Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Hệ thống chính trị, tổ chức bộ máy Đảng, Nhà nước, các tổ chức Xã hội (Thi công chức)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (249 KB, 60 trang )

MỤC LỤC

CHUYÊN ĐỀ 1:
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ, TỔ CHỨC BỘ MÁY
ĐẢNG, NHÀ NƯỚC
Câu 1: Về quyền lực Nhà nước và sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt
giữa các cơ quan Nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp hiện nay?
Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp sửa đổi năm 2013 bổ
1


sung một nguyên tắc mới về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta:
“Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Đây vừa là quan điểm, vừa là nguyên tắc chỉ đạo công cuộc tiếp tục, xây
dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước ta trong thời kỳ mới. Về quyền lực Nhà
nước là thống nhất là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc. Theo Hiến pháp
sửa đổi năm 2013, quyền lực Nhà nước ta thống nhất là ở nhân dân. Quan niệm
thống nhất quyền lực Nhà nước là ở nhân dân thể hiện ở nguyên tắc “Tất cả
quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân”. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân được Hiến pháp sửa đổi ghi nhận nhân dân là chủ thể tối cao của
quyền lực Nhà nước, nhân dân thông qua quyền lực Hiến pháp giao quyền lực
Nhà nước của mình cho Quốc hội, do Chính phủ và cho cơ quan Tư pháp thực
hiện.
Theo Điều 70 Hiến pháp sửa đổi năm 2013, nhân dân chỉ cho Quốc hội 3
nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp;
quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ với quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước. Đồng thời, Điều 6 quy định Nhân dân


thực hiện quyền lực Nhà nước không những bằng dân chủ đại diện thông qua
Quốc hội, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước, mà còn bằng
dân chủ trực tiếp thông qua việc thực hiện quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ
chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và
Điều 120). Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm
vụ và quyền hạn khác nhau nhưng được thống nhất ở mục tiêu của Chính trị
chung là xây dựng một “Nhà nước vào Đảng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân;... thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”, như Điều 3 Hiến pháp mới đã quy định.

2


Quan niệm quyền lực Nhà nước là thống nhất như nói ở trên của Hiến
pháp là cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước đề cao trách nhiệm của Nhà
nước trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn
và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền, giao quyền. Đó cũng là cơ sở để khơng
có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm tồn tại. Đồng thời, đó
cũng làm Điều kiện để hình thành cơ chế kiểm sốt, nhận xét, đánh giá chất
lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực Nhà
nước cũng như từ xã hội là nhân dân.
Như vậy, quyền lực Nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân, chủ
thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước là quan niệm có ý nghĩa chỉ đạo
tổ chức quyền lực Nhà nước trong Điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mọi biểu hiện sa rồi
quan điểm quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân theo Hiến pháp sửa đổi năm
2013 đều dẫn đến việc tổ chức quyền lực Nhà nước kém hiệu quả.
Về “phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã tiến một bước mới trong việc phân công

quyền lực Nhà nước. Lần đầu tiên trong Hiến pháp nước ta chỉ rõ Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến (khơng cịn là duy nhất có quyền lập hiến như Hiến pháp
năm 1992), quyền lập pháp (Điều 69), Chính phủ thực hiện quyền hành pháp
(Điều 94), Tòa án nhân dân thực hiện quyền tư pháp (Điều 102). Việc xác nhận
các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là
một sự đổi mới quan trọng, tạo Điều kiện để làm rõ vị trí, vai trị, nhiệm vụ,
quyền hạn của mỗi Quyền.
Một là, đối với quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý
chí chung của quốc gia. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền
này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể
3


hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy duy nhất được nhân dân giao
quyền giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền hạn và nhiệm vụ của Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp được quy định ở Điều 70 và Điều 120 của
Hiến pháp năm 2013.
Hai là, quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của
quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt của quyền này
là đề xuất, hoạch định, tổ chức thực hiện pháp luật để đảm bảo an toàn, an ninh
và phát triển xã hội. Quyền hạn và nhiệm vụ của Chính phủ - cơ quan thực hiện
quyền hành pháp được quy định một cách khái quát ở Điều 96 Hiến pháp hiện
nay.
Ba là, quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án
thực hiện. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao
nhất trong tổ chức thực hiện quyền này.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực Nhà nước, việc phân định
làm ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân
định rành mạch ba quyền đón ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực
Nhà nước. Vì xã hội ngày càng phát triển, phân cơng lao động càng phải chun

mơn hóa cao để phát triển vừa thống nhất vừa hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành
mạch lạc ba quyền là cách thực tốt nhất để phát huy vai trò của Nhà nước trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Như đã nói ở trên, trong Nhà nước ta, quyền lực Nhà nước là thống nhất.
Đó là sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền
lực Nhà nước không chứa đựng và bao quát việc phân lập mục tiêu chính trị
chung của quyền lực Nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền
nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp khơng hồn tồn tách biệt
nhau, mà “ràng buộc lẫn nhau”, cả ba Quyền đều phải phối hợp với nhau, phải
4


hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền
hạn mà nhân dân giao cho mỗi quyền được Hiến pháp - đạo luật gốc của Nhà
nước và xã hội quy định.
Mục đích của việc phân công quyền lực Nhà nước để nhằm kiểm sốt
quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của Nhà nước và phát huy
dân chủ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực
Nhà nước giữa các quyền. Thực tiễn chỉ ra rằng, sức mạnh và sự thịnh vượng
của mỗi một quốc gia, cũng như khả năng đối mặt với những khó khăn, thách
thức phần lớn được quyết định bởi sự vững vàng của các thiết chế, cam kết của
các nhánh quyền lực Nhà nước với nhân dân về tính pháp quyền. Điều đó khơng
kém phần quan trọng so với các yếu tố về tài nguyên thiên nhiên, khí hậu hoặc
vị trí địa lý quốc gia. Những nước duy trì được sự phát triển ổn định lâu dài về
kinh tế - xã hội và chính trị là những nước tuân theo tinh thần của pháp quyền.
Ý nghĩa của sự phân công quyền lực Nhà nước là để phân định nhiệm vụ
và quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước, để Nhà nước hoạt động
có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực Nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của
nhân dân, tính pháp quyền của Nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của

nhân dân, tính pháp quyền của Nhà nước ngày càng được đề cao. Nội dung và
tinh thần của các quy định về việc phân cơng nhiệm vụ, quyền hạn, cho Quốc
hội, Chính phủ, Tịa án Nhân dân nhìn chung đáp ứng các u cầu nói trên và là
cơ sở để tiến hành kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Về kiểm soát quyền lực Nhà nước, ngồi việc phân cơng mạch lạc nhiệm
vụ, quyền hạn của các quyền để tạo cơ sở cho kiểm soát quyền lực; Hiến pháp
sửa đổi 2013 còn tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp
do luật định (Điều 119). Đồng thời, Hiến pháp giao cho: Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tịa án Nhân dân, Viện kiểm sát nhân
dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. Như
vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp
5


chuyên trách như Nghị quyết của Đảng đã đề ra, nhưng với quy định của Điều
119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật
định. Rồi đây,
Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Thanh tra. Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân chắc chắn sẽ được sửa đổi bổ sung để hình thành cơ chế
kiểm sốt quyền lực Nhà nước trong việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu
hiệu hơn
Trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở các nước theo ngun tắc phân
quyền mềm dẻo thì việc kiểm sốt quyền lực Nhà nước giữa các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối với hành
pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến pháp sửa
đổi đã bổ sung, Điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Ủy ban Thường vụ Quốc hội được bổ sung
thêm nhiệm vụ: Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, Điều chỉnh địa giới
đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (khoản 8, Điều
74). Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn: Phê chuẩn đề nghị bổ

nhiệm, miễn nhiệm cách chức… Thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (khoản 7,
Điều 70). Cùng với Điều đó, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã thiết lập thêm hai
thiết chế độc lập: Hội đồng Bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại
biểu Quốc hội, chỉ đạo công tác bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
(Điều 117) và Kiểm tốn Nhà nước có nhiệm vụ giúp Quốc hội Kiểm tốn việc
quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công (Điều 118).Sự ra đời các thiết chế Hiến
định độc lập này cũng nhằm tăng cường các công cụ để nhân dân kiểm soát
quyền lực Nhà nước trong bầu cử, trong sử dụng tài chính ngân sách và tài sản
cơng một cách hiệu quả hơn.
Kiểm sốt quyền lực Nhà nước trong Hiến pháp

6


Hiến pháp sửa đổi đã hình thành 1 cơ chế kiểm sốt quyền lực Nhà nước
từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp
Bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính
phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực
hiện quyền tư pháp - Hiến pháp đã tạo cơ sở xây dựng cơ chế kiểm soát quyền
lực Nhà nước từ bên trong bộ máy Nhà nước
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011) Chẳng muốn tiếp tục khẳng định tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước ta theo nguyên tắc “quyền lực Nhà nước là thống
nhất có sự phân cơng, phối hợp…” mà cịn là bổ sung thêm một nội dung mới là
“kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”. Sự bổ sung này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, Thể hiện một
bước phát triển mới về nhận thức lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã thể chế quan điểm về kiểm
soát quyền lực Nhà nước như thế nào?
Trước hết, Hiến pháp sửa đổi đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực

Nhà nước là nhân dân. Tại Điều 2, Hiến pháp sửa đổi đã khẳng định: bản Chất
của nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Nhân dân là người làm chủ đất nước. Kiểm soát quyền lực
Nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Nhà nước của ai
thì người đó phải là người chủ kiểm sốt quyền lực Nhà nước của mình. Đây là
Một địi hỏi rất yếu nàng tiên từng yêu cầu chính đáng và tự nhiên của người
chủ. Đối với Quyền lực Nhà nước lại càng là một đòi hỏi khách quan và cấp
thiết của người chủ là nhân dân phải kiểm soát được quyền lực Nhà nước của
mình. Bởi Nếu khơng kiểm sốt được quyền lực Nhà nước thì quyền lực Nhà
nước sẽ bị tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền sẽ bị mất quyền, bị
lạm quyền từ phía Nhà nước.
7


Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân được giao cho Nhà nước mà thực
chất là giao cho những con người cụ thể có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước
thực thi. Mà hành động của con người thì ln ln bị tác động về vật chất, tình
cảm và dục vọng nữa. Từ sự khẳng định nguồn gốc, bản chất của Nhà nước ta là
Nhà nước của nhân dân, đồng thời là người chủ kiểm soát quyền lực Nhà nước,
Hiến pháp sửa đổi tại khoản 3, Điều 2 đã bổ sung một nguyên tắc mới: Kiểm
soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp.
Hai là, Từ quan điểm và nguyên tắc nền tảng nói trên, trong mối quan hệ
với kiểm sốt quyền lực Nhà nước, nhiều nhận thức mới đã được thể hiện xuyên
suốt trong bản Hiến pháp sửa đổi. Đó là, Hiến pháp đã được xác nhận nhân dân
là chủ thể của quyền lập hiến, Quốc hội khơng cịn là thiết chế duy nhất có
quyền lập hiến như Hiến pháp hiện hành. Khi nhân dân là chủ thể của quyền lập
hiến thì nhân dân là chủ thể kiểm sốt quyền lực Nhà nước. Vì thế, Hiến pháp
sửa đổi đã đặt nền móng hiến định cho sự ra đời một cơ chế kiểm sốt quyền lực
Nhà nước từ bên ngồi, tức là từ phía nhân dân trong việc kiểm sốt quyền lực

Nhà nước. Thể hiện Điều đó, Điều 6, Hiến pháp sửa đổi quy định ngoài việc
nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước bằng dân chủ đại diện (thông qua QH,
HĐND và các cơ quan khác của Nhà nước) còn thực hiện bằng các hình thức
dân chủ trực tiếp như bầu cử và bãi nhiệm (Điều 7); cơng dân có quyền biểu
quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29); cơng dân có quyền tham gia
quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với các cơ quan
Nhà nước… (Điều 28); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân… giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan
Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức viên chức (Điều 9), Cơng đồn
Việt Nam… tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà
nước (Điều 10).

8


Như vậy, Hiến pháp sửa đổi đã hình thành một cơ chế kiểm sốt quyền
lực Nhà nước từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Với các
quy định nền tảng của Hiến pháp như vậy, chắc chắn cơ chế đó sẽ được cụ thể
hóa bằng các đạo luật như bầu cử, luật bãi nhiệm đại biểu, luật trưng cầu dân ý,
luật tham vấn và phản biện các công việc Nhà nước của nhân dân. Các luật này
sẽ được soạn thảo để thực thi Hiến pháp trong những năm sắp tới.
Ba là, nói đến kiểm sốt quyền lực Nhà nước thì Điều quan trọng trước
tiên là tổ chức bộ máy Nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách
đúng đắn, mạch lạc giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Có phân cơng
phân nhiệm mới có cơ sở để kiểm sốt quyền lực. Chứ khơng phải là Quốc hội
chủ thể phân công quyền lực Nhà nước. Theo nhận thức đó, trong bản Hiến pháp
sửa đổi đã có một bước tiến mới trong việc phân cơng quyền lực Nhà nước. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã quy định quyền
lực Nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều
2). Nhưng Hiến pháp năm 1992 lại chưa chỉ ra được một cách rõ ràng cơ quan

nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là cơ quan hành pháp và cơ quan nào là tư
pháp. Hiến pháp sửa đổi đã khắc phục được nhược điểm đó bằng việc quy định
Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Việc
xác nhận cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
là một thay đổi quan trọng so với mơ hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây.
Nó tạo Điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng đắn, mạch lạc
giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và Tịa án Nhân dân trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đây chính là cơ sở để kiểm sốt quyền lực Nhà nước nhân dân có căn cứ
để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền lực Nhà nước của
mỗi Quyền. Đồng thời, khắc phục được sự trùng lặp, dựa dẫm ỷ lại nó khơng rõ
trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước của mơ hình tập quyền
9


xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước
bên trong bộ máy Nhà nước. Các đạo luật về tổ chức bộ máy Nhà nước như Luật
Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tịa án nhân dân,
Luật Tổ chức Viện kiểm soát nhân dân sẽ lần lượt được sửa đổi theo các tư
tưởng mới nói trên của Hiến pháp để hình thành một cơ chế kiểm sốt quyền lực
Nhà nước từ bên trong bộ máy Nhà nước. Bốn là, Hiến pháp sửa đổi đã tạo lập
cơ sở Hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119).
Đồng thời, Hiến pháp giao cho: QH, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước,
Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của
Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp. như vậy, Hiến pháp sửa đổi lần này
tui chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách như Nghị quyết của
Đảng đã đề ra, nhưng Với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở Hiến định để xây
dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Rồi đây, luật hoạt động giám
sát của QH, Luật Thanh tra, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chắc chắn sẽ

được bổ sung để hình thành cơ chế việc tuân theo Hiến pháp một cách hữu hiệu
hơn.
Năm là, Trong tổ chức quyền lực Nhà nước ở các nước theo nguyên tắc
phân quyền mềm dẻo thì kiểm soát quyền lực Nhà nước giữa các quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp, chủ yếu là kiểm soát của lập pháp và tư pháp đối
với hành pháp. Để tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền hành pháp, Hiến
pháp sửa đổi đã bổ sung, Điều chỉnh một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
và Ủy ban thường vụ Quốc hội, ví dụ như: Ủy ban thường vụ Quốc hội được bổ
sung thêm nhiệm vụ: quyết định, thành lập, giải thể, nhập, chia, Điều chỉnh địa
giới, đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc TW (khoản 8, Điều 74).
Quốc hội được bổ sung thêm nhiệm vụ quyền hạn: phê chuẩn, đề nghị, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (khoản 7,
Điều 70). Cùng với Điều đó, Hiến pháp sửa đổi đã thiết lập hai thiết chế độc lập:
Hội đồng bầu cử quốc gia có nhiệm vụ tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, chỉ
đạo công tác bầu cử đại biểu HỘI ĐỒNGNHÂN DÂN các cấp (Điều 117) và
10


