Tải bản đầy đủ (.docx) (266 trang)

Đạo hiếu trong tín ngưỡng của người việt ở đồng bằng bắc bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 266 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN
VĂN

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ

ĐẠO HIỂU TRONG TÍN NGƯỠNG
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ

LUẬN ÁN TIỂ N SĨ TRIỂ T HỌC

Hà Nội 2019


NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HÀ

ĐẠO HIẾU TRONG T ÍN NGƯỠNG
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐÒNG BẰNG BẮC BỘ

Chuyên ngành: CNDVBC&DVLS
Mã số

: 62 22 03 02

LUẬN ÁN TIẾ N SĨ TRIẾ T HỌC
Chủ tịch Hội đồng

PGS.TS. Đặng Thị Lan

Người hướng dẫn khoa học


PGS.TS. Trần Đăng Sinh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận án Tiến sĩ "Đạo Hiếu trong tín ngưỡng của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ”, để có thể hồn thành đề tài một cách hoàn chỉnh,
bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, tạo
điều kiện của quý thầy cô, các nhà khoa học, gia đình, đồng nghiệp, bạn bè trong suốt
thời gian học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn đến PGS.TS. Trần Đăng Sinh người đã trực tiếp hướng
dẫn và chỉ bảo cho tơi hồn thành luận án này.
Xin chân thành cảm ơn đến tồn thể q thầy cơ khoa Triết học và khoa Sau
đại học trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã
tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình học tập nghiên cứu và thực hiện đề tài luận án.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp nơi tôi đang công tác tại Ủy ban
Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và gia đình đã khích lệ, động viên tạo điều
kiện và giúp đỡ tơi trong q trình thực hiện và hồn thành luận án này.
Hà Nội năm 2019
Tác giả Luận án

Nguyễn Thị Phương Hà


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án Triết học với để tài "Đạo Hiếu trong tín ngưỡng của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ" là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Luận án được nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc, các trích dẫn trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.


Hà Nội, năm 2019


MỤC LỤC


4.1.1.

Xu hướng vận động của thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng

Tổ tiên,

PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đồng bằng Bắc bộ là vùng đất lịch sử lâu đời, là cái nôi hình thành văn hóa,
văn minh của người Việt. Đây cũng là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa truyền
thống của dân tộc. Một trong những yếu tố tạo nên giá trị văn hóa truyền thống
trong đời sống tinh thần của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ là tín ngưỡng. Trải qua
bao thăng trầm, tín ngưỡng đã đi vào mạch sống của cộng đồng người Việt, tạo nên
những nét văn hóa đặc trưng của đồng bằng Bắc bộ.
Tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ tồn tại trên cơ sở của
phương thức sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước, nó phản ánh đời sống tinh thần
của con người trong quá trình lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, xây dựng đất
nước. Đề cập tới tín ngưỡng, bao giờ người ta cũng nhấn mạnh tới giá trị nhân văn,
đặc biệt là yếu tố văn hóa đạo đức trong tín ngưỡng có giá trị đặc thù nhằm củng cố,
bảo vệ đức tin thiêng liêng trong cộng đồng, đồng thời cũng chứa đựng những

chuẩn mực đạo đức, mang tính nhân loại. Đó là tình thương đồng loại, hướng thiện,
ngừa ác... qua đó góp phần giáo dục đạo đức, nhân cách, điều chỉnh hành vi con
người; góp phần bảo lưu giữ gìn bản sắc văn hóa của người Việt, củng cố sự cố kết
cộng đồng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự ra đời và tồn tại
tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ tạo nên bức tranh sinh động phản
ánh nhận thức sơ khai, tự phát của người dân lao động về tự nhiên, con người và xã
hội. Với người Việt ở đồng bằng Bắc bộ, tự nhiên chính là những điều kiện cơ bản
cho việc sản xuất nơng nghiệp và tín ngưỡng là nơi để người dân gửi gắm ước mơ,
khát vọng chinh phục tự nhiên. Yếu tố con người và xã hội cũng được khắc họa sắc
nét, sinh động trong tín ngưỡng từ trong quan niệm về thế giới, về sức mạnh con
người, về tinh thần đoàn kết, truyền thống yêu nước, biết ơn nguồn cội... Nền tảng
đó đã khởi nguồn cho tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ trong đó có
tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng hình thành, tồn tại một cách đa dạng,
phong phú.

