Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

luận văn thạc sĩ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo người chăm từ thực tiễn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.56 KB, 83 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH SANG

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO
CỦA NGƯỜI CHĂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THANH SANG

BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO
CỦA NGƯỜI CHĂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN GIANG

Ngành: Luật Hiến Pháp và Luật Hành Chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ THỊ KIM ĐỊNH

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu trong
luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của luận văn chưa từng được
công bố trong các công trình khác,
Tp. Hồ Chí Minh, ngày ....... tháng ....... năm
2020
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN

NGƯỠNG, TƠN GIÁO.......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo..............8
1.2. Nội dung bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.................................... 15
1.3. Các điều kiện bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.............................18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG,
TƠN GIÁO CỦA NGƯỜI CHĂM TẠI TỈNH AN GIANG............................... 25
2.1. Các yếu tố ảnh hưởng tới quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người Chăm
tại tỉnh An Giang.................................................................................................. 25
2.2. Thực tiễn bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của người Chăm tại tỉnh
An Giang.............................................................................................................. 29
2.3. Đánh giá chung về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,tơn giáo của người Chăm
tại tỉnh An Giang.................................................................................................. 50
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO TÍN
NGƯỠNG, TƠN GIÁO CỦA NGƯỜI CHĂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH AN
GIANG................................................................................................................... 56
3.1. Quan điểm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.................................56
3.2. Giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo................................... 59

KẾT LUẬN............................................................................................................ 71


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ công chức

CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐBSCL

Đồng bằng sơng Cửu Long

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam

DTTS

Dân tộc thiểu số

GDPL

Giáo dục pháp luật

GDPL


Giáo dục pháp luật

HĐND

Hội đồng nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội

NTM

Nơng thơn mới

TN-TG

Tín ngưỡng, tôn giáo

TTPBPL

Tuyên truyền, phổ biến pháp luật

UBND

Ủy ban nhân dân

XĐGN

Xóa đói giảm nghèo



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam là một quốc gia có nhiều tín ngưỡng, tơn giáo nên số lượng các nhà
tu hành đơng, các tín đồ nhiều và đa dạng. Bởi vậy, tơn giáo khơng cịn là vấn đề
nhỏ tập trung vào một nhóm thiểu số nữa mà đã là quan hệ xã hội phức tạp, cần có
sự điều chỉnh tồn diện về mặt pháp luật trong nước.
Cụ thể hóa quy định tại Điều 24 Hiến pháp năm 2013 "Mọi người có quyền tự
do tín ngưỡng, tơn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào", Luật tín ngưỡng,
tơn giáo quy định chủ thể thực hiện quyền tự do TN-TG là mọi người (khoản 1 Điều
6). Bên cạnh đó, Luật cũng quy định mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin TN-TG;
thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn
giáo; quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng
về tôn giáo. Đối với người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn giáo hoặc học tại
cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.Đối với người
bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về tạm giữ, tạm giam;
người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc có quyền sử dụng
kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tơn giáo.
Như vậy, quyền tự do TN-TG là quyền của tất cả mọi người và quyền này
không bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi.
Nhà nước Việt Nam thừa nhận và bảo đảm cho mọi cơng dân có hoặc khơng có
TN-TG đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi; khơng có sự phân biệt đối xử vì những
lý do TN-TG. Các tôn giáo được nhà nước thừa nhận đều bình đẳng trước pháp luật.
Mọi người cần ý thức tôn trọng quyền tự do TN-TG của người khác, đồng thời chống
lại các phần tử lợi dụng tôn giáo chống lại giai cấp công nhân, lợi ích dân tộc. Qua đó
nhà nước ta xem thấy sự tích cực trong tham gia các cơng tác xây dựng bảo vệ tổ quốc,
cùng chính quyền các cấp xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng nơng thơn mới,

phát triển kinh tế xã hội đặt biệt là cùng chung tay với nhà nước cứu trợ thiên tai, chăm
lo giúp đỡ người có hồn cảnh khó khăn. Cho nên tôn giáo cũng

1


góp phần quan trọng trong đời sống xã hội, vì vậy nhà nước đã mở rộng quyền tự do
TN-TG cho các tôn giáo nhằm nâng cao tin thần lá lành đùm lá rách trong thời kỳ
hội nhập hiện nay.
Ở Việt Nam tín đồ đạo Hồi chủ yếu là người Chăm. Theo tư liệu lịch sử người

Chăm đã theo đạo Hồi từ thế kỹ thứ X-XI trong đó có hai khối đạo Hồi, một là theo
khối đạo Hồi tại tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận là khối đạo Hồi giáo cũ còn được gọi là
người Chăm Bà Ni, hai là khối đạo Hồi theo người Chăm tại Châu Đốc tỉnh An
Giang, thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Đồng Nai, là khối đạo hồi mới hay còn gọi
là Chăm Islam. Hiện nay đạo hồi ở Việt Nam có khoảng 80.000 tín đồ, 89 cơ sở thờ tự
lớn nhỏ, 1062 chức sắc, chức việc, 07 tổ chức Hồi giáo được nhà nước công nhận. Tôn
giáo luôn là vấn đề hết sức nhảy cảm và phức tạp, các thế lực thù địch thường lợi dụng
tôn giáo xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá cách mạng, kích động tín đồ làm mất
an ninh trật tự, an tồn xã hội làm cho chính trị bất ổn, kinh tế không phát triển. Vì vậy,
công tác tôn giáo luôn là nhu cầu cấp thiết. Đảng và nhà nước ln định hướng, phát
huy tối đa vai trị của những người có uy tín, tiêu biểu, các vị chức sắc, chức việc và
nhà tu hành ở khu dân cư để tuyên truyền các nội dung về chính sách đại đồn kết tồn
dân tộc, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào vùng sâu, vùng
xa, vùng cịn gặp nhiều khó khăn riêng ở tỉnh An Giang hiện nay có nhiều tơn giáo
đang sinh hoạt, hoạt động tơn giáo trên tồn tỉnh trong đó có đặc thù hai tơn giáo đó là
tơn giáo khơme hay cịn gọi là Phật giáo Nam Tông và đạo Hồi ở tỉnh An giang có
đơng đảo, đa số người dân tộc đang theo đạo, về mặt thực tiễn về ngôn luận và tiếp cận
với đời sống xã hội của những người dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế dẫn đến việc,
quyền tự do TN-TG cần tiếp tục nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tự

do TN-TG, góp phần cung cấp những luận cứ khoa học, đồng thời tạo cơ sở pháp lý để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đấu tranh chống lại các thế lực lợi dụng
tơn giáo, góp phần giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế, xã hội. Xuất phát từ
lý luận và thực tiễn cũng như phù hợp với yêu cầu thực tiễn công tác, tơi lựa chọn đề
tài: “Bảo đảm quyền tự do tín