Kiểm tốn Nhà nước có nhiệm vụ giúp QH kiểm sốt việc quản lý, sử dụng tài
chính, tài sản cơng (Điều 118). Sự ra đời các thiết chế hiến định độc lập này
cũng nhằm tăng cường Các công cụ để nhân dân kiểm soát quyền lực Nhà nước
trong bầu cử, trong sử dụng tài chính danh sách Nhà nước và tài sản cơng một
cách hiệu quả hơn.
Kiểm sốt Quyền lực Nhà nước là một vấn đề không đơn giản. Bởi vì,
kiểm sốt quyền lực Nhà nước, một mặt là để phòng chống sự lợi dụng quyền
lực Nhà nước, nhưng mặt khác; làm sao để khơng phải vì kiểm sốt nhận quyền
lực Nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành
các cơng việc của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực Nhà
nước là làm cho bộ máy Nhà nước vừa có khả năng kiểm sốt được xã hội, lại
vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm sốt được chính

mình.
Do vậy, sau Hiến pháp, dựa trên cơ sở Hiến pháp, phải ban hành các đạo
luật để xây dựng các cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước một cách phù hợp.
Đó là cơ chế kiểm soát được cấu thành bởi các chủ thể kiểm sốt ở bên ngồi bộ
máy Nhà nước (như các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các Phương tiện
thông tin đại chúng và trực tiếp công dân) và cơ chế do các chủ thể bên trong bộ
máy Nhà nước tiến hành kiểm soát. Đồng thời, xây dựng cơ chế kiểm soát tuân
thủ Hiến pháp một cách độc lập do luật định như Hiến pháp sửa đổi đã đặt nền
móng và mở đường cho sự ra đời.
Câu 2: Phân tích Điều 2 Hiến pháp 2013: “Nhà nước cộng hịa XHCN
Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng Định vấn đề xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một quan điểm chỉ đạo thống
11


nhất và xuyên suốt Đảng ta. Điều này cũng đã được Hiến pháp năm 2013 (bổ
sung) nhận tại Điều 2: “Nhà nước cộng hòa XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự
phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các
quyền hành pháp, lập pháp và tư pháp”. Bằng lý luận về Nhà nước pháp luật
chúng ta hãy phân tích làm rõ vấn đề trên.
1. Cơ sở để đảm bảo của Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền

của dân, do dân, vì dân:
Nhà nước pháp quyền XHCN do nhân dân ta xây dựng là Nhà nước pháp

quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Điều này được quy định khách
quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị XHCN.
- Về cơ sở chính trị, nó xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước
của giai cấp công nhân mà ý chí, nguyện vọng, lợi ích của giai cấp cơng nhân là
thống nhất với ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân lao động, của dân tộc,
sự thống nhất về lợi ích đó dẫn đến sự thống nhất về ý chí hành động của tuyệt
đại quần chúng nhân dân lao động.
- Về cơ sở kinh tế của Nhà nước, Nhà nước ta là Nhà nước được xây dựng
trên nền tảng kinh tế XHCN; với chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ
yếu, nghĩa là nhân dân lao động chính là chủ sở hữu của các tư liệu SX chủ yếu.
Đây chính là Điều kiện để đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân, bởi vì giai cấp
nào, lực lượng nào nắm giữ kinh tế (mà chủ yếu là nắm giữ các TLSX quan
trọng) thì giai cấp ấy, lực lượng ấy mới thật sự nắm giữ quyền lực chính trị.

12


2. Nhà nước CHXHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì

nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên
minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức.
-

Nhà nước của nhân dân:

Trước hết ta thấy rằng Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, đây chính
là Điều kiện đầu tiên phải có để đảm bảo cho việc thực hiện Nhà nước “do nhân
dân và vì nhân dân”. Nhân dân đã và đang làm chủ vừa bằng hình thức trực tiếp,
vừa bằng hình thức gián tiếp thơng qua những đại diện do mình bầu ra.
Tuy nhiên, khi xác định quyền lực Nhà nước thuộc nhân dân, Điều đó

khơng có nghĩa là mỗi người dân đều tự hành xử theo ý chí riêng của mình mà
quyền lực đó phải được tổ chức để nhân dân thông qua tổ chức mà sử dụng
quyền lực Nhà nước. Tổ chức quyền lực Nhà nước đó là cơ quan đại biểu nhân
dân.
Cơ quan đại biểu nhân dân được hình thành từ sự tập hợp các đại biểu
nhân dân do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân,
được nhân dân ủy nhiệm quyền lực Nhà nước của mình và chịu trách nhiệm
trước nhân dân. Đến lượt mình các cơ quan đại biểu nhân dân, thay mặt nhân
dân và vì lợi ích của nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước. Nói cách khác, cơ
quan Nhà nước các cấp chỉ là người chấp hành mệnh lệnh của quốc dân, chấp
hành ý chí của nhân dân. Cán bộ cơng chức phải là cơng bộc của dân, chăm lo,
bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân.
Từ những phân tích trên cho thấy, ở Nhà nước ta quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân, nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội
và Hội đồng nhân dân. Quyền lực Nhà nước của nhân dân thống nhất và tập
trung. Bằng con đường đó, nhân dân mới thật sự quyết định cơng việc của đất
nước mình vì lợi ích của chính mình.
13