7


Đạo Hiếu là một trong những giá trị truyền thống mang ý nghĩa nhân văn sâu
sắc thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, biết ơn những người có cơng sinh thành,
có cơng với dân, với nước. Từ trong truyền thống dân tộc, đạo Hiếu đi vào đời sống
tâm linh, trở thành nội dung cơ bản, làm nền tảng cho tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên,
thờ
Thành hồng của người Việt, hướng con người về nguồn cội, đề cao đạo lý “uống
nướcnhớ nguồn”, quy tụ cộng đồng, kết nối cá nhân, gia đình, dịng họ, làng xã làm
nên

giá

trị cốt lõi của bản sắc dân tộc để rồi lan tỏa ra các tín ngưỡng, tơn giáo khác. Qua

thực
hành tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hoàng, đạo Hiếu và các giá trị văn hóa
truyền thống được biểu hiện và duy trì; cấu trúc cộng đồng làng xã được giữ gìn và
củng cố. Với những giá trị ấy, Đảng và Nhà nước ta ln đề cao vai trị của tín
ngưỡng,
tơn giáo trong đời sống tinh thần của xã hội, phát huy những giá trị của tín ngưỡng
thờ
cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng, tơn vinh những người có cơng với đất nước và nhân
dân. Nghị quyết 24-NĐ/TW của Bộ Chính trị về Tăng cường cơng tác tơn giáo trong
tình hình mới là mốc đánh dấu bước ngoặt trong nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, trong đó, Đảng đã nhận định rằng: tín
ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và tơn giáo có
những
giá trị văn hóa, đạo đức phù hợp với chế độ xã hội mới. Quan điểm này đã được cụ
thể
hóa trong Văn kiện Đại hội lần thứ VII (1991) của Đảng: “Tín ngưỡng, tơn giáo là
nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tơn trọng quyền tự do
tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết lương
giáo và giữa các tơn giáo” [24, tr.78]. Trong Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Ban
Chấp
hành Trung ương Đảng khóa IX cũng nêu “giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực
của truyền thống thờ cúng tổ tiên, tơn vinh những người có cơng với Tổ quốc, dân
tộc
và nhân dân” [25, tr.95] là một bộ phận quan trọng trong quan điểm chỉ đạo của
8


Đảng
trong lĩnh vực tín ngưỡng, tơn giáo.


9


Tuy nhiên, hiện nay đạo Hiếu trong tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng
Bắc bộ đang đứng trước những thách thức lớn trước tác động của thời kỳ phát triển
kinh tế thị trường, mở của hội nhập, toàn cầu hóa, thời đại cách mạng cơng nghiệp
4.0. Trong xã hội hiện tượng suy đồi đạo đức, lối sống buông thả, những biểu hiện
suy giảm đạo Hiếu ở một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ đang ngày một gia tăng.
Vì vậy việc giáo dục đạo đức truyền thống nói chung và đạo Hiếu nói riêng đang trở
nên cần thiết. Có nhiều hình thức khác nhau để giáo d c đạo Hiếu cho người Việt
Nam hơm nay, trong đó việc giáo d c đạo Hiếu thơng qua sinh hoạt tín ngưỡng, tôn
giáo là một trong những biện pháp hiệu quả. Việc nghiên cứu làm rõ bản chất, các
đặc điểm và cơ chế tác động của đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ
Thành hoàng tác động đến tâm tư, tình cảm của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ như
một gợi ý nào đó giúp con người ta hướng thiện, lánh ác hiệu quả hơn, rõ ràng là
một cơng việc cần làm nhưng cũng khơng ít khó khăn. Chính vì những giá trị và
ýnghĩa sâu sắc cả lí luận và thực tiễn cũng như tính cấp thiết trong việc giáo dục đạo
Hiếu đối với xã hội Việt Nam nói chung và ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng mà tác
giả chọn: “Đạo Hiếu trong tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ” làm đề
tài
luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ nội dung của đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên,
thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ, luận án chỉ ra xu hướng vận
động và đề xuất giải pháp nhằm phát huy những giá trị và hạn chế những mặt tiêu
cực của đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng của người
Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng, của đạo
Hiếu trong tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.

-

Làm rõ ý thức và thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên,
thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.

-

Chỉ ra xu hướng vận động trên cơ sở đó, đưa ra những giải pháp nhằm phát
huy những giá trị và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo Hiếu trong tín
ngưỡng

thờ
10


cúng Tổ tiên, thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo Hiếu trong tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án lựa chọn hai loại hình tín ngưỡng tiểu biểu của người Việt ở
đồng bằng Bắc bộ là tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng để khảo sát và
nghiên cứu. Từ đó làm rõ ý thức và thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên, thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận
-

Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của
Nhà nước về đạo đức, tín ngưỡng, tơn giáo.

11


-

Luận án được trình bày trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về tín ngưỡng,
đạo Hiếu của các cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố.
4.2. Phương pháp nghiên cứu

-

Luận án sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và
Chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp tổng hợp và phân tích; lịch sử và
logic;
viện dẫn và chứng minh; quan sát, điền dã...

-

Luận án sử dụng phương pháp liên ngành Triết học, Tôn giáo học, Xã hội
học, Đạo đức học...