2


ngưỡng, tôn giáo người Chăm từ thực tiễn tỉnh An Giang” là thực sự cần thiết về
cả mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu

Nghiên cứu về TN-TG thì có nhiều các học giả, các nhà khoa học trong và
ngoài nước nhìn nhận, đánh giá, xem xét từ những góc độ khác nhau, có thể kể đến
các cơng trình nghiên cứu dưới đây:
TS Đỗ Thị Kim Định, Thực tiễn áp dụng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Tơn giáo số 6 (132) năm 2014. Bài viết phân tích thực tiễn áp
dụng pháp luật về tôn giáo ở Việt Nam hiện nay, cả thành tựu và hạn chế, để thấy
việc hoàn thiện pháp luật về tôn giáo ở nước ta đang là một yêu cầu, một mục tiêu
trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một số vấn đề về quyền dân sự và chính trị, tập thể tác giả, chủ biên: GS.TS.
Hồng Văn Hảo - TS. Chu Hồng Thanh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1997, 288 trang.
Một số công trình khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn Động về quyền công
dân ở Việt Nam có liên quan trực tiếp đến đề tài, giúp tác giả cả về phương pháp
nghiên cứu, học thuật và nội dung nghiên cứu. Các công trình: Các quyền hiến định
về xã hội của công dân ở Việt Nam hiện nay (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội, 2004, 203 trang; Quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp
Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2005, 253 trang; Các

quyền hiến định về chính trị của cơng dân Việt Nam (sách chuyên khảo), Nhà xuất
bản tư pháp, Hà Nội, 2006, 183 trang.
TS. Đỗ Minh Hợp (chủ biên), Tôn giáo phương Đông, quá khứ và hiện tại, Nhà
xuất bản Tôn giáo, Hà Nội, 2006, 398 trang; sách đề cập đến lịch sử phát triển kinh tế xã hội, chính trị và văn hóa của các xã hội phương Đơng; sách đã trình bày hồn cảnh,
q trình hình thành các tơn giáo Phương Đơng cùng với sự tác động của nó đến xã hội.
Cuốn sách đã giúp tác giả thấy rõ những tư liệu hiện có, những tư liệu gốc về tơn giáo
Phương Đông, thấy rõ được đặc thù và bản chất của các tơn giáo, phân tích sự hoạt
động và vị trí trong đời sống xã hội và con người phương Đông.

3


Tuyên ngôn thế giới và hai công ước 1966 về quyền con người, tập thể tác giả,
Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 2002, 240 trang. Nội dung cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề cơ
bản liên quan trực tiếp đến Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền (1948), Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966), Cơng ước quốc tế về các quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa (1966); đồng thời đề cập đến việc áp dụng các nguyên tắc
và quy định trong ba văn kiện đó về thực tiễn trên thế giới và Việt Nam; giúp tác giả
củng cố những kiến thức lý luận về quyền tự do TN-TG.
Phạm Khiêm Ích (chủ biên), Quyền con người, các văn kiện quan trọng, Viện
Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội 1998, 595 trang; cuốn sách bao gồm 15 văn
kiện quan trọng, tuy khác nhau về thời gian và địa điểm ra đời, nhưng lại rất giống
nhau, nhất quán với nhau trong việc đề cao và bảo vệ các quyền tự nhiên, không thể
bị tước đoạt và thiêng liêng của con người; PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, Nhà nước và
pháp luật tư sản đương đại, lý luận và thực tiễn (sách chuyên khảo), Nhà xuất bản
Tư pháp, Hà Nội, 2008, 418 trang; cuốn sách là sự kết hợp các kiến thức trên các
lĩnh vực lý luận nhà nước và pháp luật, Luật hiến pháp nước ngồi và Luật so sánh,
từ đó đưa ra một cách nhìn toàn diện về nhà nước và pháp luật tư sản.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định trong luật pháp quốc tế và pháp
luật Việt Nam về quyền tự do TN-TG đối với cộng đồng dân tộc Chăm An giang.
Nhằm góp phần hiểu biết và đánh giá quyền tự do TN-TG của đạo Hồi An Giang
qua đó, đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện nâng cao hiệu quả công tác của cơ
quan chính quyền địa phương trong việc quản lý để bảo đảm quyền tự do TN-TG
người Chăm tại tỉnh An Giang cho phù hợp với thực tiễn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
- Phân tích, làm rõ thêm cơ sở lý luận, pháp luật về bảo đảm quyền tự do TN-TG
trên cơ sở hệ thống hóa quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh

4


của Đảng và pháp luật, quy định của Nhà nước Việt Nam.
- Nhìn nhận, đánh giá thực trạng các vấn đề bảo đảm quyền tự do TN-TG

người Chăm tại tỉnh An Giang trong những năm gần đây qua đó rút ra những hạn
chế cần khắc phục và tìm ra những nguyên nhân hạn chế đó.
- Làm rõ sự cần thiết khách quan phải bảo đảm quyền tự do TN-TG của cơ

quan thực thi pháp luật ở tỉnh An giang theo pháp luật Việt Nam hiện nay, nêu quan
điểm và các giải pháp hoàn thiện.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm quyền tự do

TN-TG người Chăm tại tỉnh An Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các khía cạnh lý luận cơ bản của việc thực hiện

pháp luật của các cơ quan chuyên trách ở địa phương nhằm bảo đảm quyền tự do TNTG người Chăm tại tỉnh An Giang, qua đó gắn liền với việc thực hiện pháp luật về tôn
giáo, về quyền tự do TN-TG của cộng đồng người Chăm; trong đó nhấn mạnh việc tơn
trọng và bảo đảm quyền tự do TN-TG phải gắn liền với cuộc đấu tranh chống những kẻ
lợi dụng TN-TG vì mục đích ngồi tơn giáo ở An giang hiện nay.

