Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tải Bình giảng bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ - 7 Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.24 KB, 24 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Bình giảng bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ</b>
<b>Ngữ văn 11</b>


<b>Bài làm</b>


Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế
kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống
cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại
quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ơng cũng hăm hở
chí nam nhi, sịng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:


<i>"Đã mang tiếng ở trong trời đất,</i>


<i>Phải có danh gì với núi sông".</i>


Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá
tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm "Hàn nho
phong vị phủ", và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. "Bài ca ngất ngưởng"
là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói
này có hai khổ dơi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo
rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ
dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.


Nguyễn Cơng Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triểu
Nguyễn. Bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" được ơng viết sau khi đã về trí sĩ tại quê
nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật vể cuộc đời, qua đó ơng Hi Văn tự
hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong
cách sống tài tử, phóng khống ở đời.


"Ngất ngưởng" nghĩa là khơng vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển
tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu "ngất ngưởng" là một con người khác


đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được
Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự
hào và sự say sưa hiếm thấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

phận sự của ta ~ Nợ tang bồng; "Vũ trụ chức phận nội" (Việc trong vũ trụ là
chức phận của ta - Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì "Ơng Hi Văn
tài bộ đã vào lồng". Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. "Tài bộ" là tài
năng lớn, nhiều tài năng. Chữ "lồng" trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác
nhau. "Vào lồng” là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với
cái tài đội trời đạp đất của ơng" (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: "lồng là
trời đất, vũ trụ". Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: "Đã mang tiếng ở trong
trời đất", hoặc "Chẳng cơng danh chi đứng giữa trần hồn" (trần hồn: cõi đời,
cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí
đua tranh, như ơng nói:


<i>"Chí làm trai nam bắc tây đơng,</i>


<i>Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể".</i>


Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, "tài bộ" mình, chí
namnhi của mình mang tầm vốc vũ trụ.


Ơng Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cừ, ơng dám
thí thố với thiên hạ: "Cái nợ cẩm thư phải trả xong". Năm 1819, Nguyễn Công
Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan
văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng "Làm
nên đấng anh hùng đâuu đấy tỏ" ("Chí anh hùng"). Đứng trên đỉnh cao danh
vọng bời có văn võ tồn tài, bởi có "gốm thao lược", và chính lúc đó ông Hi
Văn mới trở thành "tay ngất ngưởng", một con người hơn đời và hơn thiên hạ.
Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ "khi" đã tạo nên


một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phí thường, một chí khí vơ
cùng mạnh mẽ:


<i>"Khi Thủ khoa! khi Tham tán! khi Tổng đốc Đông,</i>


<i>Gồm thao lược! đã nên tay! ngất ngưởng".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhục". Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Cơng Trứ vể trí sĩ ở q nhà, năm đó,
ơng vừa trịn 70 tuổi (1848):


<i>"Đơ mơn giải tổ chi niên,</i>


<i>Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng".</i>


Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như
để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào "ngựa ngựa xe xe"
nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất
ngưởng. Như một sự thách đố với "miệng thế". Cho đến nay dân gian vẫn cười
và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:


<i>"Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.</i>


<i>Lợm mùi giáng chức với thăng quan.</i>


<i>Điền viên dạo chiếc xe bò cái,</i>


<i>Sẵn tấm mo che miệng thế gian".</i>


Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa
kia là một vị đại thần, một danh tướng — "tay kiếm cung" — thế mà nay sống


cuộc đời hiền lành, bình dị "nên dạng từ bi". Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú
những danh lam thắng cảnh "Kìa núi nọ phau phau mây trắng", ơng đã mang
theo "một đơi dì", nhũng nàng hầu xinh đẹp với "gót tiên đủng đỉnh"...


<i>"Kìa núi nọ phau phau mây trắng,</i>


<i>Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.</i>


<i>Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì.</i>


<i>Bụt cũng nực cười ơng ngất ngưởng..."</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá
tính cốt cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và
tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện "được, mất", bỏ ngồi
tai mọi lời thị phi, khen chê, ơng đã sống một cách nhi nhiên, hổn nhiên, vô
cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai
câu thơ tuyệt hay trong "Bài ca ngất ngưởng":


"Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /


Không Phật / không Tiên / không vướng tục".


Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hoà thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng
điệp (khi... không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một
phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần.
Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu,
ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vẩn thơ đẹp như
thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.



Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên
ghi đúng như văn bản 'Tuyến tập thơ ca trù" - NXB Văn học 1987 mớí đúng thi
pháp:


<i>"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,</i>


<i>Nghĩa vua, tôi cho vẹn đạo sơ chung,</i>


<i>Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"</i>


Nguyễn Cơng Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn
vẹn "nghĩa vua tơi". Ơng đã viết trong bài "Nợ tang bồng":


<i>"Chí tang bồng hẹn với giang san,</i>


<i>Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Tóm lại, với Nguyễn Cơng Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải "vẹn đạo
vua tôi" mới trở thành "tay ngất ngưởng", "ông ngất ngưởng" được. Và cách
sống ngất ngưỏng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô
trọc, không vướng tục", cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.


