Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

luận văn thạc sĩ giáo dục pháp luật về quốc phòng, an ninh cho sinh viên từ thực tiễn ĐHQG TP HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.98 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH CHO SINH VIÊN
TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2020

1


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN THANH

GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH CHO SINH VIÊN
TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. VÕ KHÁNH MINH

HÀ NỘI, NĂM 2020



2


LỜI CẢM ƠN
Được sự chấp thuận của Học viện Khoa học xã hội, tơi đã hồn thành đề tài
nghiên cứu: “Giáo dục pháp luật về quốc phòng, an ninh cho sinh viên từ thực tiễn
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh”. Đây là kết quả sau một quá trình nỗ
lực học tập và nghiên cứu. Tuy nhiên, khó có thể hồn thành nếu khơng nhận được
sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của thầy TS. Võ Khánh Minh, người đã hết lòng tạo
điều kiện, giúp đỡ và hướng dẫn tơi hồn thành luận văn, cùng với sự hỗ trợ và tạo
mọi điều kiện thuận lợi của các thầy, cô trong Học viện Khoa học xã hội; Trung tâm
Giáo dục Quốc phịng và an ninh, các đồng chí đồng nghiệp, giúp đỡ tận tình trong
quá trình thu thập các số liệu và tất cả các anh chị trong lớp Luật Khóa IX – đợt 2 –
năm 2018 đã hết lịng giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện.
Tơi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến thầy TS. Võ Khánh Minh, quý thầy, cô trong
Học viện Khoa học xã hội và Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và an ninh, các đồng
chí, đồng nghiệp, giúp đỡ tận tình trong quá trình thu thập các số liệu và tất cả các
anh chị trong lớp Luật Khóa IX – đợt 2 – năm 2018 đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tơi hồn thành luận văn.
Chân thành cảm ơn!
Nguyễn Văn Thanh

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Giáo dục pháp luật về quốc phòng, an ninh cho
sinh viên từ thực tiễn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình
nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng dẫn khoa học của thầy TS. Võ Khánh

Minh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng
đuợc ai công bố trong bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác. Những số liệu phục
vụ cho việc phân tích, nhận xét, đánh giá là do tơi thu thập, phân tích từ các nguồn
khác nhau có ghi rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về
nội dung luận văn của mình.
Kính mong Học viện Khoa học xã hội xem xét cho phép tôi được bảo vệ luận
văn này.
Người cam đoan

Nguyễn Văn Thanh

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật về quốc phòng và an
ninh cho sinh viên............................................................................................................................... 9
1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật về quốc phòng và
an ninh cho sinh viên....................................................................................................................... 19
Chương 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG VÀ
AN NINH CHO SINH VIÊN TẠI ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ
CHÍ MINH
2.1. Khái quát về Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Trung tâm
Giáo dục Quốc phòng và an ninh Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh....................................................................................................................................................... 24
2.2. Tình hình thực hiện giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh cho sinh

viên
tại
Đại
học
Quốc
gia
Thành
phố
Hồ
Chí
Minh....................................................................................................................................................... 28
2.3. Những kết quả đạt được, hạn chế và bất cập trong giáo dục pháp luật về
quốc phòng và an ninh cho sinh viên tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh......................................................................................................................................................... 48
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO
SINH VIÊN TỪ THỰC TIỄN ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH
3.1. Dự báo và phương hướng thực hiện giáo dục pháp luật quốc phòng và an
ninh cho sinh viên trong những năm tới................................................................................ 59
3.2. Giải pháp để thực hiện giáo dục pháp luật quốc phòng và an ninh cho sinh
viên từ thực tiễn Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh..................................... 62
KẾT LUẬN.................................................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 76

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

Đại học Quốc gia
Giáo dục và Đào tạo
Quốc phòng và An ninh
Thành phố Hồ Chí Minh
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa

4


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Sơ đồ Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh Đại học Quốc gia
TP.HCM ……………………………………………………………………26
Sơ đồ 1.2: Cơ cấu tổ chức Trung tâm Giáo dục Quốc phòng và An ninh………...27
Sơ đồ 1.3: Thống kê Hội nghị liên kết giáo dục Quốc phòng và An ninh……..….51
BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp số lượng và kết quả môn học ……………………………….43
Bảng 2.2: Số liệu công tác quản lý và rèn luyện sinh viên ……………………….48
Bảng 1.3: Số liệu hoạt động ngoại khóa của sinh viên ……………………………69