4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận của quản lý pháp
luật về tôn giáo; thực tiễn quản lý pháp luật về tôn giáo liên quan đến quản lý nhà
nước về tôn giáo chủ yếu dựa trên các quy định của pháp luật điều chỉnh trực tiếp về
cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức tôn giáo trên cơ sở số liệu minh họa
của các tổ chức tôn giáo. Việc nghiên cứu pháp luật về quản lý pháp luật có liên
quan đến tơn giáo như đất đai, xây dựng, dân sự, hình sự, không thuộc phạm vi
nghiên cứu của luận văn này.
Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu việc thực hiện pháp luật nhằm bảo
đảm quyền tự do TN-TG người Chăm tại tỉnh An Giang.
Phạm vi thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật
nhằm đưa ra một số giải pháp thực tiễn để bảo đảm quyền tự do TN-TG người Chăm

5


tại tỉnh An Giang từ năm 2016 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

5.1 Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận được sử dụng trong luận văn là phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm chỉ đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu sau:

- Luận văn được hồn thiện trên sự kế thừa các cơng trình nghiên cứu trước

đó có cùng cơ sở lý luận thực định quốc tế về quyền con người và quyền tự do TNTG, luận văn vận dụng trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, Hiến pháp
năm 2013 về quyền con người và quyền tự do TN-TG của cơng dân.
- Chương 1: Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng để phân tích,

tổng hợp những vấn đề về phương thức, thực hiện pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự

do TN-TG người Chăm tại tỉnh An Giang trong quá trình xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa .
- Chương 2: Phương pháp thống kê để tập hợp các số liệu: thống kê tổng hợp

số liệu trong quá trình thực hiện các giải pháp nhằm bảo đảm việc thực thi có hiệu
quả pháp luật về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.
- Chương 3: Phương pháp tiếp cận liên ngành được sử dụng nhằm nghiên

cứu nguồn nhân lực chất lượng cao với sự kết hợp của chuyên ngành chính trị học
với kinh tế chính trị học, dục học, trị nhân lực...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1 Ý nghĩa lý luận
Xác định công tác thực thi pháp luật với công đồng đạo Hồi ở An giang là vấn
đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách; là nhiệm vụ của tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn, của hệ thống chính trị, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách, pháp luật liên quan đến vấn đề bảo đảm quyền tự do TN-TG của
người Chăm ở tỉnh An giang là nhu cầu cấp thiết cần được quan tâm. Luận văn

6



vận dụng lý thuyết về thực thi pháp luật để nhìn nhận, đánh giá việc thực hiện các
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật; từ đó chỉ ra những bất cập của
quá trình thực thi và giải pháp tăng cường hiệu quả của quá trình thực thi pháp luật.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Đề xuất được các giải pháp thiết thực, hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do TN-TG người Chăm tại
tỉnh An Giang.
Luận văn sẽ góp phần làm phong phú hơn nguồn tư liệu phục vụ cho hoạt
động học tập và nghiên cứu khoa học về khoa học pháp lý nói chung, pháp luật về
tôn giáo, thực hiện pháp luật về tôn giáo nói riêng và cho đội ngũ cơng chức quản lý
cơng tác tôn giáo.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn được bố cục gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo.

Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người
Chăm tại tỉnh An Giang.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo của người Chăm từ thực tiễn tỉnh An Giang.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TƠN GIÁO
1.1. Khái niệm, đặc điểm của bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
* Khái niệm tín ngưỡng

- Tín ngưỡng; là một niềm tin có hệ thống như một phần cấp thấp của tôn giáo,

mà con người tin vào để giải thích thế giới và vũ trụ mà để mang lại sự thịnh vương
bình yên và thanh cao hạnh phúc cho bản thân và mọi người. Tín ngưỡng cịn là thể
hiện giá trị của cuộc sống, ý nghĩa của cuộc sống bền vững. Theo một cách hiểu đơn
giản nhất, tín ngưỡng là tin theo và tơn thờ lực lượng siêu nhiên, thần bí, hoặc là sự
vật, hiện tượng, con người có thật được thần bí hóa. Tín ngưỡng là niềm tin về
những điều linh thiêng, những sức mạnh huyền bí, vĩ đại mà con người chỉ cảm
nhận được mà khó có thể nhận thức được. Tín ngưỡng cịn thể hiện giá trị cuộc
sống, ý nghĩa cuộc sống bền vững, đơi khi được hiểu là tơn giáo hay nói chính xác
hơn, tín ngưỡng khi phát triển đến một mức nào đó thì có thể trở thành tơn giáo.
Theo Nguyễn Trần Bạt thì “tín ngưỡng là kết quả của tâm lý ngờ vực, trong đó
lớn nhất và phở biến nhất là ngờ vực ngay chính hiện tại, ngay chính những đại lượng
vật lý”[4]. Tín ngưỡng theo ơng là nơi con người nghỉ ngơi, giải trí. Hàng ngày, con
người tiếp xúc với nhiều sự kiện, nhiều hiện tượng, sự vật. Tuy nhiên, với sự tị mị,
thích khám phá con người khơng bao giờ dừng lại ở mức độ cảm nhận mà con người
luôn đi tìm cho mình câu trả lời về các sự vật, sự kiện, hiện tượng đó. Từ đó con người
thu được kiến thức, tư tưởng và tín ngưỡng. Và con người gọi là khoa học-một hệ
thống tri thức khi con người tìm hiểu nguồn gốc của mọi việc đã giải thích cho con
người về thế giới, về thực tại dường như là chưa đủ để con người hiểu hết được những
gì đang diễn ra trong đời sống của mình nhất là trong vấn đề tâm linh. Sự hạn chế này
khiến con người nảy sinh lòng tin dùng thế lực siêu nhiên, huyền bí để giải thích cho
các vấn đề mà khoa học không thể lý giải nổi như sự hiện hữu của linh hồn, chiêm tinh,
thế giới tồn tại bên ngồi thế giới đang sống do đó tín ngưỡng được hình thành.