Cái nhan đề, thi đề "Bài ca ngất ngưởng" của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc
lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có
nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất "ngông". Một đằng ngất
ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.


Thơ hát nói của Nguyễn Cơng Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ
chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hịa, lơi
cuốn, hấp dẫn.



Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương
Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà... là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài
hát nói tuyệt tác. Nguyễn Cơng Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào
hùng, chất tài tử hồ nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là
phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Cơng
Trứ. "Bài ca ngất ngưởng" đích thực là "Bài ca từ đáy lịng" của ơng Hi Văn
cho ta nhiều thú vị.


<b>Bài làm 2</b>


Mỗi con người tạo nên một tính cách, mỗi nhà văn cũng có một phong cách
riêng cho mình nhưng đặc biệt là có những tính cách nổi bật khiến người ta
nhắc đến là nhớ ngay đến người đó. Và Nguyễn Cơng Trứ có một tính cách đặc
biệt như thế, ông được biết đến với một cá tính đặc biệt, mạnh mẽ "ngất
ngưởng" chính cá tính ấy làm cho người ta nhớ đến ơng nhiều hơn. Đặc biệt cá
tính của ơng được thể hiện rất rõ trong bài thơ bài ca ngất ngưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình.
Cuộc đời đó có vinh hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:


<i>"Vũ trụ nội mạc phi phận sự</i>


<i>Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.</i>


<i>Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,</i>


<i>Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.</i>


<i>Lúc bình Tây, cờ đại tướng,</i>



<i>Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên"</i>


Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan
của ơng. Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm của từ "ngất ngưởng", ngất ngưởng là
từ đồng nghĩa với ngất nghểu có thể hiểu là một người ln ở tư thê cao không
vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn Cơng Trứ dùng tính từ
này để nói về mình phải chăng là cả một ẩn ý?.


Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công
Trứ. Cùng với bản tuyên ngôn về chí làm trai "chí làm trai nam bắc đơng
tây-cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể" thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một
bản tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông


<i>"Vũ trụ nội mạc phi phận sự"</i>


Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này
khơng có việc gì khơng phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn
Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý
thức tầm quan trọng cá nhân của ông và sự nhiệt huyết trong cuộc đời của ơng.


Sau đó ơng tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:


<i>"Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng.</i>


<i>Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,</i>


<i>Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.</i>


<i>Lúc bình Tây, cờ đại tướng,</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Đối với ơng mà nói làm quan như "vào lồng", câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi
việc làm quan giống như bị nhốt trong lịng. Bởi vì với tính cách ngơng nghênh
cùng ý chí ngút trời "vẫy vùng trong trời đất" những đạo lý Tam cương ngũ
thường trở thành khn phép gị bó tính cách của ơng. Nguyễn Cơng Trứ tự
xưng là ơng, đó là một cách xưng hơ độc đáo. Dẫu biết làm quan là bó buộc
mất tự do nhưng ơng vẫn làm vì nhờ đó ơng thể hiện được tài năng cũng như
hồi bão của mình. Qua đó Nguyễn Cơng Trứ thể hiện mình như một giá trị
hiển nhiên giữa đời mà không thể phủ nhận được.


Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như "thủ khoa", "tham tán", "tổng đốc
đơng", "bình tây đại tướng" khi lại "Phủ dỗn thừa thiên". Có thể nói cuộc đời
làm quan của ông hiển đạt vô cùng tất thảy đều là những quan to. Tuy nhiên ở
ngoài đời thực thì ơng có bị giáng chức xuống làm một anh lính qn. Tuy
nhiên ơng từng có một câu nói vơ cùng nổi tiếng đó là: "Làm tổng đốc tơi
khơng lấy làm vinh, làm lính tơi cũng khơng coi là nhục". vì thế cho nên dù
làm ở cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông
được thỏa sức giúp nước nhà.


Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công
Trứ. Đúng là một con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật
khác bình thường:


<i>"Đơ mơn giải tổ chi niên,</i>


<i>Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng.</i>


<i>Kìa núi nọ phau phau mây trắng,</i>


<i>Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.</i>



<i>Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì,</i>


<i>Bụt cũng nực cười ơng ngất ngưởng"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa
mà tự cười nhạo mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cơ ả đào.


theo sau. Như thế là thất kinh nhưng bụt không tức giận mà phải bật cười vì
tích cách của vị quan già ngơng nghênh ấy.


Những câu thơ cịn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:


<i>"Được mất dương dương người thái thượng,</i>


<i>Khen chê phơi phới ngọn đông phong.</i>


<i>Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,</i>


<i>Không Phật, không Tiên, không vướng tục.</i>


<i>Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,</i>


<i>Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.</i>


<i>Trong triều ai ngất ngưởng như ông!"</i>


Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen
chê không là chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách của mình.
Cuộc đời này cịn gì vui hơn hạnh phúc hơn khi được sống đúng là chính mình.