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta
ngày càng đi vào chiều sâu, sức mạnh tổng hợp và uy tín, vị thế của Việt Nam ngày
càng nâng cao, tạo tiền đề để đất nước phát triển nhanh và bền vững. Tuy nhiên,
nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức; tình hình an ninh chính

trị, trật tự an tồn xã hội vẫn tiềm ẩn những nhân tố dễ gây mất ổn định; các thế lực
thù địch, phản động tiếp tục chống phá ngày càng tinh vi, nguy hiểm, phức tạp; tình
hình tư tưởng trong Đảng và tâm trạng của nhân dân, bên cạnh mặt tích cực là cơ
bản, cũng có những biểu hiện đáng lo ngại. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc
phịng và an ninh trong tình hình mới, sinh viên với lực lượng hùng hậu, là tầng lớp
tri thức đi đầu trong xung kích, sáng tạo có vai trị và trách nhiệm to lớn để thực
hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Do vậy, trang bị kiến thức về quốc phịng và an ninh cho tồn dân nói chung
và sinh viên nói riêng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên đã được Đảng, Nhà
nước hết sức quan tâm. Qua các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, Bộ Chính trị đã ban
hành các văn bản về cơng tác giáo dục quốc phòng và an ninh như Chỉ thị số 12CT/TW ngày 03 tháng 5 năm 2007 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác giáo dục quốc phịng, an ninh trong tình hình mới: “Giáo dục quốc phòng
và an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân, việc phổ cập và tăng cường
giáo dục quốc phòng an ninh là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, Nhà nước và toàn
xã hội,...Chú trọng giáo dục lòng yêu nước, truyền thống đấu tranh, lòng tự tôn dân
tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật...”.
Để cụ thể hóa đường lối, chủ trương của Đảng, liên tục trong những năm qua
Quốc hội và chính phủ đã ban hành và tổ chức triển khai nhiều văn bản quy phạm
pháp luật liên quan đến giáo dục pháp luật về QP&AN như Luật phổ biến, giáo dục
pháp luật năm 2012, Luật giáo dục QP&AN năm 2013, Nghị định số 13/2014/NĐ1


CP ngày 25 tháng 02 năm 2014 của chính phủ về qui định chi tiết biện pháp thi
hành Luật GDQP&AN, Quyết định số 607/QĐ-TTg ngày 24 tháng 4 năm 2014 của
Thủ tướng chính phủ về phê duyệt Đề án “Đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục
QP&AN cho các trường trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, trung cấp
nghề, cao đẳng nghề và các cơ sở giáo dục đại học đến năm 2020”, Thông tư Liên
tịch số 123/2015/TTLT-BQP-BGDĐT-BLĐTBXH ngày 05 tháng 11 năm 2015 của
Bộ Quốc phòng Bộ GD&ĐT, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội quy định tổ

chức hoạt động của trung tâm GDQP&AN liên kết giáo dục QP&AN của các
trường cao đẳng, cơ sở giáo dục đại học…
Để đáp ứng kỳ vọng của chính phủ nhằm kiến tạo một trung tâm đào tạo đại
học, sau đại học và nghiên cứu khoa học - công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực, chất
lượng cao, làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục đại học, đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế - xã hội; Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập vào năm
1995, hướng theo mơ hình đơ thị đại học hiện đại, ĐHQG TP.HCM là một trong
những cơ sở giáo dục lớn nhất Việt Nam, với 27 đơn vị đào tạo, nghiên cứu khoa
học, chuyển giao cơng nghệ trực thuộc, trong đó có Trung tâm giáo dục quốc phịng
và an ninh. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 69.000 sinh viên đại
học chính quy; chương trình đào tạo gồm 138 ngành và nhóm ngành thuộc các lĩnh
vực kỹ thuật công nghệ, khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn, khoa học
kinh tế, khoa học sức khỏe, nơng nghiệp, quốc phịng và an ninh. Qua 25 năm hình
thành và phát triển, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến xây dựng
một hệ thống đại học hàng đầu Châu Á, nơi hội tụ của khoa học, cơng nghệ, văn
hóa và tri thức Việt Nam.
Với tư cách là đơn vị trực thuộc của ĐHQG TP.HCM, thực hiện nhiệm vụ
được giao và theo phân luồng liên kết giáo dục QP&AN đối với các trường cao
đẳng, cơ sở giáo dục đại học; hàng năm, Trung tâm Giáo dục quốc phòng và an
ninh đào tạo cho khoảng 40.000 sinh viên trong và ngoài hệ thống ĐHQG
TP.HCM. Qua tổng hợp kết quả giảng dạy trong những năm gần đây, quy mô đào
2


tạo giáo dục pháp luật về QP&AN của Trung tâm ngày càng tăng lên, cần phải có
sự thay đổi lớn về cơ sở đào tạo, đội ngũ giảng viên, chương trình, phương tiện,
trang thiết bị giảng dạy cho mơn học phù hợp; mặt khác, thực hiện yêu cầu tinh
gọn, nâng chất lượng nên tổ chức biên chế quân đội có sự điều chỉnh giảm lực
lượng thường trực, hiện đã giải thể các trường quân sự cấp tỉnh, dẫn đến hệ thống
các trung tâm giáo dục QP&AN giảm theo, giảng viên là sĩ quan quân đội biệt phái