8


* Khái niệm tôn giáo
Khái niệm tôn giáo: là một vấn đề được giới nghiên cứu về tôn giáo bàn cãi rất

nhiều. Trong lịch sử đã từng tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về tôn giáo:
- Các nhà thần học cho rằng “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần thánh và con

người”.
- Khái niệm mang khía cạnh nguồn gốc của tôn giáo của Ph.Ăngghen: “Tôn

giáo là sự phản ánh hoang đường vào trong đầu óc con người những lực lượng bên
ngoài, cái mà thống trị họ trong đời sống hàng ngày …”
Để có khái niệm đầy đủ về tơn giáo cần phải chú ý:
- Khi nói đến tôn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách biểu hiện nào thì luôn luôn phải

đề cập đến vấn đề hai thế giới: thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của
người sống và thế giới sau khi chết, thế giới của những vật thể hữu hình và vô hình.
- Tôn giáo không chỉ là những sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với

tự nhiên và xã hội, do thiếu hiểu biết dẫn đến sợ hãi và tự đánh mất mình do đó phải
dựa vào thánh thần mà còn hướng con người đến một hy vọng tuyệt đối, một cuộc đời
thánh thiện, mang tính “Hoàng kim nguyên thủy”, một cuộc đời mà quá khứ, hiện tại,
tương lai cùng chung sống. Nó gieo niềm hi vọng vào con người, dù có phần ảo tưởng
để yên tâm, tin tưởng để sống và phải sống trong một thế giới trần gian có

nhiều bất cơng và khổ ải.
Cho dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tơn giáo nhưng có thể chia thành hai
trường phái chính:
- Thứ nhất, quan điểm phi mác xít cho rằng tơn giáo là cái thiêng liêng vĩnh

hằng, gắn liền với con người và tồn tại cùng con người.
- Thứ hai, quan điểm của Mác xít về vấn đề tơn giáo: Tơn giáo là mặt trời ảo

tưởng quay xung quanh mặt trời hiện thực, là trái tim của thế giới khơng có trái tim,

là tinh thần của trạng thái thế giới khơng có tinh thần.
Nhiều định nghĩa như vậy nhưng khi nói đến tơn giáo, dù theo ý nghĩa hay cách
biểu hiện nào thì luôn luôn phải đề cập đến vấn đề hai thế giới: Hiện hữu và phi hiện
hữu, hữu hình và vô hình. Đồng thời tôn giáo không chỉ là sự bất lực của con người

9


mà còn thể hiện niềm tin sâu sắc của họ về một cuộc sống lý tưởng khi theo một tôn
giáo nào đó. Ngồi ra, tơn giáo được biết đến là hệ thống hồn chỉnh các quan niệm,
ý thức tín ngưỡng, thể hiện tập trung ở lịng tin, tình cảm tơn giáo, hành vi và hoạt

động tôn giáo. Tôn giáo là hình thức tín ngưỡng có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và
giáo hội, được tổ chức chặt chẽ.
Như vậy, Tôn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vơ hình, mang
tính thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách
hư ảo, nhằm lý giải những vấn đề trên trần thế cũng như ở thế giới bên kia
* Khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo

Khái niệm: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền cơ bản
của con người, thuộc nhóm quyền dân sự và chính trị, được ghi nhận trong pháp luật
quốc tế về quyền con người cũng như trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới.
Một khái niệm nữa cần được quan tâm trong tìm hiểu về quyền tự do TN-TG là
“tự do”. Theo cách hiểu thông thường nhất, tự do là một khái niệm mô tả tình trạng khi
một cá nhân không bị sự ép buộc, có cơ hội lựa chọn và hành động theo đúng với
ý chí nguyện vọng của mình. Cịn tự do tín ngưỡng hay tự do tơn giáo thường được

coi là một nguyên tắc ủng hộ quyền tự do của cá nhân hay cộng đồng trong việc
công khai hoặc bí mật thực hành, thờ phụng, rao giảng hay tu tập một tơn giáo hay
tín ngưỡng. Khái niệm này thường được thừa nhận bao gồm cả việc tự do thay đổi

tôn giáo hoặc tự do không theo một tôn giáo nào.
Quan niệm của Thánh Công đồng Vantican II:
Con người có quyền tự do TN-TG, quyền tư do này con người khơng bị lệ thuộc
vào áp lực cá nhân, đồn thể xã hội hay của bất cứ một quyền lực nào khác. Với ý
nghĩa đó, trong lĩnh vực tơn giáo, không ai bị ép buộc hành động trái với lương tâm,
cũng không ai bị ngăn cấm hành động theo lương tâm, dù đó là hành động cá nhân

hay cơng khai, một mình hay đơng người, trong những giới hạn chính đáng[15].
Tự do TN-TG cịn có nghĩa là các cộng đồn tôn giáo không bị ngăn cản trong
việc tự do biểu lộ các hiệu năng riêng của giáo thuyết minh trong việc tổ chức xã hội và
làm cho toàn thể sinh hoạt nhân loại được sống. Sau hết, theo bản chất xã hội của

10


con người, cũng như theo bản chất của tôn giáo, con người có quyền tự do hội họp
hay thành lập những hiệp hội giáo dục, văn hóa, từ thiện và xã hội do cảm thức tôn
giáo thúc đẩy[16].
Từ những cách hiểu khác nhau trên, tác giả đưa ra nhận định chung về quyền
tự do TN-TG: Là quyền con người mà trong đó mỡi cá nhân có thể lựa chọn tín
ngưỡng, tơn giáo theo ý muốn của mình, việc lựa chọn ở đây được hiểu là quyền
theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tơn giáo; quyền được thay đởi tơn giáo,
quyền được thể hiện, bày tỏ tín ngưỡng tơn giáo của mình.
Đặc điểm của quyền tự do tín ngưỡng:
Là quyền con người nên quyền tự do TN-TG cũng mang đầy đủ các đặc điểm
của quyền con người bên cạnh những đặc trưng riêng biệt của quyền này. Những đặc
điểm của quyền con người bao gồm: Mang tính phổ biến, khơng thể chuyển giao,
không thể chia cắt, không thể bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất kỳ chính thể nào. Tính phổ
biến nghĩa là quyền tự do TN-TG là quyền của tất cả mọi người khơng có sự phân biệt
nào, khi sinh ra con người đã được trao quyền này. Không thể chuyển giao, chuyển

nhượng đồng nghĩa với việc tất cả mọi người sẽ không bị bất cứ chủ thể nào tước đi
quyền này một cách tùy tiện. Không thể chia cắt khẳng định vị trí quan trọng của quyền
tự do TN-TG là ngang bằng với các quyền con người khác. Một đặc điểm quan trọng
khác của quyền này đó là để quyền tự do TN-TG được bảo đảm tốt nhất, cần phải được
thực hiện với các quyền con người khác. Cụ thể, quyền tự do TN-TG được bảo đảm thì
kèm theo đó là quyền lập hội, quyền tự do ngơn luận, quyền sở hữu.