-

Nhà nước do nhân dân:

Nhà nước do nhân dân thể hiện ở việc khi đưa đường lối, chính sách, pháp
luật… Nhà nước phải đảm bảo do nhân dân quyết định, nhân dân thực hiện và
dân kiểm tra, tức là phải thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm”.
Tính nhân dân, tính dân chủ trong q trình hoạt động xây dựng pháp luật, được
thể hiện ở tính quyết định sáng tạo của nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo
pháp luật, vừa ủy quyền cho Quốc hội lập pháp, vừa tham gia góp ý kiến vào các

dự án Luật, đồng thời nhân dân là chủ thể lớn nhất thực hiện pháp luật, phát hiện
những điểm yếu của hệ thống pháp luật khi đưa vào cuộc sống.
Đặc điểm này đòi hỏi khi xây dựng pháp luật phải phản ánh tính đúng đắn
ý chí của đại đa số nhân dân lao động, thể hiện chính xác các giá trị mà xã hội
ủng hộ. Đồng thời đặc điểm này được thể hiện pháp luật sau khi ban hành phải
được cả xã hội chấp hành triệt để. Hơn nữa, hoạt động xây dựng pháp luật lấy
mục tiêu ban hành pháp luật vì con người, phục vụ con người. Muốn làm được
Điều đó, khi xây dựng các văn bản pháp luật, Nhà nước phải thu hút đông đảo
mọi người tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật, cùng nâng cao chất lượng
của pháp luật, đồng thời chuẩn bị cho nhân dân tuân thủ pháp luật.
-

Nhà nước vì nhân dân:

Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước vì dân thể hiện trước hết mọi
chính sách và giải pháp kinh tế - xã hội… của Nhà nước đều phục vụ nhân dân,
đảm bảo quyền lợi cho nhân dân, thể hiện nguyên tắc: “dưới chế độ dân chủ,
khơng phải con người tồn tại vì pháp luật, mà pháp luật tồn tại vì con người”.
Điều này ở nhiệm vụ của Nhà nước ta trong hoạt động lập pháp, lập quy phải
không những đảm bảo dân chủ mà còn phát huy dân chủ ngày càng cao đối với
nhân dân lao động. Tính chất Nhà nước “do nhân dân và vì nhân dân” phải thể
hiện rõ trong nội dung pháp luật phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân
và đông đảo quần chúng nhân dân lao động chứ không chỉ bảo vệ cho quyền lợi,
14


lợi ích của một giai cấp riêng lẻ như Nhà nước của giai cấp tư sản. Mặt khác,
phải bảo đảm các quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước
có trách nhiệm giải quyết những ý kiến của dân khiếu nại, kiến nghị, tố cáo.
Tóm lại, đối với đặc trưng của Nhà nước ta, ba yếu tố “của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân” là một thể thống nhất trong đó yếu tố “của nhân dân”
là quyết định. Ngược lại, có phát huy 2 yếu tố “do nhân dân, vì nhân dân” thì
Nhà nước ta mới thực sự là “của nhân dân”.
Trong những năm đổi mới vừa qua, Nhà nước ta đã trưởng thành về
nhiều mặt, để thể hiện rõ bản chất của một Nhà nước pháp quyền của dân do
dân và vì dân. Nổi bật nhất là những thành tựu về xây dựng hệ thống pháp luật
để quản lý đất nước, về xây dựng nền dân chủ XHCN, nhất là dân chủ ở cơ sở.
Hoạt động của Nhà nước thể hiện được tư tưởng lấy dân làm gốc, biết dựa vào
dân, thể hiện việc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Nhà nước cũng
đã tích cực đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, xử lý nghiêm minh những vụ việc
tiêu cực, tham nhũng.
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng bộ máy Nhà nước ta chưa
thực sự trong sạch, vững mạnh; tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí của cơng,
tình trạng mất dân chủ, phép nước, kỷ cương xã hội rải rác ở nhiều nơi cịn
bng lỏng… Mặt khác, quản lý Nhà nước chưa ngang tầm với nhiệm vụ của
thời kỳ đổi mới. Đó là: chưa phát huy được những mặt tích cực, chưa khắc phục
những hạn chế làm cho tình trạng bất cơng, bất bình đẳng có xu hướng gia
tăng…
• Quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh cơngnơng và đội ngũ trí thức, do Đảng cộng sản lãnh đạo
Như đã nói ở phần trên, quyền lực trong Nhà nước không phải là quyền
lực của cá nhân hay của bộ máy Nhà nước mà phải thật sự là của toàn thể nhân
15


dân, dựa trên nền tảng là liên minh công - nơng và đội ngũ trí thức. Liên minh
giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức chẳng những là yêu
cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho Nhà nước trong sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng XHCN, mà còn là yêu cầu khách quan của sự nghiệp
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Liên minh thể hiện tính quy luật
chung của cách mạng XHCN ở những nước có nơng dân chiếm đại bộ phận dân