5. Đóng góp của luận án

-

Tiếp cận dưới góc độ Triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết
hợp với phương pháp liên ngành, luận án đã trình bày có hệ thống về ý thức


thực

hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng của người
Việt
thơng qua việc làm rõ cơ sở ra đời, những yếu tố tác động như: địa lý - tự
nhiên,
kinh tế - xã hội, văn hóa - tư tưởng, sự tồn tại và phát triển của gia đình, dịng
họ,
làng xã, đất nước đối với việc hình thành đạo Hiếu trong tín ngưỡng của
người

Việt

ở đồng bằng Bắc bộ.
-

Luận án đã chỉ ra xu hướng vận động, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp nhằm
phát huy những giá trị và hạn chế những mặt tiêu cực của đạo Hiếu trong tín
ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hồng của người Việt đồng bằng Bắc bộ hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ ý thức và thực hành đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ

cúng Tổ tiên, thờ Thành hoàng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
-

Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần vào việc giữ gìn và phát huy
những giá trị của đạo Hiếu trong tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành
hoàng

của
12


người Việt ở đồng bằng Bắc bộ, đồng thời khắc phục những mặt tiêu cực của
nó.
-

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy
Triết học, Tơn giáo học, Văn hóa học, Dân tộc học, Xã hội học, Đạo đức
học...

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
án gồm 4 chương, 10 tiết.

13


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐÉN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.

Những cơng trình nghiên cứu về đạo Hiếu

Đạo Hiếu là đạo lý có từ ngàn đời, tồn tại và phát triển trong thế giới con
người, vì từ mn ngàn đời nay, tình u thương của cha mẹ dành cho con cái
khơng hề vơi cạn, nó ln đong đầy theo dịng chảy thời gian để dưỡng ni những
mầm sống lớn khơn và trở thành người hữu ích. Đối với những dân tộc có hàng ngàn
năm văn hiến và truyền thống đạo đức lâu đời như dân tộc Việt Nam, Hiếu đạo luôn
được đề cao, là một trong những đạo lý cơ bản của dân tộc. Có thể nói, nghiên cứu
về
đạo Hiếu, đã có nhiều cơng trình khoa học đề cập đến ở nhiều góc độ tiếp cận khác
nhau. Đạo Hiếu ẩn chứa trong văn hóa dân gian, trong truyền thống của dân tộc,
trong
các loại hình tín ngưỡng, tơn giáo... có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như:
Cơng trình “Đạo làm người trong văn hóa Việt Nam” [74], Trần Đăng Sinh
-Nguyễn Chu Sâm (đồng chủ biên). Trong cơng trình đã có nhiều bài viết của
nhiều tác giả bàn về đạo Hiếu trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Lê Thị Duy
Hoa với bài viết “Đạo Hiếu của người Việt xưa và nay” cho rằng, “với văn hóa
Việt, Hiếu là đạo. Đạo Hiếu xuyên suốt mọi phong tục của nhân dân ta... chữ
Hiếu là nền tảng của đạo đức người Việt, cũng như gia đình là nền tảng của xã
hội. Trong gia đình, chữ Hiếu là cơ sở để xây dựng hạnh phúc, an bình. Trong
truyền thống văn hóa của người Việt, hiếu là bổn phận làm con mà cũng là đạo
làm người” [74, tr.520]. Trong bài viết “Đạo Hiếu - Đạo làm người trong gia đình
Việt Nam”, Trần Đăng Sinh cho rằng, “trong xã hội Việt Nam truyền thống, Hiếu
được coi là giá trị đạo đức hàng đầu của con người. Hiếu là đạo đức của con cháu
trong quan hệ với ông bà, cha mẹ; là tình cảm, bổn phận xuất phát trong tư tưởng,
suy nghĩ, được biểu hiện qua hành động đối với ông bà, cha mẹ.trong xã hội
hiện đại, đạo Hiếu vẫn giữ vai trò là nền tảng đạo đức, là thước đo giá trị đạo đức

của con người trong gia đình Việt Nam” [74, tr.36].

