Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.47 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Ở bài viết trước VnDoc đã chia sẻ đến các bạn một số nét về lịch sử Việt Nam thời kỳ
tiền sử. Trong bài viết ngày hôm nay chúng tôi xin tiếp tục chia sẻ các điểm nổi bật về
lịch sử Việt Nam thời kỳ dựng nước cũng như các đặc điểm văn hóa của thời kỳ này.
<b>Thời kỳ dựng nước (2000 - 258 trCN)</b>
Quốc hiệu Văn Lang, kinh đô Phong Châu, khoảng 2000 năm, 18 đời vua Hùng
Theo truyền thuyết thì thủy tổ dân tộc Việt Nam là Kinh Dương Vương, hiện cịn có
mộ tại làng An Lữ, Thuận Thành, Bắc Ninh.
Kinh Dương Vương làm Vua vào khoảng năm Nhâm Tuất (hơn 2000 năm trước Công
nguyên). Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long là Vua hồ Động Đình sinh một
con trai đặt tên là Sùng Lãm, sau nối ngôi vua cha niên hiệu là Lạc Long Quân. Lạc
Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh ra một bọc một trăm trứng, một trăm
trứng nở ra một trăm người con trai là tổ tiên của người Bách Việt.
Một hôm nhà Vua bảo bà Âu Cơ: "Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa
khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt, chia năm chục người con theo mẹ lên
núi , năm chục người con theo cha về phía Nam miền biển, phong cho con trưởng làm
Hùng Vương nối ngôi.
Hùng Vương lên ngơi Vua, đặt quốc hiệu là Văn Lang, đóng đơ ở Phong Châu (Bạch
Hạc, Phú Thọ), chia nước ra làm 15 bộ:
1. Văn Lang (Bạch Hạc, Phú Thọ)
2. Châu Diên (Sơn Tây)
3. Phúc Lộc (Sơn Tây)
4. Tân Hưng (Hưng Hóa - Tuyên Quang)
5. Vũ Định (Thái Nguyên - Cao Bằng)
6. Vũ Ninh (Bắc Ninh)
7. Lục Hải (Lạng Sơn)
8. Ninh Hải (Quảng Yên)
9. Dương Tuyền (Hải Dương)
10. Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng n, Nam Định, Ninh Bình)
11. Cửu Chân (Thanh Hóa)
14. Việt Thường (Quảng Bình - Quảng Trị)
15. Bình Văn (?)
Các đời Vua sau đều gọi là Hùng Vương, có 18 đời vua Hùng Vương. Đặt các tướng
văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con
gái Vua gọi là Mỵ Nương, các quan nhỏ gọi là Bồ Chính.
Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng là nhà nước phơi thai đầu tiên của Việt Nam,
cịn rất đơn giản, mặc dù mới hình thành nhưng đã cố kết được lịng người. Từ tình
cảm cộng đồng dẫn đến ý thức cộng đồng, thể hiện rõ tình đồng bào ruột thịt. Họ
bước đầu hiểu được mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người, thấy được sức mạnh
của cộng đồng trong việc làm thủy lợi, trao đổi sản phẩm và đấu tranh giữ gìn bản
làng, đất nước.
Thời đại Hùng Vương có hai truyền thuyết được loan truyền mãi trong dân gian thể
hiện rõ tinh thần đoàn kết của cộng đồng các dân tộc Việt. Đó là truyền thuyết về Phù
Đổng Thiên Vương và truyền thuyết về Sơn Tinh - Thủy Tinh.
Đặc điểm văn hóa thời vua Hùng
Thời đại Hùng Vương có một ý nghĩa quan trọng trong lịch sử. Đây là thời đại hình
thành nên những giá trị về văn hóa để rồi trở thành những tiền đề cơ bản trong tiến
Đồ dùng hàng ngày thường thấy là chủ yếu bằng tre, gỗ, đất nung và đồng thau. Một
số ít đồ được dùng bằng da và đá. Đó là các đồ đan như phên, liếp, các đồ dùng lớn
như máng, cối, thuyền độc mộc, thuyền đi sông… Đồ dùng chủ yếu là các đồ đựng
như nồi, bình, vị, bát đĩa…
chiếc mũ bằng lơng vũ cắm bơng lau và chiếc váy xịe bằng lơng vũ hoặc bằng lá cây.
Trang phục được thể hiện khá rõ nét trên mặt trống đồng Đông Sơn. Dưới thời Hùng
Vương, ơng cha ta đã có những y phục dân tộc tương tự như y phục phổ biến của
người Việt cịn tồn tại ở các vùng thơn q Việt Nam. Qua đó chúng ta cũng nhận
thức được rằng: Y phục trong xã hội thời Hùng Vương đã mang tính văn hoá đặc thù
của dân tộc Việt và xã hội này phải có một nền văn minh phát triển để chế tác ra
những cấu trúc y phục đó.
Dưới thời Hùng Vương con người đã rất thành thạo trong việc đúc đồng. Họ đã biết
dùng hợp kim để đúc ra những chiếc trống đồng quan trọng nhất là hợp kim
đồng-thiếc-chì. Họ đã đúc được những chiếc trống đồng Ngọc Lũ, Cổ Loa khá hoàn thiện,
mà cho đến hiện nay, với các thợ thủ công lành nghề cũng vẫn chưa đúc thành công
được những trống đồng theo đúng như xưa.
Bên cạnh đời sống vật chất phát triển, thời Hùng Vương cư dân Việt cổ có đời sống
tinh thần cũng vơ cùng phong phú. Xã hội thời Hùng Vương tương đối ổn định do đó
Lễ hội dân gian thời Hùng Vương rất phong phú và đã dạng, là nét văn hóa tinh thần
khơng thể thiếu của con người thời Hùng Vương. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước
và giữ nước, lễ hội là biểu thị tinh thần đoàn kết cộng đồng dân tộc. Thời kỳ này đã có
nhiều hình thức lễ hội đã ra đời như: lễ hội cầu mưa, cầu mùa thể hiện qua các nghi
thức rước nước, bơi chải của các làng ven sông Lô, sông Đà, sông Hồng.
nông nghiệp lúa nước, …Và tiếp đến sau này là thờ các thủ lĩnh sau khi lập nước Văn
Lang sau đó cộng đồng đã tơn thờ các thủ lĩnh của mình là các vua Hùng. Tục thờ
cúng tổ tiên nói chung và việc phụng thờ các vua Hùng nói riêng là một hình thức
sinh hoạt văn hố cộng đồng tất yếu nảy sinh trong lòng xã hội. Sự ra đời và tồn tại
của lễ hội Đền Hùng đến ngày nay đã khẳng định niềm tin vào truyền thống lịch sử
dựng nước và giữ nước, đạo lý cao đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt
Nam. Đền Hùng với lễ hội Đền Hùng trở thành biểu tượng và điểm hội tụ tâm linh thể
hiện tinh thần đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương