Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

vận dụng tư tưởng về con người trong di chúc của chủ tịch hồ chí minh để xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.32 KB, 104 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CƠNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2011


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CƠNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI

Chuyên ngành

: Hồ Chí Minh học

Mã số

: 60 31 27


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

Người hướng dẫn khoa học: PGS,TS. LÊ VĂN TÍCH

HÀ NỘI - 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo
chính xác, trung thực và có độ tin cậy. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.

Tác giả Luận văn

Nguyễn Cơng Lập


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG
DI CHÚC
1.1. Bối cảnh ra đời bản Di chúc lịch sử


7
7

1.2. Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người
trong Di chúc

15

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON
NGƯỜI TRONG DI CHÚC ĐỂ XÂY DỰNG CHÍNH
SÁCH XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Các nhân tố tác động đến con người hiện nay

41
41

2.2. Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp
đổi mới
2.3. Các nhóm giải pháp

47
75

KẾT LUẬN

88

DANH MỤC CƠNG TRÌNH, BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ


91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiến trình phát triển của nhân loại thể hiện ngày một rõ vị trí, vai trị
của nhân tố con người. Con người được đánh giá là nhân tố quyết định trong
các nguồn lực, là tài nguyên quý báu nhất của mỗi quốc gia, là động lực phát
triển của mọi xã hội. Vì vậy, phát triển con người phải là mục tiêu cao nhất
của tiến trình lịch sử nhân loại.
Là nhà cách mạng chuyên nghiệp, trong đó có gần 40 năm từ cương vị
sáng lập đến người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước ta, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã thực tế hóa hệ thống tư tưởng của mình và Đảng ta trong tiến trình
cách mạng Việt Nam từ đầu thập kỷ 30 đến hết thập kỷ 60 của thế kỷ XX.
Trong đó, trung tâm và cũng là mục tiêu của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tư
tưởng về con người - trước hết là con người Việt Nam bị áp bức, dân tộc, giai
cấp cần được giải phóng và phát triển tồn diện. Nói cách khác, trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Tư tưởng ấy được thể hiện
trong hệ thống bài nói, bài viết và trong thực tiễn hoạt động cách mạng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Và đặc biệt, trong Di chúc, một lần nữa Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định tồn bộ tư tưởng và trải nghiệm trọn cuộc đời cách mạng
của Người. Tư tưởng của Người đã trở thành giá trị của cái đẹp, của văn hóa,
của truyền thống nhân văn Việt Nam.

Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có tác dụng
quyết định đến sự thành công của cách mạng Việt Nam, của sự nghiệp giải
phóng triệt để con người và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa. Nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng
đường lối và hoạch định chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta đối với


2
con người trong sự nghiệp đổi mới. Do vậy, quan điểm con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển - “con người là nguồn lực của mọi nguồn
lực” của Đảng ta cần được thể hiện trong chính sách xã hội nhằm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của toàn dân, nhằm thực hiện mục tiêu cao cả của chủ
nghĩa xã hội là phát triển các năng lực sáng tạo của con người trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội của Đảng và
Nhà nước ta đã và đang đi vào cuộc sống, từng bước tích cực hóa nhân tố con
người nhờ giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội. Tuy vậy, công cuộc đổi
mới hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần
hoạch định và tổ chức thực thi chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình
mới, nhằm phát huy có hiệu quả nguồn lực con người, thực hiện mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh” [27, tr.70].
Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người để xây dựng
chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới là một trong những vấn đề bức thiết
hiện nay cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan
trọng của chính sách xã hội đối với sự phát triển của con người, đề tài “Vận
dụng tư tưởng về con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để
xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới” đang là vấn
đề cấp thiết cần được triển khai nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội đối với con

người được thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của Người. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính
sách xã hội được Đảng ta và nhiều nhà khoa học quan tâm.
Vì vậy, trong các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ
VI (1986) đến nay, Đảng ta đều xác định mục tiêu của chính sách xã hội thống


3
nhất với mục tiêu phát triển kinh tế là nhằm phát huy sức mạnh của con người.
Đặc biệt, Đại hội đại biểu của Đảng lần thứ XI (2011) vừa qua, Đảng ta tiếp tục
khẳng định chính sách xã hội phải vì hạnh phúc con người. Việc phát huy nhân
tố con người đối với sự phát triển xã hội: “Phát huy tối đa nhân tố con người;
coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”
[27, tr.100]; trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ
cơng dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội coi đây
là tiền đề quan trọng để thực hiện mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Bàn về vấn đề con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển kinh tế - xã hội, trong cuốn “Vấn đề con người trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1996, tác giả Phạm Minh Hạc (chủ nhiệm) đã đặt viên gạch đầu tiên cho
ngành khoa học về con người ở nước ta, coi con người là trung tâm của sự
phát triển, con người là giá trị của mọi giá trị.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tác giả Lê Sỹ Thắng (chủ biên) đã khẳng
định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người ln là cơ sở cho việc hoạch định các
chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Tuy
vậy, cơng trình khơng đi sâu tìm hiểu các chính sách xã hội cụ thể mà dừng lại
ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho việc hoạch định các
chính sách ấy.