14


Nguyễn Ngọc Thơ với cơng trình “Quan niệm về chữ Hiếu trong văn hóa
Việt Nam và Hàn Quốc” [94], cho rằng, khơng có bộ sách sử nào ghi rõ truyền
thống Hiếu đạo ở Việt Nam xuất hiện từ lúc nào, trong hoàn cảnh nào. Song, đứng
ở cách tiếp cận liên ngành, chúng ta vẫn có thể xác định sự tồn tại của truyền
thốngHiếu đạo ở Việt Nam muộn nhất là từ thời Văn Lang - Âu Lạc. truyền thống
Hiếu
đạo được thẩm thấu qua hàng loạt các truyền thuyết, thần thoại như sự tích bánh
Chưng - bánh Dày (Lang Liêu và các hồng tử chúc thọ Hùng vương), sự tích Quả
dưa hấu (Mai An Tiêm biết mình bị vu oan song vẫn tuân mệnh vua đi đày vì đạo
Hiếu), truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh (Mỵ Nương tuân theo sự sắp xếp của
vua cha), Mỵ Châu - Trọng Thủy (An Dương Vương giết Mỵ Châu vì bất hiếu, bất
trung)... đạo Hiếu gắn liền với đời sống thực tiễn của các gia đình trong khn khổ
chung là xã hội, do vậy tính chất của quan niệm chữ Hiếu cũng chịu ảnh hưởng trực
tiếp từ cơ cấu, tính chất gia đình và xã hội [94].
Cơng trình “Hiếu hạnh xưa và nay” [11] của Cao Văn Cang cũng đã đưa
ra những quan điềm về đạo đức truyền thống, trong đó có đạo Hiếu. Tác giả cho
rằng, đạo Hiếu của người Việt từ xưa có nét đặc thù riêng. hiếu đâu phải chỉ
thương cha thương mẹ là đã làm tròn hiếu đạo của một con người, mà cịn phải
“Giúp nghèo cứu thiếu, thương ni quần sinh, là đứng đầu của hạnh”. đạo Hiếu
dẫn đầu các đạo, có Hiếu là có đạo, hiểu đạo là Hiếu đạo. đồng thời tác giả cũng
đã nêu những quan điểm mới trong cách đánh giá, so sánh một số phạm trù đạo
đức truyền thống trong xã hội hiện đại, những tấm gương thực tế và bài học cho
thế hệ trẻ nhằm giáo dục, tuyên truyền nét đẹp trong đạo đức truyền thống đặc
biệt là đạo Hiếu cần được giữ gìn và phát huy.
Nguyễn Thị Thọ (chủ biên) với “Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt

Nam hiện nay” [91] trong đó nghiên cứu tổng quan về đạo Hiếu, những biểu
hiện, những giá trị của đạo Hiếu trong truyền thống văn hóa Việt Nam và những
biến đổi trong xã hội hiện nay. Bàn về vấn đề này, tác giả viết:
Đạo Hiếu là giá trị hàng đầu của đạo làm người, là nền tảng đạo đức của
xã hội. nói về đạo Hiếu khơng phải là nói về một điều đã cũ, cổ hủ mà
nói về một giá trị vĩnh hằng. người Việt Nam rất coi trọng Hiếu, Hiếu
không những được coi là một chuẩn mực đạo đức, một tiêu chuẩn để đánh
giá, là thước đo nhân cách con người, một nguyên lý ứng xử của con cái
đối với ông bà, cha mẹ, hiếu được người Việt nâng lên thành một đạo 15


đạo Hiếu, đạo làm con [91, tr.5].
Đạo Hiếu trong truyền thống văn hóa Việt Nam bên cạnh sự ảnh hưởng
của các yếu tố tự nhiên, kinh tế - xã hội, các giá trị đạo đức truyền thống thì cịn
chịu sự ảnh hưởng của các tôn giáo.

16


Chữ Hiếu trong Nho giáo là một đề tài được nhiều học giả nghiên cứu, tiêu
biểu như Quang Đạm với cuốn "Nho giáo xưa và nay" [30]. Bên cạnh việc liệt kê
những nội dung chủ yếu của chữ Hiếu theo quan niệm của Nho giáo, tác giả cũng
phân tích khá sâu chữ Hiếu. Cụ thể trong chương IV, phạm trù Nhà, ơng đã phân tích
và lý giải một cách thuyết phục quan niệm của Nho giáo về đời sống xã hội và giáo
dụ c: "Nho giáo đã có những cố gắng to lớn bền bỉ và những cống hiến tích cực
trong
việc khuyên bảo dạy dỗ cho con người thương yêu đồng loại, cho con người có quan
hệ tốt với nhau: Đạo đức Nhân - Lễ - Nghĩa - Trí - Tín và Hiếu đễ tuy có phần mơ hồ
do hạn chế của những điều kiện lịch sử đương thời, đều biểu thị rõ tinh thần và ý chí
tốt lành, thiết tha mong muốn làm cho con người tránh được, bớt được đau khổ" [30,

tr.160]. Quang Đạm cũng đề cao nề nếp, gia phong của Nho giáo: "Dù bên trong hay
bên ngồi gia đình, cơng cuộc giáo dục cũng lấy quan hệ gia đình làm điểm xuất
phát,
lấy hai cương và ba ln trong cơng cuộc gia đình, cơng cuộc giáo dục cũng lấy quan
hệ gia đình làm gốc để bồi dưỡng, rèn đúc con người đúng theo kiểu mẫu nhà Nho,
con người tề được gia và do tề được gia mà cũng sẽ trị được quốc và bình thiên hạ"
[30, tr. 168]. Có lẽ thành cơng lớn nhất của tác giả chính là đã phân tích một cách
khá
sâu sắc những nội dung của chữ Hiếu theo quan niệm Nho giáo. Chữ Hiếu đã được
phân tích một cách tương đối đầy đủ trên nhiều nội dung khác nhau: Biểu hiện, các
thứ bậc của lòng hiếu thảo và những hành vi thái độ được xem là bất hiếu.
Dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu về Nho giáo nói chung và về chữ Hiếu
nói riêng, Vũ Khiêu trong cuốn "Nho giáo và phát triển ở Việt Nam" [51] đã hệ
thống những quan niệm về chữ Hiếu và bàn luận đến chữ Hiếu theo quan niệm Nho
giáo. Trong đó, tác giả đi sâu phân tích những quan niệm của Hồ Chí Minh về chữ
Hiếu và q trình vận d ng những quan niệm đó trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam: "Trung hiếu là phạm trù đạo đức, coi như là chuẩn mực cao nhất trong hành
vi của con người. Hồ Chí Minh thấy khơng cần phải gạt bỏ đi nội dung cũ của Nho
giáo để đưa vào nội dung mới của cách mạng" [51, tr.91]. Tác giả đánh giá rất cao
những quan niệm về chữ Hiếu trong Nho giáo, đưa ra những quan niệm tiến bộ, có
giá trị trong việc xây dựng gia đình hiện đại.

17


Một cuốn sách có thể nói được lưu truyền rất lâu trong xã hội phong kiến
Việt Nam và có ảnh hưởng sâu rộng tới quan niệm và thực hành đạo Hiếu là
"Nhị thập tứ hiếu" [47]. Trong cuốn sách này tác giả đã kể ra hai mươi tư tấm
gương sáng về chữ Hiếu ở Trung Quốc thời cổ đại của con cái đối với cha mẹ.
Mỗi một nhân vật biểu hiện chữ Hiếu một cách khác nhau nhưng tựu chung lạithì đó

là sự biết ơn cơng sinh thành và ni dưỡng của cha mẹ, chăm sóc cha mẹ
khi ốm đau, phụng dưỡng khi cha mẹ về già, thành kính cúng giỗ khi cha mẹ qua
đời, thành đạt và cho cha mẹ được vinh hiển... Cuốn sách này đã từng là cẩm
nang trong việc giáo dục đạo Hiếu của các bậc ông bà, cha mẹ đối với con cháu.
Tác giả khẳng định: "Nhị thập tứ hiếu có lẽ là những tấm gương sáng muôn đời
cho những người con phải luôn nhớ giữ gìn hiếu với cha mẹ" [47].
Chữ Hiếu trong Phật giáo có cơng trình “Tư tưởng hiếu đạo trong Phật giáo”
[31] của Hịa thượng Thích Nhuận Đạt, đã nêu rõ quan niệm đạo Hiếu trong Phật
giáo. Tác giả cho rằng “Hiếu đạo của Phật giáo có thể hiểu theo hai nghĩa hẹp và
rộng. Theo nghĩa hẹp, Hiếu đạo là phụng dưỡng cha mẹ, cung kính cha mẹ trên cả
hai phương diện vật chất và tinh thần. Theo nghĩa rộng, người thực hành Hiếu đạo
không những hiếu dưỡng với cha mẹ mình mà cịn mở rộng ra hiếu dưỡng với cha
mẹ mọi người trong thiên hạ; không những hiếu thảo với cha mẹ đời này mà còn
hiếu thảo với cha mẹ trong ba đời, bảy đời.. .thuộc quá khứ, và sau cùng là làm cho
cha mẹ được giải thoát khổ đau hồn tồn” [31, tr.12].
Trong cơng trình “Bản thể luận xã hội về đạo Hiếu ở Việt Nam hiện nay”
[91] Nguyễn Thị Thọ (chủ biên) cũng đã đưa ra quan niệm về Hiếu trong Phật giáo,
tác giả cho rằng: “Phật giáo có nhiều ảnh hưởng tới quan niệm về đạo Hiếu của
người Việt Nam. Đối với Phật tử, Hiếu được xem là tình cảm thiêng liêng, cao quý
nhất [91, tr.125]... “mọi kinh điển Phật giáo đều ghi nhận và khẳng định rằng,
những người con biết công ơn sinh thành và nuôi dưỡng của cha mẹ và biết báo đáp
những công ơn trời biển đó là những người con có hiếu” [91, tr.206].“đạo Hiếu
thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam. Sự đồng điệu giữa ý
thức về nguồn cội và quan niệm về đạo Hiếu trong Phật giáo đã tạo nên giá trị nhân
văn sâu sắc. Phật tử chân chính ln thực hiện đạo Hiếu coi đó là chân giá trị của
đạo đức truyền thống Việt Nam, cũng là giá trị văn hóa đạo đức Phật giáo” [91,
tr.127]. Cũng trong cơng trình này, tác giả cịn đề cập đến quan niệm về đạo Hiếu
trong Công giáo. Tác giả viết: “Cơng giáo ở Việt Nam có ảnh hưởng khơng nhỏ tới
quan niệm về đạo Hiếu. Các tín đồ Cơng giáo ở Việt Nam rất coi trọng đạo Hiếu.
Họ, sau kính Chúa là biết ơn cha mẹ. Tín đồ Cơng giáo luôn coi trọng đạo Hiếu, coi

18


Hiếu là một giá trị đạo đức hàng đầu” [91, tr.128].
1.2.