cư và thường có nền kinh tế chậm phát triển như nước ta. Đồng thời với xu
hướng nền kinh tế tri thức đang phát triển mạnh cùng với sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học cơng nghệ địi hỏi phải có sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công
nhân và đội ngũ tri thức mới có thể xác định được đường lối, chính sách đúng
đắn và tổ chức thực hiện tốt sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Cần phải thấy rằng trong Điều kiện nước ta, nếu không do Đảng cộng sản
lãnh đạo, thì Nhà nước khơng thể là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, lúc đó
Nhà nước sẽ biến thành cơng cụ của một thiểu số thống trị, nơ dịch và bóc lột
nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của Đảng thì Nhà nước mới giữ vững được bản
chất giai cấp công nhân và đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng đảng
lãnh đạo Nhà nước khơng có nghĩa là Đảng bao biện, làm thay Nhà nước mà là
để phát huy trách nhiệm, tính chủ động, sắc bén và hiệu lực quản lý, Đảng lãnh
đạo là lãnh đạo xây dựng Nhà nước thật sự là công cụ chủ yếu để thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân.
Câu 3: Những điểm mới của Hiến Pháp 2013 so với Hiến pháp 1992
về chế độ chính trị?
So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 có những điểm mới cơ bản
mới sau đây.
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định những giá trị nền tảng
và mục tiêu cơ bản của của Nhà nước CHXHCN Việt Nam (Điều 1, Điều 3),
đồng thời khẳng định rõ hơn chủ quyền nhân dân: “Nước Cộng hòa xã hội chủ
16


nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ”, những bảo đảm thực hiện chủ quyền
nhân dân đầy đủ hơn: “bằng dân chủ trực tiếp”và “bằng dân chủ trực tiếp” thông
qua Quốc hội, HĐND và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”, với chế độ
bầu cử dân chủ, quyền cử tri bãi nhiệm đại biểu Quốc hội và HĐND, cũng như
cơ chế không chỉ phân công, phối hợp mà cịn kiểm sốt giữa các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước (Điều 2. Điều 6. Điều 7).

Những quy định mới này thể hiện rõ hơn bản chất dân chủ và pháp quyền
của Nhà nước ta. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, tất cả
các từ “Nhân dân” đều được viết hoa một cách trang trọng, thể hiện sự tôn trọng
và đề cao vai trò của Nhân dân với tư cách là chủ thể duy nhất của toàn bộ
quyền lực Nhà nước ở nước ta.
Thứ hai, Điều 4 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đồng thời bổ
sung thêm trách nhiệm của Đảng trước Nhân dân:”Đảng Cộng sản Việt Nam gắn
bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”.
Thứ ba, Điều 9 liệt kê đầy đủ các tổ chức chính trị – xã hội gồm: Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Cơng đồn Việt Nam, Hội nơng dân Việt Nam, Đồn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh
Việt Nam và xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này. Đặc biệt, Điều
9 Hiến pháp năm 2013 bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong
việc “tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây
dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc” (khoản 1), đồng thời quy định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ
chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn
khổ Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3).

17


Thứ năm, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định chủ quyền quốc gia và
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác của Nhà nước
CHXHCN Việt Nam với tất cả các nước trên thế giới; đồng thời cam kết “tuân
thủ Hiến chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà CHXHCN Việt Nam là
thành viên”, khẳng định Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc” (Điều 11. Điều 12).

Thứ sáu, kế thừa cách quy định của Hiến pháp năm 1946. Điều 13
Chương này quy định về Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, ngày Quốc khánh và Thủ
đô chứ không để một chương riêng (Chương XI) như Hiến pháp năm 1992.
– Hiến Pháp 2013 đã làm rõ hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn một số vấn đề
như sau:
+ Thứ nhất, khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một
nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền,
hải đảo, vùng biển và vùng trời (Điều 1).
+ Thứ hai, tiếp tục thể hiện nhất quán quan điểm “tất cả quyền lực Nhà
nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức”, bổ sung thêm một điểm mới là “Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ” (khoản 2. Điều 2).
Bổ sung và phát triển nguyên tắc “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực
hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3. Điều 2) theo tinh thần của
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011).
Đây là điểm mới quan trọng so với các bản Hiến pháp trước đây, lần
đầu tiên nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận trong Hiến pháp.
Kiểm soát quyền lực là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền để các cơ quan lập
18


pháp, hành pháp, tư pháp thực thi có hiệu lực, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của mình theo Hiến pháp và pháp luật, tránh việc lợi dụng, lạm dụng
quyền lực.
+ Thứ ba, tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu khách quan sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc của nước ta. Đồng thời làm rõ hơn, đầy đủ hơn bản chất, vai trị lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khơng chỉ là “đội tiên phong của giai cấp

công nhân” mà đồng thời là “đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân
tộc Việt Nam” (khoản 1 Điều 4); bổ sung quy định về trách nhiệm của Đảng
“phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách
nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình” (khoản 2 Điều 4); tiếp tục
khẳng định khơng chỉ tổ chức đảng có trách nhiệm mà cịn bổ sung quy định
trách nhiệm của đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật
(khoản 3 Điều 4).
+ Thứ tư, tiếp tục khẳng định các dân tộc bình đẳng, đồn kết, tơn trọng
và giúp nhau cùng phát triển, nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
Ngôn ngữ quốc gia là Tiếng Việt…Hiến pháp bổ sung điểm mới rất quan trọng
là “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển tồn diện và tạo điều kiện để các
dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (khoản 4 Điều
5) so với Hiến pháp năm 1992 quy định “Nhà nước thực hiện chính sách phát
triển về mọi mặt, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng
bào dân tộc thiểu số”.
+ Thứ năm, bổ sung nguyên tắc “Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp” (khoản 1 Điều 6). Đây là lần đầu tiên nguyên tắc này
được ghi nhận trong Hiến pháp. Tiếp tục khẳng định ngun tắc “phổ thơng,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” trong bầu cử đại biểu Quốc hội, Hội đồng
nhân dân; quy định đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân bị bãi nhiệm
khi khơng cịn xứng đáng với sự tín nhiệm của Nhân dân (Điều 7).
19