Trong cuốn “Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện nay”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1993, tác giả Hồng Chí Bảo đã có nhiều
thành cơng trong nghiên cứu lý luận và phương pháp luận về chính sách xã
hội, khái niệm và nội dung của chính sách xã hội cũng như mối quan hệ giữa
chính sách xã hội với các chính sách khác.


4
Tác giả Lê Quang Hoan trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, đã phân tích những nội dung
cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và khẳng định sự cần thiết phải
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong cuốn “Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2008, tác giả Thành Duy khẳng định chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí
Minh thực chất là sự kết tinh những giá trị của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản,
thấm đượm tinh thần dân tộc và tinh thần nhân loại trong sáng, cao cả.
Trong cuốn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người tồn diện”,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tác giả Nguyễn Hữu Công chủ yếu bàn
về quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện và
khẳng định vai trị của nhân tố kinh tế, chính trị, văn hóa trong q trình hình
thành và phát triển con người tồn diện.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về chính sách xã hội cịn
được cơng bố trên các kỷ yếu Hội thảo khoa học về 35 năm, 40 năm thực hiện
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trên nhiều tạp chí khoa học. Nội dung
các bài viết đề cập sâu nhiều khía cạnh tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và
chính sách đối với con người nói chung và người có cơng với cách mạng, về
chính sách xóa đói giảm nghèo,… của Đảng và Nhà nước hiện nay.
Với góc độ tiếp cận khác nhau, tác giả đều đề cập vấn đề con người trong
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp đổi mới với tư cách vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của sự phát triển xã hội, là trung tâm của các chính sách xã hội.
Tuy nhiên, do mục tiêu và đối tượng nghiên cứu mà các tác giả chưa đi sâu
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc và sự vận dụng


5
của Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng, tổ chức thực thi chính sách xã
hội trong cơng cuộc đổi mới hiện nay.
Kế thừa thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước nên tôi chọn vấn đề
“Vận dụng tư tưởng về con người trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
để xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp đổi mới” làm đề tài
luận văn tốt nghiệp cuối khóa của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Từ những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong
Di chúc, luận văn nghiên cứu làm rõ sự vận dụng quan điểm đó của Đảng và
Nhà nước trong việc xây dựng chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp
đổi mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tập trung làm rõ:
-

Nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc.

-

Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về con người trong Di chúc để xây dựng chính sách xã hội trong cơng
cuộc đổi mới hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc.
- Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc của
Đảng và Nhà nước ta trong việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước
ta trong cơng cuộc đổi mới thơng qua các văn kiện, các chính sách đảm bảo
quyền lợi của con người các thành phần xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề con người.


6
- Thực trạng con người Việt Nam sau hơn 40 năm thực hiện Di chúc và
những chính sách xã hội chủ yếu nhất, cơ bản nhất của Đảng và Nhà nước ta
đối với sự phát triển của con người Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng phương pháp lịch sử - lơgíc,
kết hợp phương pháp phân tích và tổng hợp,…
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Luận văn khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về con người trong Di chúc
để góp phần làm rõ giá trị to lớn tư tưởng đó đối với sự nghiệp xây dựng phát
triển con người tồn diện. Đồng thời, minh chứng tính đúng đắn và những hạn
chế của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định, xây dựng chính sách xã hội
ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần nghiên cứu con người với tư cách vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của cách mạng và ý nghĩa của việc xây dựng các chính sách
xã hội nhằm phát triển con người trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham

khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy mơn học tư tưởng Hồ Chí Minh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.


7
Chương 1
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI TRONG DI CHÚC
1.1. BỐI CẢNH RA ĐỜI BẢN DI CHÚC LỊCH SỬ

Năm 1965, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu khởi thảo bản Di chúc
cũng là lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đang bước
vào giai đoạn gay go, ác liệt. Tháng 2- 1965, không quân Mỹ ồ ạt leo thang
đánh phá miền Bắc. Tháng 3- 1965, quân viễn chinh Mỹ bắt đầu đổ bộ vào Đà
Nẵng. Lịch sử lại đặt dân tộc ta trước một thử thách cực kỳ khó khăn, nghiêm
trọng. Hành động bắn phá miền Bắc của đế quốc Mỹ nhằm mục đích cứu
nguy cho sự thất bại nặng nề của chế độ ngụy quyền Sài Gịn trước những địn
tấn cơng của quân giải phóng. Chúng huyênh hoang tuyên bố ném bom miền
Bắc, hòng đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá. Nhiều thành phố, làng mạc ở
miền Bắc phải hứng chịu mưa bom bão đạn, bị tàn phá nặng nề. Nhưng đồng
bào hai miền Nam Bắc vẫn nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng đánh bại âm
mưu xâm lược của đế quốc Mỹ. Hậu phương lớn miền Bắc vẫn không ngừng
chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Còn miền Nam vẫn
hướng về miền Bắc, hướng về Bác Hồ và Trung ương Đảng, vững tin vào ngày
chiến thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh vào những năm ấy tuổi đã cao, sức đã yếu
nhưng vẫn ngày đêm cùng Trung ương Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, vẫn
thương nhớ miền Nam, miền Nam luôn ở trong trái tim Người.
Từ những năm 50 của thế kỷ XX, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Liên Xơ