Những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng, tín ngưỡng thờ cúng

Tổ

tiên,

tín ngưỡng thờ Thành hồng
*Những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng

19


Tín ngưỡng Việt Nam, hay cịn gọi là tín ngưỡng truyền thống, tín ngưỡng
dân gian, là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc sống trên lãnh thổ Việt Nam trải qua
nhiều thời đại. Tín ngưỡng của người Việt, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên,
thờ Thành hồng hầu hết đều được các tác giả xem xét như một loại hình tín
ngưỡng dân gian. Cho đến nay, khái niệm tín ngưỡng dân gian vẫn cịn được các
nhà nghiên cứu tranh luận, mặc dù, thuật ngữ này đã được dùng phổ biến trong các
cơng trình khoa học, các hội thảo khoa học, các sinh hoạt văn hóa tinh thần của
người dân, cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng. Trong phạm vi
nghiên cứu của mình, tác giả đồng ý với quan điểm của giới nghiên cứu khi thừa
nhận tín ngưỡng dân gian, trong đó có tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành
hồng là một loại hình sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có nguồn gốc ra đời từ chính
hoạt động lao động sản xuất của người dân, phản ánh khát vọng, ước mơ của con

người về một cuộc sống mới tốt đẹp. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu như:
Cuốn “Tiếp cận tín ngưỡng dân dã Việt Nam” [71] của Nguyễn Minh San
(1999). Với cơng trình này, tác giả khơng sử dụng thuật ngữ tín ngưỡng dân gian
mà lại đưa ra thuật ngữ tín ngưỡng dân dã. Nhưng, về thực chất, hai thuật ngữ này
là giống nhau khi đều dùng để chỉ những loại hình tín ngưỡng như: tín ngưỡng phồn
thực, tín ngưỡng sùng bái tự nhiên, tín ngưỡng sùng bái con người [71, tr.8-9]. Và
như vậy, có thể hiểu, tín ngưỡng dân dã chỉ là một cách gọi khác của tín ngưỡng
dân gian, ra đời do chính hoạt động sáng tạo trong lao động của người dân và phản
ánh ước mơ của họ.
“Các hình thái tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam” [19] của Nguyễn Đăng Duy
(2001). Trong cơng trình này, tác giả cho rằng, ở Việt Nam từ xưa cho tới nay
khơng hề có tơn giáo, mà chỉ có các hình thái tín ngưỡng là: tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, tín ngưỡng thờ Thần và tín ngưỡng thờ Mẫu [19, tr.24]. Tuy nhiên, theo tác
giả, khơng thể gọi những loại hình tín ngưỡng này là “tín ngưỡng dân gian” được,
bởi vì khơng hề có tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng bác học, tín ngưỡng q tộc, mà
chỉ có tín ngưỡng của cộng đồng người [19, tr.25]. Mặc dù khơng coi tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên, thờ Thần, thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian, nhưng
tác giả Nguyễn Đăng Duy cũng khơng đồng tình với quan điểm coi tín ngưỡng thờ
cúng Tổ tiên, thờ Thần, thờ Mẫu là một tơn giáo. Theo tác giả, tín ngưỡng thờ cúng
Tổ tiên, thờ Thần, thờ Mẫu chỉ là một loại hình “tín ngưỡng” mà thôi.

20


Cuốn “Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam” [86] do Ngơ Đức
Thịnh (chủ biên) (2001). Cơng trình này được chia làm 2 phần, trong đó, phần
thứnhất phác họa về tín ngưỡng dân gian của các dân tộc Việt Nam, theo đó, cơng
trình
đi sâu nghiên cứu 6 loại hình tín ngưỡng dân gian tiêu biểu là thờ cúng Tổ tiên, thờ
Thành hoàng làng, thờ Chử Đồng Tử, thờ Đức Thánh Trần, tín ngưỡng nghề