cũng giảm dần theo lộ trình. Từ đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật phải thay
đổi cho phù hợp thực tiễn, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, bồi
dưỡng, phổ biến kiến thức pháp luật về QP&AN trong tình hình mới.
Từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên cứu và lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật
về quốc phòng, an ninh cho sinh viên từ thực tiễn ĐHQG TP.HCM” là hết sức cần
thiết và có ý nghĩa đối với sự phát triển của ĐHQG TP.HCM. Đồng thời, đáp ứng
được yêu cầu nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục pháp luật về QP&AN cho
sinh viên hiện nay theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có rất nhiều quan điểm, nhiều đề tài nghiên cứu về giáo dục pháp luật nói
chung và giáo dục pháp luật về quốc phịng, an ninh nói riêng. Trong đó, giáo dục
pháp luật như giáo dục nhân cách, phẩm chất của một con người đã được nhiều tác
giả bàn luận như Mác và Ăngghen đã xác định “…cũng như nhà nước, pháp luật là
sản phẩm của sự phát triển xã hội. Pháp luật khơng phải là ý chí của thượng đế hay
của một lực lượng siêu nhiên nào ngoài trái đất gán ghép vào xã hội. Pháp luật nảy
sinh trong đời sống xã hội, là kết quả của sự biến đổi xã hội từ xã hội khơng có giai
cấp sang xã hội có giai cấp”. Theo quan điểm Mác – Lênin thì “pháp luật ra đời và
tồn tại gắn liền với xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa
mang tính khách quan (sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội đã phát triển đến một
giai đoạn nhất định) vừa mang tính chủ quan (phụ thuộc ý chí nhà nước, của giai
cấp, lực lượng thống trị)”.
3


Nghiên cứu giáo dục pháp luật về QP&AN đã được các tác giả trong và ngoài
nước đi sâu nghiên cứu, có thể giới thiệu đến các cơng trình nghiên cứu, bài viết
tiêu biểu như sau:
Tác giả Trung tướng Nguyễn Duy Nguyên (2018), trong bài viết "Luật Quốc
phòng 2018 – Bước phát triển mới về tư duy bảo vệ Tổ quốc”, đã nêu lên thực tiễn

hoạt động giáo dục quốc phòng những năm gần đây và những thách thức cho giáo
dục pháp luật QP&AN trong các nhà trường, Trung tâm giáo dục quốc phịng an
ninh trên cả nước, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc tăng cường khả năng
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy nhiên, tác giả vẫn chưa đi sâu phân tích
q trình hoạt động giáo dục pháp luật về QP&AN cho sinh viên từ thực tiễn.
Đề tài cấp Nhà nước của tác giả PGS.TS.NGND Lê Minh Vụ (2006) với
nghiên cứu “Đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia”.
Trong đề tài nghiên cứu này, tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
đổi mới giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia, trong đó nhắc đến
đổi mới Luật Giáo dục quốc phịng. Đề tài của ơng đã đề xuất các giải pháp để thực
hiện đổi mới trong Luật giáo dục quốc phịng. Đóng góp quan trọng của đề tài đối
với lĩnh vực quản lý nhà nước về giáo dục QP&AN là sự phát hiện những bất cập,
hạn chế trong việc thực hiện Nghị định số 15/2001/NĐ-CP ngày 01 tháng 5 năm
2001 của Chính phủ về giáo dục quốc phịng. Tuy nhiên, đề tài này chỉ tập trung
nghiên cứu công tác giáo dục quốc phòng trong hệ thống giáo dục quốc gia trước
thời điểm có Luật Giáo dục quốc phịng và an ninh năm 2013 có hiệu lực thi hành.
Tác giả TS. Lê Viết Duyên (23/02/2020) trong bài viết “Vận dụng nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong nhận diện tình hình thế
giới hiện nay” đã chỉ ra những biến động nhanh chóng, khó lường cũng như những
thành tựu to lớn của Cách mạng công nghiệp 4.0 và từ những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng ta nhìn rõ bản chất sự
vận động của tình hình thế giới. Đó cũng là cơ sở vững chắc cho việc hoạch định,
thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, định hướng nghiên cứu
4


điều chỉnh, bổ sung Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh phù hợp với tình hình đổi
mới và hội nhập sâu rộng của đất nước ta.
Tác giả Lương Cường (13/02/2020) với bài viết trong Tạp chí Cộng sản “ Tiếp
tục hồn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, tác giả đã cụ thể hóa mục tiêu,
của quan điểm trên; là bước tiến quan trọng, định hướng giáo dục một cách đồng bộ
đường lối, quan điểm của Đảng, nhất là những tư duy, quan điểm mới về QP&AN,
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Tuy nhiên, tác giả chưa nêu bật được vai trị, vị
trí của thế hệ trẻ, nhất là của lực lượng sinh viên cũng như trách nhiệm của sinh
viên trong việc nâng cao nhận thức thực thi pháp luật về quốc phịng, an ninh trong
tình hình mới.
Tác giả Trung tướng Hoàng Châu Sơn (2012) trong bài viết “ Cơ sở lý luận và
thực tiễn xây dựng Luật giáo dục quốc phòng và an ninh”, được tác giả đăng trên
Tạp chí quốc phịng tồn dân, đã nêu lên được các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
có ý nghĩa quan trọng góp phần ban hành Luật Giáo dục Quốc phòng và an ninh
năm 2013. Những nội dung của bài viết này có giá trị thực tiễn sâu sắc, nếu vận
dụng bổ sung vào luận văn và triển khai trong thực tiễn quản lý, giáo dục sẽ tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động của sinh viên đối với nhiệm vụ
củng cố nền QP&AN, đáp ứng yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam.
Tóm lại, những cơng trình, tác phẩm nghiên cứu đã chỉ ra các cơ sở lý luận và
thực tiễn về vai trò giáo dục pháp luật nói chung, cũng như giáo dục pháp luật
QP&AN nói riêng, giới thiệu phương pháp tiếp cận sát với nội dung, đối tượng
nghiên cứu. Tuy nhiên, chưa có cơng trình hay tác phẩm nào đề cập đến giáo dục
pháp luật về quốc phòng và an ninh cho sinh viên từ thực tiễn ĐHQG TP.HCM
mang tính hệ thống và có chiều sâu, chính vì vậy đây là cơ sở để tác giả lựa chọn
nghiên cứu nội dung đề tài.

