nhân kinh doanh trên các trang TMĐT hiện nay không kê khai.
Thậm chí nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên mạng khơng có địa điểm kinh
doanh, không tài khoản ngân hàng rõ ràng. Khơng ít doanh nghiệp, cá nhân có
cả website điện tử bán hàng nhưng không thông báo cho Cục Thương mại điện
tử và không kê khai hoặc kê khai thuế không đầy đủ; …
Thứ tư, việc giải quyết các tranh chấp liên quan TMĐT hiện nay theo quy
định Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, mà theo đó, tại khoản 3 Điều 95 Bộ luật
này có quy định “Thơng điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao
đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các
hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.” được
coi là chứng cứ. Vậy có thể hiểu: Chứng cứ điện tử là những chứng cứ được lưu
giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ
kỹ thuật số có liên quan đến vụ việc tranh chấp. Những chứng cứ điện tử có thể
thu thập được để phục vụ việc chứng minh, bao gồm:
- Những chứng cứ điện tử do máy tính tự động tạo ra như: “cookies”,
“URL”, E-mail logs, web server logs…

- Những thông tin điện tử do con người tạo ra được lưu giữ trong máy tính
hoặc các thiết bị điện tử khác, như các văn bản, bảng biểu, các hình ảnh, thơng
tin… được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử.
Để thu thập được những dấu vết điện tử này, cần sử dụng kỹ thuật, cơng
nghệ máy tính và phần mềm phù hợp để có thể phục hồi lại những “dấu vết điện
tử” đã bị xóa, bị ghi đè, những dữ liệu tồn tại dưới dạng ẩn, đã mã hóa, những
phần mềm, mã nguồn được cài đặt dưới dạng ẩn, để làm cho có thể đọc được,
ghi lại dưới hình thức có thể đọc được và có thể sử dụng làm bằng chứng pháp
lý trước tòa án.
Tuy nhiên, cách thức thu thập chứng cứ điện tử này như thế nào? Quy
trình ra sao ? Quyền của chủ thể liên quan khi tiến hành thu thập… khiến cho
Tòa án và các bên đương sự gặp nhiều khó khăn khi giải quyết tranh chấp. Vì
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể việc này. Để tiến hành
25


×