Quyền tự do TN-TG thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị mang màu sắc dân sự
nhiều hơn là chính trị. Bởi tính cá nhân rất cao trong việc thể hiện niềm tin của con
người cụ thể trong khi tính chính trị được thể hiện mờ nhạt thơng qua việc một
nhóm người cùng chung niềm tin tổ chức lại cùng nhau duy trì, thực hành tơn giáo.
Ngồi ra, tơn giáo cịn phản ánh bản chất của chế độ chính trị xã hội và trình độ
phát triển của xã hội. Điều này được chứng minh trong lịch sử phát triển của các tôn
giáo. Vào đầu thế kỷ VII TCN, sự ra đời của Hồi giáo tại bán đảo Ả rập gắn liền với sự
biến chuyển của xã hội cơng xã ngun thủy sang chế độ xã hội có giai cấp, đòi

11


hỏi phải thống nhất các bộ lạc tại Ả rập thành một nhà nước phong kiến. Đạo Phật
ra đời bắt nguồn từ những nguyên nhân chính trị sâu xa, là trào lưu chống lại chế độ
đẳng cấp và đạo Bà-la-môn. Kitô giáo ra đời là sự phản ứng của quần chúng trước
chính sách áp bức bóc lột của đế quốc La Mã. Như vậy, quyền tự do TN-TG được
xác lập, thực hiện và phát triển phù hợp với điều kiện, hồn cảnh thực tế về kinh tế,
chính trị, văn hóa, xã hội tại một số thời điểm và một số quốc gia nhất định.
Quyền tự do TN-TG không phải là một quyền tuyệt đối. Điều này có nghĩa là
quyền này có thể bị giới hạn với các lý do nhất định và sự giới hạn đó được xem là
hợp lý. Các lý do hạn chế được đưa ra trong Điều 18 của Cơng ước về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 là bảo vệ an tồn, trật tự cơng cộng, sức khỏe hoặc đạo
đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác.

Bảo đảm là gì? Là việc công tác quản lý tôn giáo của nhà nước để quy định cụ
thể, tạo điều kiện cho mọi người thực hiện quyền tự do tôn giáo; làm rõ hơn các
điểm bất cập trong thực hiện Pháp lệnh Tín ngưỡng tơn giáo thời gian qua; xây
dựng các quy định chặt chẽ hơn để tạo điều kiện cho tôn giáo tự do hoạt động theo
đúng quy định của pháp luật.
Khái niệm bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
Nhà nước ln quan tâm mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước ta hiện nay hoàn tồn phù hợp với những ch̉n mực quốc tế có liên quan
đến lĩnh vực TN-TG, bảo đảm quyền tự do TN-TG của mọi người dân nói chung và
các cộng đồng tơn giáo nói chung bên cạnh đó cịn có những phạm nhân đang chấp
hành án phạt tù nói riêng phù hợp với Công ước quốc tế và ngang tầm với luật pháp
của nhiều quốc gia có nền pháp chế lâu đời. Qua đó, thể hiện tính ưu việt của chế
độ, tinh thần nhân đạo, tính nhân văn trong chính sách hình sự của Đảng và Nhà
nước ta trong việc bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực TN-TG.
Thời gian gần đây những vấn đề thảo luận nhiều nhất trong lịch sử phát triển của
tôn giáo. Trong lịch sử đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước,
chức sắc, tín đồ các tơn giáo đều có những đóng góp to lớn, quan trọng. Đảng, Nhà
nước Việt Nam ln khẳng định, đồn kết tơn giáo là nguồn lực nội sinh có ý

12


nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Tôn trọng
quyền tự do TN-TG, thực hiện chính sách đại đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo là
chính sách nhất qn, xun suốt của Đảng, Nhà nước ta được cụ thể bằng pháp luật
và bảo đảm trên thực tế và đây là một trong những quyền cơ bản của công dân,
được khẳng định trên nguyên tắc Hiến định (Hiến pháp năm 2013).
Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 03/9/1945 tại
phiên họp Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền tự do TN-TG của
một bộ phận đồng bào có đạo; Người nói: “Tơi đề nghị Chính phủ tuyên bố TN-TG

tự do và lương - giáo đoàn kết”. Chính phủ ln tơn trọng và giúp đỡ nhân dân thực
hiện. Chính quyền khơng can thiệp vào nội bộ các tôn giáo. Người từng kêu gọi các
tôn giáo hãy xóa bỏ hiềm khích, đồn kết cùng tồn dân lo cho nền độc lập của
nước nhà.
Kế thừa quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tơn giáo, trong các
giai đoạn cách mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu TN-TG của nhân
dân. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày
16/10/1990; Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003. Ủy ban Thường vụ Quốc hội
khóa 11 đã ban hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo số 21/2004/ PL-UBTVQH11 quy
định về các hoạt động TN-TG. Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP ngày
01/3/2005 về hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Tín ngưỡng, tơn giáo. Thủ
tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31/12/2008 “về nhà, đất liên
quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán để ghi nhận, bảo đảm
thực hiện quyền tự do TN-TG của công dân ghi nhận quyền tự do TN-TG là một trong
những quyền cơ bản của con người. Cụ thể hóa, Quốc hội khóa XIV thơng qua, Luật
Tín ngưỡng, tơn giáo, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018. Có thể khẳng định, các tơn giáo
có điều kiện phát triển, được tự do hành lễ dù ở nhà riêng hay nơi thờ tự; quan hệ quốc
tế của các tôn giáo được mở rộng, sinh hoạt tôn giáo được công khai theo quy định của
pháp luật. Trước khi có Pháp lệnh Tín ngưỡng tơn giáo năm 2004. So sánh các số liệu ở
thời điểm trước và sau khi có pháp lệnh TN-TG, cho thấy quyền tự do tôn giáo của
người dân luôn được bảo đảm và minh chứng sinh động là