5


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.


Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước về giáo
dục QP&AN, được áp dụng cho sinh viên ĐHQG TP.HCM. Tập trung phân tích,
đánh giá kết quả thực hiện các quy định của pháp luật về quốc phòng an ninh, các
yếu tố tác động và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả việc giáo dục pháp luật về
quốc phòng và an ninh cho sinh viên ĐHQG TP.HCM.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những cơ sở lý luận và pháp lý về thực hiện giáo dục pháp luật
về QP&AN cho sinh viên ĐHQG TP.HCM.
Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục quốc phòng an ninh cho sinh viên từ
thực tiễn ĐHQG TP.HCM.
Đề xuất các giải pháp tăng cường hiệu lực, hiệu quả giáo dục pháp luật về
QP&AN cho sinh viên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Áp dụng cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học theo phân luồng liên kết
đang theo học giáo dục pháp luật về QP&AN tại ĐHQG TP.HCM.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện các quy phạm pháp luật về QP&AN
cho sinh viên.
Về không gian: đánh giá thực tiễn trong hệ thống ĐHQG TP.HCM.
Về thời gian: từ tháng 01/2015 đến hết tháng 12/2019; ngoài ra, vẫn nghiên
cứu các văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.


Cơ sở lý luận

Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng và
6


pháp luật của Nhà nước về giáo dục QP&AN; đồng thời tác giả vận dụng quan
điểm tiếp cận hệ thống – cấu trúc, quan điểm logic, lịch sử và quan điểm thực tiễn
để xem xét, phân tích những vấn đề liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, so sánh, logic, kết hợp
nghiên cứu của lý luận với tổng kết thực tiễn. Ngồi ra, cịn sử dụng phương pháp
điều tra xã hội học để thu nhập thêm các thông tin về thực hiện quy định pháp luật
giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên từ thực tiễn ĐHQG TP.HCM.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1.

Ý nghĩa lý luận

Luận văn hệ thống hóa lý thuyết về chính sách, pháp luật giáo dục quốc phòng
an ninh, làm rõ cơ sở lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học xác định vị trí, vai
trị, tầm quan trọng cơng tác giáo dục quốc phịng an ninh cho sinh viên tại ĐHQG
TP.HCM góp phần làm phong phú thêm lý luận về giáo dục QP&AN sinh viên tồn
quốc trong tình hình mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn chỉ ra một số hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật về QP&AN
cần được nghiên cứu một cách toàn diện, thấu đáo như: đề án đào tạo giáo viên,
giảng viên giáo dục QP&AN; quyết định về phê duyệt quy hoạch hệ thống Trung
tâm GDQP&AN giai đoạn 2015 - 2020 và những năm tiếp theo; quy định về cơ

chế, quản lý học phí, quy định về giờ chuẩn của giảng viên; chương trình giáo dục
QP&AN trong trường THSP, CĐSP và cơ sở giáo dục đại học... Từ đó cung cấp
những luận cứ khoa học góp phần hoạch định chính sách, pháp luật về giáo dục
quốc phịng và an ninh, mang lại hiệu quả thiết thực nhằm đạt được mục tiêu giáo
dục quốc phòng và an ninh đề ra trong hệ thống ĐHQG TP.HCM.
7. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo. Nội
dung luận văn được bố cục theo 03 chương sau:
7


Chương 1: Những vấn đề lý luận giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh
cho sinh viên.
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh cho sinh
viên tại Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp
luật về quốc phòng và an ninh cho sinh viên từ thực tiễn Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN GIÁO DỤC PHÁP LUẬT VỀ
QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH CHO SINH VIÊN
1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của giáo dục pháp luật về Quốc phòng và An
ninh cho sinh viên
1.1.1. Giáo dục quốc phòng và an ninh
Giáo dục quốc phòng và an ninh là một bộ phận của nền giáo dục quốc dân,
việc phổ cập và tăng cường giáo dục QP&AN là nhiệm vụ chung của Đảng, Nhà

nước và toàn xã hội, được chỉ đạo, tổ chức thực hiện chặt chẽ, thống nhất từ trung
ương đến địa phương bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng. Giáo dục
QP&AN đối với học sinh, sinh viên ở các loại hình đào tạo được triển khai trong
chương trình đào tạo chính khóa, thơng qua giáo dục QP&AN đã tạo được sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của học sinh, sinh viên đối với
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới. Nghị
định số 116/2007/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2007 của Chính phủ về Giáo dục
quốc phòng – an ninh đã xác định: “Giáo dục quốc phòng – an ninh là bộ phận của
nền giáo dục quốc dân, một nội dung cơ bản trong xây dựng nền quốc phịng tồn
dân, an ninh nhân dân; là mơn học chính khóa trong chương trình giáo dục, đào tạo
trung học phổ thông đến đại học và các trường chính trị, hành chính, đồn thể”.
Có thể nói việc giáo dục quốc phòng và an ninh là quyền lợi và nghĩa vụ của
tồn dân; trong đó, việc dạy và học mơn giáo dục quốc phịng và an ninh cho học
sinh, sinh viên được xác định là một bộ phận, một nội dung quan trọng trong
chương trình học của hệ thống giáo dục quốc dân. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng
môn học, cần phải nắm vững và tuân theo những quy luật, nguyên tắc sư phạm
chung mà khoa học giáo dục đã chỉ ra, đồng thời phải tính đến những đặc điểm
riêng của môn học Giáo dục QP&AN để vận dụng những luận điểm sư phạm chung
một cách sáng tạo, linh hoạt có hiệu quả.

9


Mơn học giáo dục quốc phịng và an ninh nhằm trang bị cho học sinh, sinh
viên về kiến thức QP&AN để phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống dựng nước
và giữ nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc, ý thức sống và làm việc theo pháp luật
nâng cao ý thức, trách nhiệm, tự giác thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh,
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Giáo dục quốc phòng và an ninh là hoạt
động có tổ chức, nhằm tác động có hệ thống đến ý thức, trách nhiệm của công dân

trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bằng các biện pháp phù hợp với từng
đối tượng, do toàn bộ hệ thống chính trị nước ta thực hiện.
Qua khái niệm nêu trên, ta cần làm rõ chủ thể giáo dục, đối tượng giáo dục
gồm những cá nhân, tổ chức nào? Nội dung giáo dục là gì ? Hình thức giáo dục ra
sao ?
1.1.1.1. Chủ thể và đối tượng giáo dục quốc phòng và an ninh
Giáo dục quốc phòng và an ninh là trách nhiệm của hệ thống chính trị và
tồn dân, trong đó Nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Chủ thể giáo dục QP&AN được
xác định trước tiên là Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về giáo dục QP&AN
trong phạm vi cả nước; Bộ Quốc phịng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an, Bộ Giáo
dục và Đào tạo giúp chính phủ thực hiện quản lý về giáo dục QP&AN; Bộ, cơ quan
ngang bộ phối hợp với Bộ Quốc phòng thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục
QP&AN theo thẩm quyền; UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ quyền hạn của
mình thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục QP&AN tại địa phương. Ngoài ra,
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, có trách nhiệm phối hợp tổ
chức phổ biến kiến thức QP&AN cho đồn viên, hội viên của mình; Hội đồng giáo
dục QP&AN các cấp được thành lập ở trung ương, quân khu, cấp tỉnh, huyện, xã có
chức năng phối hợp liên ngành làm tham mưu, tư vấn cho Đảng, chính quyền các
cấp về công tác giáo dục QP&AN. Mặt khác người đứng đầu cơ quan, tổ chức có
trách nhiệm chỉ đạo, tổ chức thực hiện hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, tổ chức thuộc
quyền thực hiện quy định của pháp luật về giáo dục QP&AN.
10


Đối tượng giáo dục quốc phòng và an ninh được áp dụng tại nước ta hiện nay
rất rộng, bao gồm cả cá nhân và tập thể, cả công nhân Việt Nam và người nước
ngoài, như áp dụng cho các đối tượng là cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam và tổ
chức, cá nhân người nước ngoài cư trú, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có trách
nhiệm tuân theo quy định của Luật giáo dục quốc phòng và an ninh và pháp luật có
liên quan về quốc phịng và an ninh.

1.1.1.2. Nội dung và hình thức
Để cơng tác giáo dục quốc phòng và an ninh đi vào chiều sâu, góp phần làm
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm của cơng dân đối với sự nghiệp
quốc phịng toàn dân và an ninh nhân dân; nội dung và hình thức giáo dục quốc
phịng và an ninh phải phù hợp với từng đối tượng, thường xuyên được cập nhật,
đổi mới đáp ứng kịp thời tình hình thực tiễn, nên nội dung và hình thức giáo dục
pháp luật về QP&AN cũng rất đa dạng, linh hoạt, phù hợp với điều kiện học tập,
sinh sống của các đối tượng, các địa bàn, lĩnh vực hoạt động như giáo dục pháp luật
về QP&AN trong nhà trường, bồi dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng, phổ
biến kiến thức quốc phòng và an ninh.
Vì vậy, cơng tác giáo dục quốc phịng và an ninh trong hệ thống giáo dục
quốc dân được quy định cụ thể trong từng cấp học và loại hình đào tạo như giáo
dục QP&AN đối với trường tiểu học, trung học cơ sở được thực hiện lồng ghép
thông qua nội dung các mơn học trong chương trình, kết hợp với hoạt động ngoại
khóa phù hợp với lứa tuổi, với nội dung là những hiểu biết ban đầu về truyền thống
dựng nước và giữ nước của dân tộc, lực lượng vũ trang nhân dân, ý thức kỷ luật,
tinh thần đoàn kết, yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; đối với trường trung học phổ thơng,
trung cấp chun nghiệp, trung cấp nghề thì giáo dục QP&AN là mơn học chính
khóa, tổ chức dạy và học theo phân phối chương trình, trong năm học, căn cứ vào
điều kiện cụ thể, phối hợp với cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan tổ chức cho học
sinh học tập ngoại khóa với nội dung và hình thức thích hợp với nội dung là những
hiểu biết ban đầu về nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, về truyền thống
11