+ Thứ sáu, tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ hơn tư tưởng phát huy sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc, coi đại đoàn kết dân tộc là động lực, nguồn sức mạnh
to lớn để xây dựng và phát triển đất nước, được thể hiện ở Lời nói đầu, trong
quy định về Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bổ sung vai trò của Mặt trận Tổ quốc
trong “tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội, giám sát, phản biện xã hội” (khoản 1 Điều 9); Cơng

đồn là tổ chức chính trị – xã hội giai cấp cơng nhân và người lao động, đại diện
cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người lao động; tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế – xã hội; tham gia
kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức, đơn
vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao
động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập và nâng cao trình độ, kỹ
năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10).
Ghi nhận vị trí, vai trị của Hội nơng dân, Đồn thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam là các tổ
chức chính trị – xã hội đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng
thành viên, hội viên của tổ chức mình; cùng với các tổ chức thành viên khác của
Mặt trận phối hợp và thống nhất hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
(khoản 2. Điều 9).
+ Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung chính sách đối ngoại của nước ta cho phù hợp
với tình hình mới, khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập,
tự chủ, hịa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc
lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào cơng việc nội bộ của
nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc và các điều
ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn, đối
tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới (Điều 12).
20


+ Thứ tám, các nội dung gắn với chế độ chính trị của quốc gia như Quốc
kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh, nội dung cơ bản giữ nguyên
như Hiến pháp năm 1992. được gộp chung thành một điều (Điều 13).
Câu 4: Nguyên tắc phân quyền là gì? Hiến pháp 2013 thể hiện nguyên

tắc này như thế nào?
Phân quyền là cách tổ chức Nhà nước mà quyền lực Nhà nước được phân
ra cho các nhánh khác nhau, độc lập tương đối với nhau. Các nhánh này hợp tác,
phối hợp, giám sát và kiềm soát lẫn nhau trong thực hành quyền lực Nhà nước.
Theo thuyết “Tam quyền phân lập” thường phân ra nhánh lập pháp, tư
pháp và hành pháp. Tất cả các Nhà nước pháp quyền hiện đại thực chất đều
được tổ chức theo cách này. Đấy là một thành quả của văn minh nhân loại. Cho
đến nay, loài người vẫn chưa nghĩ ra cách hữu hiệu hơn về tổ chức Nhà nước.
Hiến pháp 2013 tuy vẫn khẳng định quyền lực Nhà nước là thống nhất, có
sự phân cơng, phối hợp, nhưng lần đầu tiên có quy định thêm việc kiểm soát
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Đây được xem là một điểm mới cực kỳ quan trọng trong việc tổ chức
quyền lực Nhà nước, tránh những nhánh quyền lực vượt q quyền hạn, khơng
thể kiểm sốt. Theo đó: xác định rõ ba bộ phận của quyền lực Nhà nước với
những thiết chế thực hiện các quyền đó: Quốc hội được xác định là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thực hiện
quyền lập hiến, quyền lập pháp, và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước. Chính phủ là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất, thực hiện quyền
hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư pháp; Viện
kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp; Chính
quyền địa phương là chế định được thay cho các thiết chế HĐND và UBND
trong Hiến pháp hiện hành; hai thiết thế hiến định độc lập mới ra đời là Hội
đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước.
21


Câu 5: Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam?
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là đặc điểm rất quan trọng mà Nhà nước

pháp quyền tư sản không thể có được. Thực chất đặc điểm này của Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm bảo đảm tính giai cấp, tính nhân
dân của Nhà nước ta. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân và do nhân
dân định đoạt, nhân dân quyết định phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành
của bộ máy quyền lực Nhà nước nhằm đáp ứng ngày càng cao lợi ích của nhân
dân và của toàn bộ dân tộc. Đây cịn là sự thể hiện về tính ưu việt của chế độ xã
hội chủ nghĩa so với các chế độ khác.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan chức năng
của Nhà nước để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây là
phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước rất mới mẻ, chúng ta phải
lấy hiệu quả thực tiễn để kiểm nghiệm. Về nguyên tắc, chúng ta không thừa
nhận học thuyết “tam quyền phân lập” vì nó máy móc, khơ cứng theo kiểu các
quyền hồn tồn độc lập, khơng có sự phối hợp, thậm chí đi đến đối lập, hạn chế
sức mạnh của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Tuy nhiên, chúng ta cũng
không thể trở lại với nguyên tắc tập quyền, tức là tập trung toàn bộ quyền lực
cao nhất của Nhà nước lập pháp, hành pháp và tư pháp cho một cá nhân, hoặc
một cơ quan tổ chức Nhà nước. Bởi vì, làm như vậy là đi ngược lại lịch sử tiến
bộ của nhân loại.
Vấn đề đặt ra yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu giải quyết đó là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có sự phân cơng, phân định thẩm
quyền cho rõ ràng, minh bạch để thực hiện có hiệu quả với chất lượng cao ba
quyền, tránh tình trạng chồng chéo, tùy tiện, lạm quyền…
22


Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở HP, PL và đảm bảo cho
Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng
Nhà nước tơn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng
cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng

thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một Đảng duy nhất
lãnh đạo, có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và tổ chức thành viên của Mặt trận.