và Trung Quốc góp phần tăng cường sức mạnh của các nước trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng từ đầu những năm 60, trước âm
mưu vươn lên làm bá chủ thế giới, Mỹ phô trương tiềm năng kinh tế, sức mạnh
quân sự bằng cách tăng cường can thiệp vũ trang vào nhiều quốc gia, khu vực;


8
thế giới đã xuất hiện nhiều cách đánh giá về sức mạnh, vai trò của Mỹ trên
trường quốc tế và theo đó là “thái độ” đối với Mỹ. Nhiều quốc gia thần phục
trước tiềm năng kinh tế, sức mạnh quân sự của Mỹ đã nảy sinh tâm lý sợ Mỹ. Họ
cho rằng, khơng nên chống Mỹ, vì có thể dẫn đến chiến tranh lớn. Ngay trong
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế cũng nảy sinh tình trạng đánh giá
khác nhau về Mỹ. Có người cho rằng “Mỹ là con hổ giấy!” nên dẫn đến thái độ
coi thường sức mạnh Mỹ, xa rời Tuyên bố Mátxcơva năm 1960 của Hội nghị các
Đảng Cộng sản và Công nhân quốc tế. Họ tự nêu định nghĩa nội dung thời đại là
“gió Đơng thổi bạt gió Tây!”. Số khác lại cho rằng, Mỹ là “con hổ giấy có răng
nanh nguyên tử!” và do vậy không nên chống Mỹ. Bởi lẽ, từ những cuộc chiến
khu vực có thể dẫn đến chiến tranh lớn, chiến tranh thế giới. Từ đó dẫn đến thái
độ thần phục Mỹ, sợ Mỹ, không ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ cứu nước. Cùng với nhiều nguyên nhân khác, tình hình trên đây đã dẫn đến
sự bất hòa trong phe xã hội chủ nghĩa, mà biểu hiện mâu thuẫn giữa Liên Xơ và
Trung Quốc là tiêu biểu.
Tình hình trên đây đặt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân
dân Việt Nam trước sự bất lợi. Bởi lẽ, Liên Xô, Trung Quốc là hai nước lớn
trong phe xã hội chủ nghĩa đang là hai nước viện trợ lớn cho cuộc kháng chiến
của nhân dân ta. Nhưng nay hai nước nảy sinh bất đồng, vấn đề viện trợ quân
sự, sự giúp đỡ về đường lối kháng chiến của ta đặt trước những thử thách mới.
Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã có bài phát biểu quan trọng tại Hội nghị 81 Đảng Cộng sản và Công nhân
quốc tế tại Mátxcơva tháng 11- 1960, khẳng định xu thế lớn mạnh của phong

trào cộng sản và công nhân quốc tế, ủng hộ đường lối “chung sống hịa bình
giữa hai hệ thống và phát triển phong trào cách mạng ở các nước thuộc hệ
thống tư bản chủ nghĩa là hai mặt khăng khích của cuộc đấu tranh hiện nay
của nhân dân thế giới…giữ vững và tăng cường sự đồn kết nhất trí giữa các


9
nước xã hội chủ nghĩa và giữa các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân các
nước,…” [19, tr.1038-1043].
Mặc dù vậy, “sự bất hịa” của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế,
trong đó giữa Đảng Cộng sản Liên Xơ và Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn
không được ngăn chặn. Cùng với những khó khăn của cuộc kháng chiến của
nhân dân Việt Nam, sự phân biệt của phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế
nói trên đã “góp phần” làm sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày một yếu.
Trong bối cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn kiên trì rèn luyện sức
khỏe và cùng Trung ương Đảng lãnh đạo công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nước. Đồng thời, Người bí mật
chuẩn bị cho “chuyến đi xa” của mình. Người biết rõ sức khỏe của mình, quy
luật khắt khe của tạo hóa. Vì vậy, tháng 5- 1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt
đầu bí mật viết những dòng đầu tiên trong Di chúc, mà Người đặt dưới cái tên
cũng rất bình dị như những dịng viết khác trong cuộc đời hoạt động cách
mạng đầy gian lao, bí mật của mình là “Tuyệt đối bí mật”. Đây là bản gồm ba
trang, do chính Người đánh máy, phần cuối đề Hà Nội, ngày 15- 5- 1965,
dưới có chữ ký “Hồ Chí Minh” và bên trái có chữ ký của đồng chí “Lê Duẩn”
- “Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng chứng kiến”.
Trong tác phẩm “Bác Hồ viết Di chúc”, đồng chí Vũ Kỳ - Thư ký riêng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại cứ vào diệp tháng 5- 1966, 1967 Người đọc
lại, suy ngẫm, cân nhắc kỹ những điều đã viết ra trong “Tài liệu đặc biệt”
nhưng khơng có sửa chữa gì thêm và khơng có những bản viết riêng. Bởi
Người cịn suy nghĩ, cân nhắc mọi điều sẽ dặn lại cho chúng ta.

Bản Di chúc của Người cũng chứa đựng tình cảm bao la, bao qt tồn
bộ cuộc đời vì nước, vì dân, vì mỗi con người và tồn dân tộc Việt Nam.
Thơng thường, Di chúc là những điều “chắt lọc” của người sắp đi xa dặn
người ở lại: con cháu họ tộc về truyền thống họ tộc gia phong, về kinh


10
nghiệm, bài học cuộc đời, về dòng dõi họ mạc và sự phân chia tài sản cho con
cháu*. Nhưng với Chủ tịch Hồ Chí Minh - người “khơng có gia đình, cũng
khơng có con cái…khơng nhà cửa, khơng vợ, khơng con, nước Việt Nam là
đại gia đình của tơi. Phụ lão Việt Nam là thân thích của tơi. Phụ nữ Việt Nam
là chị em của tơi. Tơi chỉ có một điều ham muốn là làm cho Tổ quốc tôi được
độc lập, thống nhất, dân chủ,…”[64, tr.40,171] trọn cuộc đời Người đã hy
sinh vì nền độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của mỗi người dân Việt
Nam. Mỗi từ ngữ trong “Tài liệu đặc biệt” đều là sự trăn trở, suy nghĩ vô cùng
kỹ lưỡng, là kết tinh sự lo toan cả cuộc đời cùng với khát vọng của từng
người dân Việt. Đó là lời dặn lại của người lãnh đạo cao nhất của dân tộc đối
với các thế hệ cách mạng, lời truyền lại của người cha với các thế hệ con
cháu, là phương án xây dựng lại đất nước sau ngày giải phóng. Vì vậy, sau
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1968, thế trận miền Nam có
một số thay đổi và sức khỏe của Người càng yếu thêm, Người đã bổ sung
thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay. Trong đó, Người viết lại đoạn mở
đầu và đoạn nói “về việc riêng” đã viết trong bản năm 1965, và viết thêm một
số đoạn. Đó là những đoạn nói về những việc cần làm sau khi cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh
đốn lại Đảng, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân dân, miễn thuế nông
nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây dựng lại thành phố và
làng mạc, khơi phục và phát triển kinh tế, văn hóa, củng cố quốc phòng,
chuẩn bị thống nhất đất nước. Trong đó, đoạn viết về chỉnh đốn lại Đảng và
chăm sóc đối với thương binh, Người viết rồi lại gạch chéo; đoạn nói về xây

dựng lại đất nước, phát triển kinh tế, văn hóa, chuẩn bị thống nhất đất nước,
Người gạch dọc ở bên trái ngoài lề.
*

Theo từ điển bách khoa Việt Nam, Di chúc là một văn bản pháp luật dân sự của người từ 18 tuổi trở lên tự
nguyện lập trong khi cịn sống và minh mẫn, khơng bị lừa dối nhằm xử lý di sản hoặc các công việc khác và
phát sinh hiệu lực khi người đó chết.


11
Ngày 10- 5- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉnh sửa và viết lại hoàn
chỉnh Di chúc.
Toàn văn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh gồm bút tích đánh máy và
các trang viết tay chỉ cô đúc trong mấy trang giấy, nhưng đó là một tác phẩm
vơ cùng q giá vì nội dung tư tưởng cực kỳ lớn lao và phong phú. Bản Di
chúc chính là sự tổng kết một cuộc đời, một sự nghiệp của vị Chủ tịch kính
yêu của dân tộc. Với cách mạng và với Đảng, đó là cả một chặng đường chiến
đấu gian lao, trải qua những cuộc chiến tranh giải phóng, đánh bại hai tên đế
quốc lớn Pháp và Mỹ. Đó cịn là “bản thiết kế” xây dựng nước Việt Nam
thống nhất theo tinh thần đổi mới mang lại nhiều dân chủ, tự do, hạnh phúc
nhất của mỗi con người Việt Nam và là nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự
bền vững của độc lập dân tộc.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện lịch sử vô giá kết tinh
những tinh hoa đạo đức và tâm hồn cao đẹp, những nội dung cơ bản, những
quan điểm cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh, đúc kết những vấn đề có tính
nguyên lý của cách mạng Việt Nam và vạch ra phương hướng phát triển cho
cách mạng Việt Nam cả hôm nay và trong tương lai. Những tư tưởng lớn
trong Di chúc được chắt lọc, được đúc kết bằng cả cuộc đời của một người
Việt Nam vĩ đại nhất, đã để lại những dấu tích sâu xa trong số phận của dân
tộc mình và quyết định rất nhiều số phận của dân tộc trong tương lai. Di chúc