nghiệp, và tín ngưỡng thờ Mẫu. Phần thứ hai trình bày một số hình thức văn hóa
nghệ thuật dân gian có mối quan hệ mật thiết với tơn giáo, tín ngưỡng như: âm
nhạc, múa, tranh tượng thờ, văn học dân gian, các sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Cuốn “Tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam” [41] của Lê Như Hoa (2001). Trong
cơng trình này, tác giả chỉ rõ nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng qua việc phân
tích
điều kiện địa lý, lịch sử và phương thức sản xuất đã tác động mạnh mẽ, là nguyên
nhân
trực tiếp dẫn đến sự ra đời của các hình thái tín ngưỡng của người Việt. Về nguồn
gốc
nhận thức, tác giả chỉ rõ: “Ở thời kỳ sơ khai, khi mà cuộc sống con người rất gần gũi
với vạn vật của tự nhiên, con người thường xuyên, trực tiếp phải đối mặt với thiên
nhiên; đời sống của họ lệ thuộc chủ yếu vào tự nhiên thì thiên nhiên là đối tượng
nhận
thức chính của họ” [41, tr.31] và “... bởi chính mơi trường tự nhiên đã quy định môi
trường nông nghiệp (chăn nuôi hay trồng trọt); và do đó, nó đã định hướng ứng xử
cho
các cư dân sống trong môi trường ấy; làm nảy sinh những tín ngưỡng đặc thù của
từng
mơi trường” [41, tr.31]. về nguồn gốc xã hội, tác giả chỉ rõ: “... tính chất đặc thù của
một bán đảo... nơng nghiệp ra đời... trồng lúa được đẩy lên vị trí đứng đầu của nền
nông nghiệp trồng trọt trên lãnh thổ Việt Nam. Đây chính là mầm mống dẫn tới
những nhận thức và những ứng xử, tức mầm mống của những tín ngưỡng...” [41,
tr.3132] và “. tín ngưỡng của cư dân việt Nam, với tư cách là sự nhận thức được tập trung
vào cây lúa và công việc trồng lúa” [41, tr.34]. Quan điểm đó của Lê Như Hoa đã chỉ
ra điều kiện địa lý - tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tín ngưỡng nói
chung
và tín ngưỡng của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ nói riêng.
21



Cuốn “Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam” [7] của Toan Ánh
(2001) giới thiệu những phong tục thờ cúng trong gia đình Việt Nam như: Phong tục
thờ cúng Tổ tiên, các vị thần thờ tại gia và thờ ph ng trong ngày Tết. Trong đó nhấn
mạnh rằng, tổ tiên sinh ra ông bà, ông bà sinh ra cha mẹ, cha mẹ sinh ra mình. Người
Việt Nam có phong t c thờ cúng Tổ tiên để tưởng nhớ đến nguồn gốc của mình. Đó
là một phong t c tập quán tốt cần được giữ gìn và phát huy.

22


Trong cuốn "Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam" [84] Trần Ngọc Thêm (2004)
miêu tả khái quát các loại hình tín ngưỡng Việt Nam như tín ngưỡng Phồn thực (thờ
sinh thực khí và thờ hành vi giao phối), tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (Thờ Bà Trời,

Đất, Bà Nước, thờ động vật và thực vật), tín ngưỡng sùng bái con người (thờ Thổ
cơng,thờ Thành hồng làng, thờ Tứ bất tử...). Tác giả chỉ rõ các loại tín ngưỡng trên
cũng
như những bộ phận khác của văn hóa, là tấm gương phản ánh trung thành những đặc
trưng nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, biểu hiện sự tôn trọng và gắn bó mật thiết
với
thiên nhiên, nguyên lý âm dương, khuynh hướng đề cao nữ tính, tính đa thần...
Cuốn "Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng dân gian Việt Nam" [58] của Nguyễn
Đức Lữ (chủ biên) (2007) cho rằng, chúng ta nên và cần hiểu tín ngưỡng dân gian
như là một bộ phận của văn hóa dân gian, là loại hình tín ngưỡng tơn giáo do chính
nhân dân sáng tạo lên trên cơ sở những tri thức sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm
tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình [58, tr.12]. Tác giả cũng đề cập
đến những loại hình tín ngưỡng dân gian Việt Nam như tín ngưỡng thờ cúng Tổ
tiên, tín ngưỡng thờ Anh hùng dân tộc, tín ngưỡng thờ Thành hồng làng, thờ Mẫu
và tín ngưỡng Phồn thực. Tác giả cho rằng, các loại hình tín ngưỡng trên phản ánh