13


sự gia tăng chức sắc, cơ sở thờ tự và tín đồ các tơn giáo.
Sự đồn kết và đóng góp của các tôn giáo ở Việt Nam cùng chung tay, chung sức
thể hiện trách nhiệm đối với xã hội, góp phần thiết thực vào công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Chính sách pháp luật về tơn giáo đã phát huy nguồn lực của tơn
giáo và khuyến khích các tổ chức tôn giáo tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã

hội, đã xuất hiện nhiều mô hình và tấm gương tiêu biểu của chức sắc, chức việc, tín đồ
tơn giáo trong cơng tác an sinh xã hội, phịng chống biến đổi khí hậu, từ thiện.

1.1.2 Đặc điểm của bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
Bảo đảm quyền con người về quyền tự do TN-TG bằng nhiều phương thức và
biện pháp khác nhau, trong đó bảo vệ bằng các quy định pháp luật cũng như bảo
đảm thực hiện các quy định đó trên thực tế là quan trọng nhất: “Bảo đảm quyền con
người trong tư pháp là sự vận hành của các yếu tố khách quan nhằm mục đích cơng
bố, ghi nhận về mặt pháp lý các quyền con người trong lĩnh vực tôn giáo, bảo vệ và
thực thi các quyền đó trong quá trình giải quyết vụ án hình sự về tôn giáo. Vì lẽ đó,
trong thực tiễn pháp lý, “bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực tôn giáo trong tư
pháp” được hiểu là các hoạt động giữ gìn, bảo vệ cho cộng đồng có đạo khỏi những
xâm hại tiêu cực phản với mục tiêu và đường lối của Đảng và Nhà nước gây tổn
thương các quyền con người, giúp họ tránh các nguy cơ, rủi ro có thể xảy ra trong
quá trình tham gia tố tụng; chủ thể được bảo vệ ở đây được hiểu ở cả hai góc độ nạn
nhân và khơng phải là nạn nhân.
- Tính quyền lực nhà nước: Bảo đảm quyền tự do TN-TG cho công dân là trách

nhiệm của Nhà nước. Mọi biện pháp bảo đảm đều được nhà nước cụ thể hóa bằng
hệ thống văn bản pháp luật, bằng các quy định cụ thể và được bảo đảm thực thi bởi
các cơ quan cơ, cá nhân có thẩm quyền. Do vậy, bảo đảm tự do TN-TG mang tính
bắt buộc chung. Mọi tổ chức, cá nhân đều phải thực hiện theo đúng quy định đã
được Nhà nước quy định hoặc thừa nhận.
- Tính xã hội và nhân văn sâu sắc: Quyền tự do TN-TG gắn với quyền con

người do đó, Nhà nước quy định các điều kiện bảo đảm để các cá nhân có cơ hội thể
hiện quyền tự do TN-TG của mình.

14



1.2 Nội dung bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo
1.2.1 Đối với mỗi cá nhân
(1) Mọi người có quyền tự do TN-TG là theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
- Mở rộng phạm vi chủ thể của quyền tự do TN-TG trên cơ sở đó các tổ chức,

cá nhân có đủ cơ sở pháp lý để thực hiện quyền tự do TN-TG của mình. Vì quyền tự
do TN-TG được coi là một quyền tự thân, không do một tổ chức, một cá nhân hay
một Nhà nước nào ban tặng và không ai được phép tước bỏ, ép buộc, xâm phạm và
Nhà nước phải tôn trọng, bảo hộ quyền tự do ấy.
- Thông qua việc giới hạn rõ ràng quyền tự do TN-TG của từng chủ thể, các

chủ thể sẽ biết rõ phạm vi, mức độ thực hiện quyền của mình, các giới hạn của
quyền để thực hiện đúng pháp luật và được Nhà nước bảo hộ.
- Là cơ sở pháp lý quan trọng để tổ chức, cá nhân đề nghị Nhà nước ghi nhận,

bảo hộ quyền của mình và là cơ sở để khiếu nại, khởi kiện khi có các hành vi xâm
hại tới quyền của tổ chức, cá nhân một cách bất hợp pháp.
- Quyền tự do TN-TG còn là quyền được tự do bày tỏ niềm tin, đức tin của mình;

quyền hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp; quyền tham gia các hình thức
sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi TN-TG và học tập giáo lý tôn giáo mà mình

tin theo.
(2) Đối với người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật

về tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt
buộc có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin TN-TG.
(3) Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo,


lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo. Người chưa thành niên khi vào tu tại cơ sở tôn
giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Quy định rõ hơn quyền của các đối tượng là người đang bị tạm giam, tạm giữ,
người đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được đáp ứng nhu cầu
TN-TG của cá nhân theo quy định của pháp luật có liên quan. Đây là quy định rất tích

15


cực cho các đối tượng này vì họ đang là đối tượng bị hạn chế một số quyền theo quy
định của pháp luật, nhưng riêng quyền tự do TN-TG, họ được Nhà nước ghi nhận và
được đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt tôn giáo của cá nhân họ. Bên cạnh đó, việc ghi
nhận sau khi họ chấp hành xong án phạt tù hoặc quản chế theo quy định của pháp luật
thì được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo và quản lý tổ chức tôn giáo và