đề cập đến hàng loạt vấn đề của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, những
nhiệm vụ trọng đại mà Đảng và nhân dân ta phải nỗ lực thực hiện ở thời điểm
bước ngoặt, những công việc cần giải quyết trong tương lai gần khi cách
mạng nước nhà sắp đến ngày toàn thắng. Di chúc cũng hướng tới một tương
lai xa với một niềm tin mãnh liệt vào sức sáng tạo của nhân dân và dân tộc,
vào triển vọng tốt đẹp của phong trào cách mạng thế giới. Đặt ra những vấn
đề như thế trong Di chúc, đó là sự thể hiện sức nghĩ, tầm nhìn và hành động


12
của một nhà tư tưởng với trí tuệ lớn và nhân cách lớn. Khẳng định giá trị của
bản Di chúc, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Bản Di chúc tuy
rất ngắn gọn, song nó chứa đựng biết bao giá trị tư tưởng và tình cảm, là sự
kết tinh của một đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh, đem lại sự đổi
đời của dân tộc Việt Nam ta, đồng thời để lại những di sản bất hữu với những
thế hệ mai sau”[31, tr.7]. Di chúc không chỉ thể hiện tầm cao tư tưởng mà còn
đặc sắc về phương pháp và phong cách, tất cả được kết hợp nhuần nhuyễn ở
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là một biểu tượng kiệt xuất về Văn hóa làm người,
một kiểu mẫu về Đạo làm người.
Có thể nói bản Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị như một
cương lĩnh chính trị xây dựng và phát triển đất nước mà Người đã để lại trước
lúc đi xa. Bản Di chúc đề cập đến nhiều phương diện, chứa đựng những giá trị
lý luận, thực tiễn sâu sắc, mang ý nghĩa nhân văn cao cả và giá trị lịch sử cho
muôn đời mai sau. Cùng với ý nghĩa nhân văn lớn lao, Di chúc đã trở thành
văn kiện quan trọng, một di sản vô giá của Đảng ta, dân tộc ta. Mỗi câu, mỗi
chữ trong “Tài liệu tuyệt đối bí mật” đều tốt lên nhân cách của một “cơng
bộc” phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Không dừng lại ở đó, Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là tài sản chung của cách mạng thế giới, của nhân
loại u tự do, hịa bình và tiến bộ trên khắp năm châu:
Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam đã phản ánh một sự hòa hợp

giữa mặt chủ quan của Chủ tịch Hồ Chí Minh với mặt khách quan
của phong trào cách mạng thế giới. Chính vì thế Bác Hồ cùng với
bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công
nhân và cách mạng trên thế giới. Người được liệt vào những bậc mà
thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ
quốc mình, và chính điều đó làm cho đối phương cũng phải kính
trọng [90, tr.66].


13
Nói đến Di chúc thì trước hết phải nói đến người viết ra nó. Con người
ấy có sức cảm hóa muôn người bởi trái tim nhân ái, vị tha, khoan hòa độ
lượng. Sự độ lượng vĩ đại ấy làm xúc động mn triệu người trên trái đất này.
Đó là con người suốt đời phấn đấu vì một lý tưởng cao đẹp, một chiến sĩ phấn
đấu không mệt mỏi trong suốt 60 năm vì những mục tiêu cao quý của dân tộc
Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ở tuổi 79, Chủ tịch
Hồ Chí Minh suốt đời hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân, dù phải từ biệt thế gian này, Người khơng cịn điều gì phải
hối hận, chỉ tiếc là không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Người là
nhà hoạt động cách mạng kiên cường, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn thử
thách, luôn chủ động và nắm bắt thời cơ để tiến đến đích, giành thắng lợi cuối
cùng. Nguồn gốc của sức mạnh này là con người Hồ Chí Minh với những
phẩm chất cao quý trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, tinh
hoa văn hóa nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin, là niềm tin sâu
sắc vào sức mạnh to lớn của dân tộc và của con người Việt Nam. Do vậy, tư
tưởng Hồ Chí Minh ln xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con
người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người thể hiện đa dạng, phong phú trong
toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người. Tất cả đều tốt lên tình
thương u vơ hạn, thái độ bao dung và lòng tin yêu tuyệt đối của Người vào

con người. Nhận xét về tầm quan trọng của vấn đề con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu khẳng định:
Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải quyết mối tương quan
giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực hay ảo ảnh,
khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng
tạo mới lạ; mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con
người thật, đang sống trong quả đất này và chắc chắn còn sống lâu dài