Câu 6: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trị như thế nào trong hệ
thống chính trị Việt Nam?
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về việc tham gia xây dựng Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trị
quan trọng trong góp phần xây dựng các chủ trương, nghị quyết của Đảng, phản
ánh ý kiến của nhân dân về các vấn đề bức xúc trong đời sống xã hội, để Đảng
kịp thời đề ra những chủ trương, chính sách hợp lý trong quá trình lãnh đạo,
nhằm giải quyết, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. Trong quá trình vận động
23


nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, thông qua ý
kiến quần chúng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kịp thời đề xuất với
Đảng về những hạn chế trong đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam thơng qua hoạt động của mình quy tụ, phối hợp các tổ
chức thành viên thực hiện tốt chủ trương, nghị quyết của Đảng về cơng tác xây
dựng Đảng, góp phần xây dựng bộ máy tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh ở

các cấp và vận hành thống nhất trong phạm vi cả nước. Vận động toàn thể
nhân dân phát huy tinh thần làm chủ trong việc xây dựng và bảo vệ Đảng; giám
sát hoạt động của cấp ủy đảng tại địa phương để kịp thời phát hiện những sai
sót, khiếm khuyết trong cơng tác lãnh đạo ở địa phương…; qua đó, làm cho
Đảng ngày càng liên hệ chặt chẽ với nhân dân, phát huy trí tuệ của nhân dân
trong q trình lãnh đạo của Đảng, từ đó nâng cao sức mạnh và trí tuệ của Đảng.
Về tham gia xây dựng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam góp phần
phát huy sức mạnh tổ chức và hoạt động của Nhà nước, tham gia tổ chức bầu cử
Quốc hội và hội đồng nhân dân, góp phần nâng cao sức mạnh của cơ quan
quyền lực Nhà nước; tổ chức hiệp thương với các tổ chức thành viên, giới thiệu
những người đủ tiêu chuẩn làm hội thẩm nhân dân của tòa án nhân dân các cấp,
tham gia vào hoạt động hành pháp của Nhà nước; phát huy sức mạnh của hệ
thống các cơ quan quản lý hành chính; tham gia xây dựng chính sách, pháp luật,
tham gia giám sát hoạt động của bộ máy Nhà nước; vận động các tầng lớp nhân
dân tham gia các phong trào quần chúng, cùng Nhà nước thực hiện các chương
trình kinh tế – xã hội, phát huy hiệu quả quản lý Nhà nước.
Câu 7: So sánh “quyền con người” và “quyền cơng dân”?
1. Giống nhau:
Thêm vào đó, quyền con người và quyền cơng dân là những vấn đề
có lịch sử lâu đời cả về phương diện thực tiễn cũng như lý luận, đều gắn liền và

24


là thành quả của cuộc đấu tranh giai cấp, cách mạng tư sản, phản ánh quá trình
nhân loại tự giải phóng mình.
Quyền con người và quyền cơng dân là những quyền cơ bản, quan trọng
được quy định trong Hiến pháp.
Quyền con người và quyền công dân là hai phạm trù rất gần gũi với
nhau nhưng không đồng nhất. Nhân quyền và dân quyền đều là những quyền lợi

mà mọi công dân đều được hưởng và được bảo vệ (trừ những người khơng
có quốc tịch). Trong đó quyền cơng dân có nghĩa hẹp hơn so với quyền con
người, về bản chất quyền công dân là những quyền con người được nhà nước
thừa nhận và áp dụng cho cơng dân nước mình. Một số quyền công dân cũng là
quyền con người như: quyền được có nhà ở, quyền tự do kinh doanh buôn bán,
tự do ngôn luận, quyền được học tập, quyền được tham gia quản lý nhà nước và
xã hôi, quyền được bảo vệ về sức khỏe,…
Ở Việt Nam quyền con người và quyền công dân ra đời và phát triển
gắn liền với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa và lịch sử lập
hiến nước nhà. Nó được thể hiển 1 cách nhất quán trong cả 4 bản hiến pháp, ghi
nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân Việt Nam. Đất nước ngày
càng phát triển, nhân quyền và dân quyền cũng ngày 1 được mở rộng thể hiện sự
tôn trọng của nhà nước với quyền lợi của nhân dân, nâng cao niềm tin của nhân
dân với đất nước. Sự quản lý của nhà nước không nhằm hạn chế các quyền và tự
do của con người mà mong muốn phát triển hoàn thiện hơn các quyền con
người mà nhân dân Việt Nam đáng được hưởng đã ghi nhận trong các công ước
quốc tế. Một cá nhân (trừ những người không quốc tịch) về danh nghĩa đều
là chủ thể của cả hai loại nhân quyền và dân quyền nếu họ sinh sống trong quốc
gia mà họ đăng kí quốc tịch. Nếu đang sinh sống tại nước ngồi thì họ sẽ chỉ
được hưởng những quyền con người cơ bản như “quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc” ngoài ra một số quyền lợi đặc thù như bầu cử, ứng
cử thì họ sẽ khơng được thừa nhận và bảo vệ.
25


×