để thực hiện được quyền chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo phải được tổ
chức tôn giáo đăng ký và được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Đây là những quy định hồn toàn mới, bảo đảm được quyền tự do TN-TG của mọi
người, phù hợp với quy định về quyền con người, quyền tự do TN-TG của mọi người

quy định tại Hiến pháp năm 2013 cũng như Công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị.
1.2.2 Đối với các tơn giáo
Khẳng định các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Điều này có ý nghĩa rất
lớn đối với sự ra đời, tồn tại và phát triển của các tôn giáo, tránh được sự mặc cảm
của các tổ chức tôn giáo do ra đời sau hoặc có số lượng chức sắc, chức việc, nhà tu
hành, tín đồ, cơ sở thờ tự ít. Quy định này một lần nữa nói lên chính sách tôn trọng,
bảo hộ quyền tự do TN-TG của Nhà nước ta đối với các tổ chức tôn giáo là như

nhau, cho dù tổ chức tơn giáo đó ra đời, được công nhận sớm hay muộn. Bên cạnh
sự bảo đảm của Nhà nước đối với quyền hoạt động TN-TG hoạt động tôn giáo theo
quy định của pháp luật, Nhà nước cũng ln khuyến khích, giữ gìn, phát huy những
giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của TN-TG.
Làm cho tồn Đảng, tồn dân nói chung và bà con tín đồ, chức sắc tơn giáo nói
riêng và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính sách tơn giáo của Đảng và nhà
nước hiện nay, góp phần tăng cường khối đại đồn kết tồn dân, liên kết tơn giáo,
bảo đảm cho đồng tơn giáo gắn bó với dân tộc, tuân thủ pháp luật, giữ vững độc
lập dân tộc và chủ quyền quốc gia. Thường xuyên vận hành đời sống vật chất và
văn hóa tinh thần, nâng cao trình độ mọi mặt của các tơn giáo. Thực hiện tín hiệu
hiện đại, tích cực hoạt động đồng bào có hướng dẫn kết hợp xây dựng cuộc sống
“tốt đời, đẹp đạo”, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
an ninh quốc phịng.
Tăng cường cơng việc quản lý nhà nước, tạo điều kiện bảo đảm cho các hoạt động
tôn giáo bình thường theo luật, mọi tín hiệu, chức năng, nhà tu hành thực hiện tốt nghĩa
vụ cơng dân, góp phần vào new life. Tăng cường truyền thông, hướng dẫn,

16


giúp đỡ đồ đạc và chức năng tôn giáo nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động ngăn
ngừa và đấu tranh không thành công và hoạt động lợi dụng tôn giáo của các thế hệ
lực thù chống lại sự xây dựng và bảo vệ đất nước của dân tộc ta.
1.2.3 Đối với giáo dục tôn giáo.
Kể từ khi giành lại độc lập đến nay, quan điểm nhất quán và xuyên suốt của Đảng
và Nhà nước là tôn trọng quyền tự do TN-TG của nhân dân trong mô hình nhà nước thế
tục. Các tơn giáo đều có quyền bình đẳng trước pháp luật, được quyền hoạt động trong
khuôn khổ của pháp luật. Trong đó vấn đề tơn giáo tham gia hoạt động giáo dục, có
những thời điểm chúng ta tiếp tục duy trì các cơ sở giáo dục của tôn giáo trong hệ
thống giáo dục quốc dân nhưng cũng có thời kì hệ thống giáo dục quốc dân chủ yếu do

nhà nước đảm nhiệm. Từ sau Đổi mới đến nay, cùng với việc xác lập giáo dục đóng vai
trị là quốc sách hàng đầu, Đảng và Nhà nước đã chủ trương thực hiện xã hội hóa trong
hoạt động giáo dục và đào tạo, phát huy mọi nguồn lực trong xã hội để đầu tư cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo. Trước những chủ trương của Đảng và Nhà nước về tơn giáo
và xã hội hóa giáo dục, các tổ chức tôn giáo, TN-TG đã ngày càng tham gia mạnh mẽ
vào quá trình xã hội hóa giáo dục và đào tạo và dạy nghề.

1.2.4 Đối với bảo đảm đất đai
Công tác quản lý nhà, đất liên quan đến tôn giáo được các địa phương quan
tâm thực hiện theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, từng bước
bảo đảm nhu cầu về nhà, đất và nơi sinh hoạt tôn giáo cho chức sắc, tín đồ các tổ
chức tơn giáo. Thực hiện Quy chế phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về tôn
giáo việc giao đất, cấp GCNQSD đất tôn giáo do Sở Tài nguyên và Môi trường
tham mưu UBND tỉnh xem xét, quyết định trên cơ sở lấy ý kiến phối hợp của Sở
Nội vụ (Ban Tôn giáo). Kết quả đến nay, về cơ bản các cơ sở tôn giáo hoạt động
hợp pháp đã được giao đất, cấp Giấy chứng nhận sử dụng đất đúng theo quy định
của pháp luật; đa số các cơ sở tôn giáo đã chấp hành tốt việc sử dụng đất, sửa chữa,
xây dựng cơ sở thờ tự đúng quy định.
Như vậy, quyền tự do TN-TG là quyền của tất cả mọi người và quyền này không
bị giới hạn bởi quốc tịch, giới tính, độ tuổi. Luật tín ngưỡng, tơn giáo là một trong

17


những cải cách pháp lý quan trọng nhằm cụ thể hóa đầy đủ nội dung, tinh thần của
Hiến pháp năm 2013 về một trong những quyền con người quan trọng, cơ bản hàng
đầu, trong đó có việc cụ thể hóa các giới hạn của quyền TN-TG và nâng cao trách
nhiệm bảo đảm thực thi quyền tự do TN-TG của mọi người.
1.3 Các điều kiện bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
1.3.1 Bảo đảm về pháp lý

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tơn giáo, trong các giai đoạn cách
mạng, Đảng, Nhà nước ta đều quan tâm đến nhu cầu TN-TG của nhân dân. Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách về tơn
giáo và cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992 và 2013 về quyền tự do TNTG của cơng dân. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1940/CT-TTg ngày 31-122008 “về nhà, đất liên quan đến tôn giáo”, tạo hành lang pháp lý ổn định, nhất quán
để ghi nhận, bảo đảm thực hiện quyền tự do TN-TG của công dân. Đây là điều rất
cần thiết nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động TN-TG bảo đảm tính tương thích với luật pháp quốc tế. Cụ thể hóa, Quốc hội
khóa XIV thơng qua, Luật Tín ngưỡng, tơn giáo, có hiệu lực từ ngày 01/01/2018.
Luật Tín ngưỡng, tôn giáo điều chỉnh hoạt động TN-TG ở Việt Nam tạo cơ sở pháp
lý quan trọng, phù hợp với Hiến pháp 2013, khắc phục được những hạn chế, bất cập
về cơ sở pháp lý trong tổ chức thực hiện QLNN về ANTT đối với hoạt động của đạo
công giáo, đáng chú ý như sau:
Mở rộng phạm vi chủ thể có quyền tự do TN-TG từ “công dân” thành “Mọi
người”, thể hiện đúng bản chất quyền tự do TN-TG là quyền con người theo tinh
thần Hiến pháp 2013.
Việc thay đổi này sẽ giúp cho việc thực hiện các thủ tục hành chính nhanh gọn,
thuận lợi hơn cho hoạt động tơn giáo, giúp công tác QLNN về ANTT đối với hoạt
động của tơn giáo nói chung và đạo cơng giáo nói riêng có hiệu quả hơn.
Về hoạt động tơn giáo, hoạt động xuất bản, giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, từ
thiện, nhân đạo của tổ chức tôn giáo.