14
đến vơ tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy nghĩ và chủ
đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó [38, tr.79].
Chủ tịch Hồ Chí Minh ln u thương con người, đã khơng ngừng phấn
đấu, hy sinh cho sự nghiệp giải phóng con người và luôn quan tâm đến mọi
đối tượng xã hội, mọi tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh
khơng chỉ phản ánh khát vọng của con người mà quan trọng là hướng con
người đến hành động cách mạng để chinh phục thế giới, để giành lại hạnh
phúc mà con người cần có trong cuộc sống. Do vậy, chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh được gọi là chủ nghĩa nhân văn chiến đấu, chiến đấu cho mình,
chiến đấu cho đồng loại đau khổ, chiến đấu vì sự cơng bằng và nhân phẩm mà
con người cần có và đáng có, để đem lại cuộc sống đích thực với hạnh phúc
cho mọi người và vì mọi người. Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói,
mỗi người chúng ta, ai cũng ở trong trái tim mênh mơng và tình thương yêu
bao la của Người. Bởi vậy, trong bản Di chúc lịch sử để lại cho toàn Đảng,
toàn quân và toàn dân ta, khơng chỉ để lại “mn vàn tình thương u” cho
hết thảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn căn dặn “Đầu tiên là công việc đối với
con người” [71, tr.503].
Con người trong Di chúc là sự tổng hợp nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam, là một nhiệm vụ quan trọng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ ra cho Đảng và Nhà nước ta cần phải làm cho con người Việt Nam sau khi

giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong Di chúc là sự tổng kết quan trọng về chủ nghĩa nhân văn mà
Người đã đúc kết trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Đây chính
là vấn đề cốt tủy, là hạt nhân, đồng thời cũng là mục tiêu cuối cùng, sâu thẳm
nhất trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh nói riêng.


15
1.2. NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI
TRONG DI CHÚC

1.2.1. Đầu tiên là công việc đối với con người
Cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn là quan điểm coi trọng nhân cách, phẩm
giá con người, thương yêu con người. Điều đó ở Chủ tịch Hồ Chí Minh thật
tồn diện và sâu sắc. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người ln là mục
tiêu quan trọng nhất và chi phối toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của
Người. Không phải đến khi viết Di chúc Người mới đề cập đến con người.
Xuất dương tìm đường cứu nước từ thân phận của một người dân mất nước,
một người dân thuộc địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến nhiều nơi, sống chung
với nhiều người cùng cảnh ngộ, ở nhiều quốc gia, châu lục. Người đã tận mắt
chứng kiến bao cảnh thương tâm của kiếp người nô lệ, người cùng khổ trên
khắp thế giới. Người thấu hiểu sâu sắc về thân phận con người, quan niệm về
con người một cách rõ nét và định hướng đấu tranh vì con người. Dựa vào
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp cận
con người và đem lại một quan niệm riêng hết sức độc đáo. Ở Hồ Chí Minh
khơng có nhiều bài viết riêng về con người, nhưng trong hệ thống tư tưởng
của Người, con người nói chung, trong đó trước hết là con người Việt Nam
yêu nước, cần cù trong lao động, dũng cảm trong đấu tranh chống ngoại xâm
luôn luôn được biểu hiện rõ nét thông qua cuộc sống lao động và đấu tranh

của họ. Vấn đề con người trong các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln được nhắc đến như một mục tiêu cao cả. Nó thấm đượm trong toàn bộ
cuộc đời hoạt động của Người, được tỏa sáng trong từng việc làm, từng cử
chỉ, từng mối quan tâm ân cần đến mỗi con người, mỗi thân phận.
Con người trong xã hội thuộc nhiều tầng lớp, thứ hạng khác nhau,
nhưng bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành tình cảm, tâm hồn, trí tuệ
của mình cho những người cùng khổ. Vì muốn giải phóng cho những người


16
cùng khổ mà Người đã hiến cả đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Người xót xa trước nỗi bất
hạnh bị xâm lược, áp bức, bóc lột đối với người dân Việt Nam và đối với
con người cùng cảnh ngộ của các dân tộc khác. Người luôn quan tâm đến
đời sống vật chất và tinh thần của con người. Mong muốn cháy bỏng của
Người là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn tồn
tự do, ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành, được sống trong
hịa bình, hữu nghị, yêu thương và hạnh phúc. Mục đích cuối cùng của cách
mạng do Người lãnh đạo nhằm giúp con người có thể thực hiện được đầy đủ
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, nhằm giúp con người
phát triển tồn diện. Vì thế, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, việc xây dựng con
người xã hội chủ nghĩa luôn là công việc quan trọng đầu tiên trong sự
nghiệp của chúng ta.
Vì vậy, nội dung chủ yếu bản Di chúc viết tay năm 1968 (mà Người ghi
là “thêm mấy điểm” vào trong thư này - tức bản Di chúc đánh máy tháng 51965) viết về sự hy sinh của những con người, những thành phần xã hội
khác nhau và chính sách của Đảng, Nhà nước đối với họ sau kháng chiến
chống Mỹ thắng lợi: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người chỉ
rõ: “…để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm. Theo ý tơi, việc cần phải
làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng” - yếu tố cực kỳ quan trọng để xây
dựng lại xã hội Việt Nam sau chiến thắng đế quốc xâm lược. Và cơng việc