rõ nét đặc trưng của văn hóa dân tộc, thể hiện rõ nét tinh thần uống nước nhớ
nguồn, nhưng bản thân nó cũng chứa đựng khả năng dẫn đến hiện tượng phản giá
trị, biểu hiện mê tín dị đoan cũng phải bị phê phán, tẩy trừ.
Bên cạnh đó cịn có thể kể đến một số cơng trình bàn về các yếu tố ảnh
hưởng đến sự ra đời, tồn tại của tín ngưỡng như:
Cuốn “Đại cương lịch sử Triết học Việt Nam” [37], Nguyễn Hùng Hậu
(2010) cũng đã chỉ rõ các yếu tố ảnh hưởng đến sự ra đời của tín ngưỡng. Tác giả
chỉ rõ xét về mặt kinh tế “sở hữu chỉ tồn tại với tư cách là sở hữu tập thể về ruộng
đất... khơng có sở hữu tư nhân về ruộng đất và đó là tất cả các hiện tượng của
phương Đơng, là chìa khóa để hiểu tồn bộ phương Đơng” [37, tr.43]. Đó chính là
“phương thức sản xuất châu Á” mà tác giả nhắc tới. Khi nghiên cứu phương thức
sản xuất đó, tác giả kết luận, phương thức sản xuất châu Á là một trong những
nguyên do cơ bản để hiểu, để giải thích về sự ra đời của các hiện tượng tín ngưỡng,
tơn giáo.

23


Ngồi những cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian được xuất bản
dưới dạng sách thì có một số cơng trình nghiên cứu tín ngưỡng dân gian dưới dạng
các bài báo trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như: Nguyễn Quốc Phẩm
(1998), “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan”, Tạp ch ỉ Văn hoá nghệ
thuật số 11; Hồng Nhuệ (2003), “Tản mạn về tín ngưỡng dân gian” Tạp chỉ Nghiên
cứu Tơn giáo số 2; Nguyễn Tri Nguyên (2004), “Bản chất và đặc trưng tín ngưỡng
dân gian”, Tạp ch ỉ Di sản văn hóa số 7; Hồ Bá Thâm (2005), “Tín ngưỡng dân gian
- một số lĩnh vực trong đời sống tâm linh”, Tạp chỉ Nghiên cứu Tôn giáo số 4; Đỗthị
Minh Thúy (2010), “Biến động của tín ngưỡng dân gian Thăng Long - Hà Nội
và ảnh hưởng của nó đến đời sống văn hóa hiện nay”, Tạp chỉ Nghiên cứu Tơn giáo
số 8; Nguyễn Thọ Khang (2013), “Đặc điểm và giá trị văn hóa của tín ngưỡng dân
gian ở Việt Nam”, Tạp ch ỉ Nghiên cứu Tơn giáo số 6... Những cơng trình này trên

đã đưa ra những cách hiểu khác nhau về tín ngưỡng dân gian nói chung, cũng như
những đặc điểm, giá trị và hạn chế của nó đối với xã hội.
Nhìn chung, thơng qua các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng nói trên, tác
giả đã kế thừa và vận dụng vào luận án của mình trong việc đưa ra những cách hiểu
cũng như những dấu hiệu đặc trưng của tín ngưỡng. Đó là cơ sở khoa học cho tác
giả sử dụng để luận giải về quan niệm tín ngưỡng với tư cách là một khái niệm công
cụ để giải quyết các vấn đề liên quan đến mục đích, nhiệm vụ của luận án.
*Những cơng trình nghiên cứu về tỉn ngưỡng thờ cúng Tổ tiên
Thờ cúng Tổ tiên là một đề tài được nhiều nhà khoa học nghiên cứu vì tầm
quan trọng và tính phổ biến của nó trong tâm thức tín ngưỡng tơn giáo của người
Việt. Bàn về nguồn gốc hình thành của tín ngưỡng thờ cúng Tổ tiên, cho đến nay
vẫn cịn nhiều tranh cãi. Chưa có cơ sở chắc chắn để khẳng định rằng, tín ngưỡng
thờ cúng Tổ tiên được hình thành ở trong nước, hay được du nhập từ nước ngoài
vào Việt Nam.
Hà Văn Tăng, Trương Thìn trong cơng trình “Tín ngưỡng và mê tín” [79]
cho rằng: thờ cúng Tổ tiên của người Việt bắt nguồn từ sự thờ cúng Tổ tiên của
người Hán. Các tác giả chỉ rõ: “thờ cúng Tổ tiên có thể lúc đầu cử hành trong người
Hán, rồi lan sang người Việt. Và đến một thời điểm nào đó thì trở thành phong t c
phổ biến của người Việt” [79, tr.150]. Phủ nhận quan điểm đó, Nguyễn Đăng Duy
trong cuốn “Văn hóa tâm linh” [17] lại cho rằng “việc thờ cúng Tổ tiên của người
Việt đã có cái gốc, cái nền nội sinh chứ không phải do từ Trung Quốc xâm nhập vào
từ nhiều sách báo từ trước tới nay đã khẳng định” [17, tr.181]. Đó cũng là quan
niệm của Lê Như Hoa trong cơng trình “Tín ngưỡng dân gian Việt Nam” [41]: “..
24


có một số ý kiến cho rằng, sự thờ cúng Tổ tiên gia tộc ở người Việt được du nhập từ
Trung Quốc. Song sự thật không phải như vậy... sự thờ cúng Tổ tiên của người
Việt có gốc rễ từ sự thờ cúng người chết” [41, tr.109].


25


×