chống giặc ngoại xâm của dân tộc, về lực lượng vũ trang nhân dân và nghệ thuật
quân sự Việt Nam; kiến thức cơ bản về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự, sẵn
sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc; đối với trường cao đẳng nghề, cơ
sở giáo dục đại học cũng xác định là mơn học chính khóa, được tổ chức dạy và học
tập trong tại các trung tâm giáo dục QP&AN hoặc trường cao đẳng nghề, cơ sở

giáo dục đại học; trong chương trình đào tạo, căn cứ vào điều kiện cụ thể phối hợp
với cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan tổ chức cho người học nghiên cứu, học tập
ngoại khóa với nội dung và hình thức phù hợp; với nội dung là những kiến thức cơ
bản về quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quốc phịng và
an ninh; xây dựng nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận
quốc phịng tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lương vũ
trang nhân dân, bổ sung kiến thức về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự, sẵn
sàng thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc; đối với các trường của cơ quan
nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội cũng xác định giáo dục
QP&AN là mơn học chính khóa, căn cứ chương trình khung của Bộ Quốc phịng và
quy định của cơ quan có thẩm quyền mà trường của cơ quan nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xây dựng và thực hiện chương trình, nội dung
giáo dục QP&AN đối với người học trong trường; với nội dung học là quan điểm
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quốc phòng và an ninh, nghệ thuật
quân sự Việt Nam, tình hình nhiệm vụ QP&AN, khu vực phòng thủ, phòng thủ dân
sự, kết hợp kinh tế với QP&AN, kết hợp QP&AN với đối ngoại.
Ngồi việc giáo dục QP&AN trong nhà trường thì cơng tác bồi dưỡng kiến
thức QP&AN cho các đối tượng khác cũng được Đảng, Chính phủ, và chính quyền
địa phương đặc biệt quan tâm, chương trình nội dung, hình thức, thời gian bồi
dưỡng kiến thức QP&AN cho các đối tượng được quy định cụ thể như sau: Bồi
dưỡng kiến thức QP&AN đối với đối tượng trong cơ quan, tổ chức của Nhà nước,
tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được thực hiện trong phạm vi cả nước,
hình thức, nội dung bồi dưỡng phù hợp với tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh
12


đạo, quản lý và yêu cầu nhiệm vụ, nội dung bồi dưỡng kiến thức QP&AN tập trung
vào chính sách, pháp luật của Nhà nước về QP&AN; đối với người quản lý doanh
nghiệp ngoài khu vực nhà nước, đơn vị sự nghiệp ngồi cơng lập phải tham gia bồi
dưỡng kiến thức QP&AN, riêng đối với người nước ngồi thì khơng áp dụng bồi

dưỡng kiến thức QP&AN theo Khoản 4, Điều 15, Luật giáo dục QP&AN năm
2013; đối với cá nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư thì căn cứ
chương trình khung của Bộ Quốc phịng, hướng dẫn của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền, nhiệm vụ quốc phòng – an ninh của địa phương, UBND cấp tỉnh xây dựng
và thực hiện chương trình, nội dung bồi dưỡng kiến thức QP&AN phù hợp với cá
nhân tiêu biểu, người có uy tín trong cộng đồng dân cư như chức sắc, chức việc tôn
giáo, già làng, trưởng họ tộc, nhà hoạt động văn hóa, xã hội, khoa học, nghệ thuật.
Đồng thời, công tác phổ biến kiến thức QP&AN cho tồn dân trong tình hình hiện
nay được đầu tư, triển khai sâu rộng, linh hoạt kịp thời, đa dạng các hình thức như
thơng qua báo cáo viên, tun truyền viên và các phương tiện thông tin đại chúng,
các buổi sinh hoạt cộng đồng dân cư, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ
chức đoàn thể, hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao, hoạt động của thiết
chế văn hóa cơ sở và các hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống, lồng ghép vào
các đợt gọi công dân nhập ngũ, ngày kỷ niệm, ngày truyền thống hoặc thông qua
hoạt động của các cơ quan, tổ chức quản lý di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, khu
bảo tồn thiên nhiên, khu tưởng niệm, đài kỷ niệm, nghĩa trang liệt sỹ, nhà truyền
thống, nhà bảo tàng, cung văn hóa, thể thao thanh niên, thiếu niên, câu lạc bộ thể
thao quốc phịng và các hình thức khác phù hợp với tình hình thực tế của từng địa
phương và cộng đồng dân cư; nội dung trọng tâm phổ biến kiến thức QP&AN là
những hiểu biết cần thiết về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch;
nhiệm vụ QP&AN trong từng thời kỳ; phòng thủ dân sự; trách nhiệm của công dân
đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