đầu tiên sau đó là “đối với con người” [71, tr.503]. Đó là những thành phần
xã hội, những con người rất cụ thể đã từng hy sinh tài sản, xương máu cho
kháng chiến, những nạn nhân của xã hội cũ,…
Trong Di chúc, con người theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết là
những người đã hy sinh một phần xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân
tộc, đó là cha mẹ, vợ con của họ, là đoàn viên thanh niên, phụ nữ, các bậc phụ


17
lão, các cháu nhi đồng yêu quý, những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ
trang nhân dân và thanh niên xung phong, đồng bào nông dân, các đồng chí
trong Đảng, những nạn nhân của chế độ cũ,… Xuất phát từ tình thương yêu
đối với tất cả mọi tầng lớp trong xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên
những việc cần làm về kinh tế - xã hội, văn hóa - giáo dục,… đối với con
người ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi.
Các chính sách đó phải nhằm hướng tới hầu hết các tầng lớp xã hội, bộ đội,
thanh niên xung phong, thương binh, gia đình liệt sĩ, nơng dân, phụ nữ,... cho
đến nạn nhân của xã hội cũ như trộm cắp, gái đếm, cờ bạc, buôn lậu,... hầu
như không bỏ sót một đối tượng nào.
Tình thương u, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng dừng lại
ở những vấn đề chung nhất của toàn xã hội mà rất cụ thể đối với từng đối
tượng trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn cứ vào vị trí xã hội, chức
năng, nhiệm vụ của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân để phát huy tối đa phẩm chất và
năng lực của mỗi con người trong từng lĩnh vực đặc thù. Hơn ai hết Người
thấu hiểu và trân trọng, tôn vinh những con người đã chiến đấu, đã hy sinh
cuộc sống và hạnh phúc cá nhân, cống hiến mọi sức lực cho Tổ quốc. Phải tạo
điều kiện để toàn bộ những thanh niên, phụ nữ, thương binh, bệnh binh, nông
dân có một cuộc sống tốt đẹp sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
kết thúc thắng lợi.
Di chúc thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với

những người có cơng với nước như thương binh, bệnh binh, liệt sĩ và gia đình
của họ. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm
nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm
lược, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân
và sự sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha
mẹ, những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể


18
gặp lại người thân của mình. Kế thừa và phát huy đạo lý truyền thống ngàn
đời của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ln dành cho thương binh, bệnh binh và thân nhân các liệt
sĩ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc.
Ngay từ tháng 6- 1947, giữa những năm tháng ác liệt của cuộc kháng
chiến chống Pháp, Người đã chỉ thị chọn một ngày nào trong năm làm “Ngày
Thương binh”. Thực hiện chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị gồm đại biểu
của các cơ quan, các ngành ở trung ương, khu và tỉnh đã họp ở Phú Minh, Đại
Từ, Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27- 7- 1947 làm “Ngày Thương binh,
liệt sĩ” đầu tiên trong cả nước. Từ đó, ngày 27- 7 hàng năm đã trở thành
“Ngày Thương binh, liệt sĩ” của cả nước. Đối với mỗi người dân Việt Nam:
Ngày 27- 7 là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy, thì những
người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh,
tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô
danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần
xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta [65, tr.75].
Đến ngày 27- 7 hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư động viên,
khích lệ cho thương binh và các gia đình liệt sĩ. Khơng chỉ gửi thư, Người cịn
trích một tháng lương của mình và dành những món q để tặng thương binh.
Ngồi ra, Người cịn đi thăm một số cơ sở chăm sóc thương binh, thăm những gia
đình có cơng với cách mạng, gia đình có đơng con đi bộ đội và gia đình liệt sĩ. Dù

bận nhiều việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Người vẫn dành thời gian
đến viếng các nghĩa trang liệt sĩ. Người viết:
Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sĩ đã ghi
sâu vào lòng dạ của tồn dân và non sơng đất nước.
Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sĩ đã
thấm nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc kiên


19
quyết đấu tranh đặng giành hịa bình, thống nhất, độc lập và dân
chủ trong cả nước.
Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm
thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử
xanh [66, tr.427].
Tình cảm của Người đối với thương binh, bệnh binh và gia đình liệt sĩ là
dù trong hoàn cảnh nào cũng giúp họ từng bước ổn định và nâng cao dần đời
sống vật chất, tinh thần. Người thường xuyên nhắc các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể chấp hành thật tốt đối với các chính sách đối với thương binh,
bệnh binh và các gia đình có cơng với cách mạng. Cùng với các chủ trương,
chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước, những việc làm đền ơn đáp nghĩa
của nhân dân ta góp phần giúp họ ổn định cuộc sống, có cơ hội tham gia vào
các hoạt động của xã hội và góp phần vào việc xây dựng đất nước.
Đối với những người có cơng với cách mạng, đặc biệt để thương binh có
thể phát huy tinh thần “tự lực cánh sinh” trong tăng gia sản xuất, học tập,
công tác, trước hết cần có sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của cộng đồng
và xã hội. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cấp ủy Đảng và chính quyền
cùng đồng bào cả nước ai cũng có thể giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ.
Việc giúp đỡ phải thiết thực, cụ thể, có tổ chức và tùy theo khả năng của từng
người. Vì đây là cơng việc tình nghĩa, nên tuyệt đối không cưỡng bức và cần
giúp đỡ lâu dài chứ không chỉ trong một thời gian ngắn, không phải bằng cách

góp gạo ni thương binh, mà bằng cách tạo điều kiện và công ăn việc làm
cho họ. Mọi người nên coi đây là một nghĩa vụ, chứ không phải là một việc
“làm phúc”.
Với các thương binh, bệnh binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Đã là
quân nhân cách mạng thì bao giờ cũng phải là chiến sĩ anh dũng. Tránh ỷ lại,
công thần, kém kỷ luật, kém tin tưởng, khơng tích cực cơng tác, khơng bi


20
quan chán nản. Phải luôn luôn cố gắng đem hết khả năng của mình để tăng
gia sản xuất, dần dần có thể tự lực cánh sinh, tiến tới tự cấp tự túc, giảm bớt
khó khăn cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu để trở thành người công
dân kiểu mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu
mẫu ở ngoài mặt trận.
Xuất phát từ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc đối với những người có
cơng với nước, với các gia đình thương binh liệt sĩ, trong suốt 24 năm lãnh
đạo đất nước, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước lúc đi
xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta
lời căn dặn cuối cùng trong Di chúc về thương binh, liệt sĩ. Người chỉ rõ:
Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của
mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong,…),
Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi
ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp
với mọi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây
dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh của các liệt sĩ, để đời
đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao
động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nơng thơn thì
chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có cơng

việc làm ăn thích hợp, quyết khơng để họ đói rét [71, tr.503-504].
Tình cảm thân thương, niềm tin và sự quan tâm của Người là định
hướng, là chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc, là nguồn động viên, cổ vũ lớn
lao để bộ đội, chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách phấn đấu hồn thành
nhiệm vụ của mình trước vận mệnh của nước nhà trong mọi giai đoạn lịch sử.


21
Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những là nhà chiến lược, nhà tổ chức thiên
tài mà còn là người cha thân yêu đối với cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Đặc
biệt, đối với thanh niên xung phong, các chiến sĩ trẻ tuổi, Người đã dành cho
họ những tình cảm sâu nặng, tin yêu và ấm áp. Người luôn theo dõi từng bước
trưởng thành và luôn mong muốn xây dựng họ trở thành “đội quân chủ lực”
không chỉ trong chiến đấu mà cả trong xây dựng đất nước. Người dặn dò:
Những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và
thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và
đều tỏ ra dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất,
cho các cháu ấy đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo thành
những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập
trường cách mạng vững chắc [71, tr.504].
Với tầm nhìn chiến lược, với kinh nghiệm của một nhà quản lý, lãnh đạo
đất nước, Người đã tiên đốn một cách chính xác về mơ hình đội ngũ quản lý
vừa hồng, vừa chuyên cho tương lai của đất nước. Người khẳng định: “Đó là
đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước
ta” [71, tr.504]. Người đặt kỳ vọng vào tuổi trẻ, nhất là lớp tuổi trẻ có chọn
lọc. Muốn trở thành những cây cổ thụ vững chắc phải chọn lọc từ những mầm
khỏe khoắn, được thử thách. Đó là một trong những tư tưởng lớn của Người
khi đánh giá, quan tâm đến tuổi trẻ.
Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên là lực lượng
xung kích, là tương lai của dân tộc và hạnh phúc của mỗi gia đình. Người coi

tuổi trẻ là độ tuổi đẹp nhất trong cuộc đời mỗi con người: “Một năm khởi đầu
từ mùa xuân. Một đời người khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã
hội” [63, tr.167]. Mùa xuân dân tộc được xanh tốt từ những cuộc đời tươi trẻ
của mỗi con người. Đó là triết lý trong chiều sâu tư tưởng của Người.


×