18


Giảm các quy định xin, cho, bổ sung các quy định thông báo. Luật đã giảm các
quy định xin, cho, bổ sung các quy định thông báo như: Thông báo người được
phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc; thông báo thuyên chuyển chức sắc, chức
việc, nhà tu hành; thông báo cách chức, bãi nhiệm chức sắc, chức việc; thông báo
hoạt động của cơ sở đào tạo tôn giáo; thông báo kết quả đào tạo của từng khóa học
của cơ sở đào tạo tôn giáo; thông báo mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo cho những

người không chuyên hoạt động tôn giáo; thông báo danh mục hoạt động tôn giáo;
thông báo hội nghị thường niên. Đây cũng là quy định phù hợp với xu hướng hiện
nay nhằm hạn chế sự can thiệp của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền vào công
việc nội bộ của các tổ chức tôn giáo.
Về phân định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực TN-TG.
Trước đây, các hoạt động vi phạm của giáo hội trong hoạt động tôn giáo chưa có chế
tài xử lý thích hợp, chỉ dừng lại ở việc nhắc nhở, lập biên bản đình chỉ và vận động
chấp hành. Cách xử lý này làm cho giáo sĩ, giáo dân hiểu rằng chính quyền sợ đụng
chạm đến các vấn đề nhạy cảm về “Dân chủ”, “Nhân quyền”, “Tự do tôn giáo” nên
dè dặt, nương nhẹ trong xử lý vi phạm, dẫn tới các hoạt động tôn giáo lấn lướt chính
quyền, vi phạm pháp luật. Thực tế cho thấy, khi sự việc xảy ra liên quan đến đạo
công giáo, một số linh mục quản xứ đã bất hợp tác với chính quyền và các cơ quan
chức năng để giải quyết, trong khi người đứng đầu tổ chức
Tôn giáo là một vấn đề nhạy cảm. Phía sau chức sắc, chức việc tơn giáo có hàng
vạn tín đồ, quần chúng tin theo, nên thời kỳ nào các thế lực thù địch cũng lợi dụng tìm
mọi cách chống phá, tuyên truyền những luận điệu sai trái cho rằng, Việt Nam khơng
có tự do tơn giáo; Luật tín ngưỡng, tơn giáo có khái niệm trừu tượng; Nhà nước dễ quy
kết trách nhiệm và lên án các tổ chức tơn giáo, khi chính quyền khơng hài lịng, tự do
TN-TG là quyền của mỗi người. Chúng còn vu cáo Nhà nước ta vi phạm dân chủ, nhân
quyền nhằm kích động, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; chia rẻ Đảng,
Nhà nước và chính quyền các cấp với đồng bào có đạo. Mỗi khi Nhà nước ta bổ sung
hoặc thay thế những văn bản pháp luật mới để điều chỉnh hoạt động tơn giáo như Luật
tín ngưỡng, tơn giáo, Luật An ninh mạng… tương thích

19


với luật pháp quốc tế về quyền con người, phù hợp với quá trình hội nhập và phát
triển của đất nước, đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh của chức sắc, tín đồ tơn
giáo thì các thế lực thù địch lại dấy lên chiến dịch viết bài đăng tải trên các trang

mạng, các blog… đòi bãi bỏ hoặc xuyên tạc, phủ nhận, tìm các chức sắc, tín đồ thực
hiện, tạo ra sự đối lập với chính quyền.
Chúng ta cần phải hiểu rõ, bản chất vấn đề tôn giáo là tổ chức mang tính xã hội.
Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, khi

thành lập tổ chức tôn giáo và hoạt động tơn giáo thì nhà nước có trách nhiệm bảo đảm

an ninh trật tự, đáp ứng nhu cầu tâm linh của mọi người và xử lý những người cản
trở hoạt động tơn giáo chính đáng. Các quốc gia đều quan tâm đến công tác quản lý
nhà nước về tơn giáo. Mỗi quốc gia có cách quản lý riêng tùy thuộc vào điều kiện
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Như vậy, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng chính sách, pháp luật để
bảo đảm quyền tự do TN-TG của mọi người và các tổ chức tôn giáo xây dựng Hiến
chương, điều lệ hoạt động gắn bó, đồng hành cùng dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, các tổ chức tơn giáo ở Việt Nam đều có điều kiện
giao lưu quốc tế, xây dựng tổ chức thực hành chính đạo, mở rộng cơ sở thờ tự….

Nhiều cá nhân, tổ chức tơn giáo nước ngồi đã thuyết pháp, giảng đạo tại một số cơ
sở thờ tự tại Việt Nam công khai theo quy định của pháp luật. Thông qua những
hoạt động này, các tôn giáo đã tăng cường trao đổi thông tin với tôn giáo đồng đạo
để họ hiểu rõ hơn về chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Sự đồn kết và
đóng góp của các tơn giáo ở Việt Nam cùng chung tay, chung sức đã thể hiện trách
nhiệm đối với xã hội, đóng góp thiết thực vào cơng cuộc xây dựng và phát triển đất
nước. Chính sách, pháp luật về tôn giáo đã phát huy nguồn lực của tơn giáo và
khuyến khích các tổ chức tơn giáo tham gia vào các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã
xuất hiện nhiều mô hình và tấm gương tiêu biểu của chức sắc, chức việc, tín đồ tơn
giáo trong cơng tác an sinh, xã hội, phịng chống biến đổi khí hậu, từ thiện.
Trong quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về
dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, hồn cảnh kinh tế, TN-TG, trình độ văn hóa,


20


×