13


Điều cần lưu ý là mọi cơng dân có quyền và trách nhiệm học tập, nghiên cứu
để nắm vững kiến thức QP&AN. Đồng thời công dân không được lợi dụng hoạt
động giáo dục QP&AN để tuyên truyền xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước; tiết lộ bí mật Nhà nước; tuyên truyền chính
sách thù địch, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; cản trở việc thực hiện giáo
dục QP&AN và các hành vi vi phạm khác theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Giáo dục pháp luật
Từ ngàn xưa, con người đã sử dụng giáo dục như là một công cụ để truyền
bá tri thức, truyền dẫn những giá trị đạo đức nhằm xây dựng xã hội phát triển. Ở
nước ta, phát triển giáo dụ
c được xem là cơ sở để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược
phát triển con người theo định hướng XHCN; trong Cương lĩnh xây dựng đất trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta đã khẳng định: “ Giáo dục và
đào tạo gắn liền với sự nghiệp phát triển kinh tế, phát triển khoa học, kỹ thuật, xây
dựng nền văn hóa mới và con người mới”. Vai trị của giáo dục ngày càng tăng lên.
cùng với sự khẳng định vai trò quyết định của con người trong phát triển kinh tế xã hội.
Tuy nhiên, để xã hội phát triển đúng hướng, bền vững cần phải có sự điều
chỉnh của pháp luật. Do đó, giáo dục pháp luật là yêu cầu bắt buộc, một nhu cầu
thực tế nhằm xây dựng một xã hội có trật tự, kỷ cương, thượng tơn pháp luật,
hướng con người thực hiện các quy phạm pháp luật và những quy chuẩn xã hội.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể đưa ra khái niệm giáo dục pháp luật như
sau: Giáo dục pháp luật là một dạng hoạt động có tổ chức, có mục đích, có tính
định hướng của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân (chủ thể giáo
dục), tác động lên các đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên
nhằm hình thành ở họ tri thức pháp luật và hành vi xử sự phù hợp với quy định của
pháp luật.
14


Qua khái niệm trên đã xác định chức năng giáo dục của pháp luật được thực
hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức của con người, vào hành vi của
con người, hướng họ xử lý theo cách thức phù hợp với ý chí của Nhà nước. Chức

năng giáo dục của pháp luật còn được thực hiện thơng qua hoạt động xây dựng
pháp luật, qua các hình thức giáo dục ý thức pháp luật và qua hoạt động áp dụng
pháp luật trên thực tế.
Giáo dục pháp luật nhằm trang bị tri thức pháp luật; định hướng hành vi
pháp luật và bồi dưỡng tình cảm, thái độ, trách nhiệm của công dân sống và làm
việc phải tuân theo pháp luật, có trách nhiệm với cộng đồng để xây dựng xã hội văn
minh, ấm no, hạnh phúc, xây dựng thái độ, tình cảm tơn trọng pháp luật và tạo thói
quen tn thủ pháp luật.
Cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật khâu đầu tiên của quá trình thi hành
pháp luật và có ý nghĩa, vai trị hết sức quan trọng trong việc tăng cường pháp chế
XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Xuất phát từ vai trị, ý nghĩa quan trọng của công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến cơng tác này.
Vì vậy, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật được xác định là trách nhiệm
của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt và đảm bảo
nguồn lực cần thiết thực hiện nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật.
Để thực hiện chức năng, mục tiêu phổ biến, giáo dục pháp luật một cách có
hệ thống, thường xuyên và hiệu quả, cần xác định rõ chủ thể phổ biến, giáo dục
pháp luật. Theo Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 và các văn bản hướng
dẫn thi hành thì chủ thể giáo dục pháp luật gồm cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức phổ biến, giáo dục
pháp luật; tùy theo từng đối tượng mà chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật có thể là
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Tịa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân và Kiểm toán Nhà nước, chính quyền các cấp ở địa phương như Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp; cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản
15


lý cán bộ, công chức, viên chức; Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận; các tổ chức hành nghề về pháp luật, cơ sở đào tạo Luật, cơ

sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp, các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục
quốc dân; đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; cán bộ, công
chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; cịn đối với cá nhân
thì tùy theo phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình áp dụng hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật phù hợp.
Về đối tượng được phổ biến, giáo dục pháp luật, đây là nội dung quan trọng
nhằm cụ thể hóa quyền cơ bản của công dân được quy định trong Hiến pháp Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam. Luật phổ biến, giáo dục pháp luật khẳng định cơng dân
Việt Nam, có quyền được thơng tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm
hiểu, học tập pháp luật. Trong quá trình thực hiện cần chú trọng công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật cho người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo, ven biển, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn và ngư dân.
Về nguyên tắc nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật phải bao quát tất cả các
văn bản quy phạm pháp luật được ban hành. Nhưng do số lượng văn bản quy phạm
pháp luật được ban hành rất nhiều, liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội nên để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật hiệu quả, thiết thực thì cần lựa
chọn các lĩnh vực liên quan trực tiếp, thường xuyên đến đời sống và hoạt động
nghề nghiệp của người dân hoặc tác động trực tiếp đến những ngành, lĩnh vực nhất
định, phù hợp với tình hình thực tiễn trên từng địa bàn cụ thể. Do đó, Luật phổ
biến, giáo dục pháp luật đã quy định nội dung phổ biến, giáo dục là quy định của
Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, trọng tâm là quy định của pháp luật
về dân sự, hình sự, hành chính, hơn nhân và gia đình, bình đẳng giới, đất đai, xây
dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế, quốc phịng, an ninh, giao thơng,
quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
cán bộ, công chức, các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành; các điều
16


ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên, các thỏa thuận

quốc tế khác.
Bên cạnh các quy định của pháp luật, nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật
còn bao gồm tuyên truyền, giáo dục ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức
bảo vệ pháp luật; lợi ích của việc chấp hành pháp luật; những gương người tốt việc
tốt trong thực hiện pháp luật nhằm góp phần tạo niềm tin vào pháp luật, xây dựng
con người mới vừa có hiểu biết pháp luật, vừa có được ý thức chấp hành pháp luật
một cách tự giác.
Luật phổ biến, giáo dục pháp luật đã quy định các hình thức phổ biến, giáo
dục pháp luật đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng tốt nhất quyền lợi và nhu cầu tìm
hiểu pháp luật cho mọi đối tượng trong xã hội, bảo đảm việc phổ biến, giáo dục
pháp luật có hiệu quả.
1.1.3. Giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh
Giáo dục pháp luật về QP&AN là một bộ phận của giáo dục pháp luật nhằm
duy trì trật tự xã hội trên lĩnh vực QP&AN, góp phần xây dựng nền quốc phịng
tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh; hướng tới thực hiện thắng lợi hai nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở nghiên cứu các thành tựu, cơng trình khoa học và vận dụng những
nghiên cứu về truyền thống lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta trong xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, tôi xin đưa ra khái niệm giáo dục pháp luật về quốc phòng và an
ninh như sau: “Giáo dục pháp luật về QP&AN là tổng thể những giá trị tri thức
của con người về các vấn đề xây dựng, triển khai, áp dụng và thực thi các quy
phạm pháp luật về QP&AN. Nó là một bộ phận của giáo dục quốc dân nhằm
hướng đến giáo dục cho công dân lòng yêu nước, ý thức tự giác, trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ QP&AN, xây dựng nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân,
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
Trong khái niệm giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh phải đảm bảo
các cấu trúc khoa học như sau:
17



Giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh là một hệ thống tri thức của
con người về vấn đề QP&AN được đúc kết, truyền lại cho các thế hệ. Trong lịch sử
của nhân loại, giai cấp nào giữ địa vị thống trị xã hội cũng đều coi trọng củng cố
QP&AN, xây dựng lực lượng vũ trang, chăm lo phịng thủ quốc gia, giữ vững độc
lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ đất nước, để đảm bảo lợi ích của giai cấp thống
trị nên pháp luật được ra đời, theo học thuyết Mác - Lênin, pháp luật chỉ phát sinh,
tồn tại và phát triển trong xã hội có giai cấp.
Giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh là một bộ phận của giáo dục
pháp luật quốc dân, do vậy nó phải đảm bảo từ các khâu: xây dựng pháp luật (soạn
thảo), triển khai (sử dụng) và thực hiện pháp luật liên quan lĩnh vực QP&AN trong
đời sống xã hội.
Mục đích giáo dục pháp luật về quốc phịng và an ninh là nhằm xây dựng
nền quốc phịng tồn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, toàn diện; bảo vệ Đảng,
bảo vệ sự tồn vong của chế độ, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
Qua thực hiện giáo dục pháp luật về QP&AN nhằm truyền bá những tri thức
pháp luật liên quan đến quốc phòng và an ninh cho sinh viên, giúp sinh viên nâng
cao kiến thức, nhận thức pháp luật về QP&AN, từ đó xây dựng ý thức tự giác, tinh
thần trách nhiệm của công dân đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, nhằm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, cơng bằng,
văn minh.
Có thể nói, nghiên cứu giáo dục pháp luật về quốc phòng và an ninh cho sinh
viên là một nhu cầu khách quan, có ý nghĩa thực tiễn cần tập trung nghiên cứu, tổ
chức triển khai ngày càng tốt hơn. Từ những luận giải trên, để làm rõ nội hàm của
khái niệm giáo dục pháp luật về QP&AN, tơi xin phép đề cập đến nội dung, hình
thức, phương pháp giáo dục pháp luật về QP&AN cho sinh viên.

18



×