Mấy ai được sống là chính mình cịn Nguyễn Cơng Trứ thì làm được điều đó.
từ đây ơng đắm mình trong thú vui tuổi già đó là ca trù khơng vướng tục. Từ
"khi" được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự lặp lại của những thú vui ấy.
Ca trù, rượu nóng ơng say sưa trong hơi men và điệu các điệu tùng. Đúng là
một cuộc sống đầy âm nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên theo phật cứ
sống theo cách của chính ơng mà thơi. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài nếu
như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai câu sau
lại đầy ắp tiếng nhạc.


Nguyễn Cơng Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng
ngày xưa:


<i>"Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,</i>


<i>Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những
danh tướng có sự nghiệp hiển hách. Kết thúc bài thơ ông không quên nhắc tới
cơng lao mà mình đã đạt được trước khi về hưu. Đó là nghĩa vua tơi cũng đã
trịn đạo. Ơng ca lên điệp khúc ngất ngưởng của mình, ơng sống và làm việc
tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui khác người. Thú vui
ấy chỉ có Nguyễn Cơng Trứ mới có , ơng ngất ngưởng như vậy đấy.


Như vậy có thể thấy Nguyễn Cơng Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý
thức được tài năng cũng như vị trí của mình. Ơng sống mà khơng cần quan tâm
đến người ta nói gì về mình. Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết
sự ngất ngưởng của nhà thơ. Bài thơ không chỉ ngất ngưởng ở nội dung mà cả
giọng điệu cũng góp phần làm nên bài thơ này.


<b>Bài làm 3</b>



<i>Đã mang tiếng ở trong trời đất</i>


<i>Phải có danh gì với núi sông.</i>


Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ đã làm một nam nhi thì phải có danh có
tiếng và sống có ích cho đất nước. Ơng ln trăn trở vấn đề này trong suốt cuộc
đời của ơng. Vì thế ơng viết nên bài: "Bài ca ngất ngưởng".


Thân bài: Bình giảng Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ


Bài ca ngất ngưởng ở đây là lối sống vô tư một người luôn ở tư thê cao không
vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã không quên về công việc của bản
thân và lối sống chân thật trong cuộc sống. Bài ca thể hiện rõ cuộc đời, tài năng
và tính cách của ơng. Một con người một tính cách lớn vượt quá khuôn khổ của
thời trung đại.


Mở đầu bài ca tác giả viết:


<i>"Vũ trụ nội mạc phi phận sự</i>


<i>Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.</i>


<i>Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,</i>


<i>Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Có khi về Phủ dỗn Thừa Thiên".</i>


Đầu tiên tác giả đã cho ta thấy rõ quan niệm sống của ơng về trí làm trai ở


trong trời đất và ông gửi gắm quan niệm này của ông nên cả vũ trụ. Như vậy ta
thấy được Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho chân chính.
Đồng thời ơng cũng nêu lên tầm quan trọng của bản thân và sự nhiệt huyết của
ông trong cuộc đời này.


Rồi sau đó ơng nói về cuộc đời làm quan của mình. Tính ơng vốn ngơng
nghênh cùng ý chí "vẫy vùng trong đất trời". Vậy mà giờ làm quan như "chim
bị nhốt trong lồng". Dù biết làm quan sẽ làm mất tự do nhưng ông là người
thông minh nên ông lấy cơ hội này để thể hiện tài năng cũng như hồi bão của
mình. Ơng cịn liệt kê cho người đọc thấy được ơng từng làm những gì "thủ
khoa", " tham tán", " tổng đốc đơng" , " bình tây đại tướng" khi lại " Phủ doãn
thừa thiên". Vào một lần ơng bị giáng chức xuống làm lính qn nhưng ơng lại
có một câu cực kì nổi tiếng: : "Làm tổng đốc tơi khơng lấy làm vinh, làm lính
tơi cũng khơng coi là nhục" vì thế dù ơng ở cấp bậc nào ơng cũng thấy bình
thường vì chỉ cần được góp sức giúp nước nhà là ơng thấy mãn nguyện.


Vì ông là một người khác thường nên trong lần nghỉ hưu không làm quan nữa
của ông cũng khiến người đọc cảm thấy khác thường và bị cuốn hút theo:


<i>Đô môn giải tổ chi niên,</i>


<i>Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng.</i>


<i>Kìa núi nọ phau phau mây trắng,</i>


<i>Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.</i>


<i>Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì,</i>


<i>Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng"</i>



Lúc chia tay chốn quan trường về q hương của mình ơng thật là bình thản
đúng chất "ngất ngưởng" mà ông đề trên đầu bài. Bình thường những người
khác chia tay chốn quan trường người ta mở tiệc linh đình người đưa kẻ tiễn.
Cịn ơng chẳng tiệc cũng chẳng cần người đưa một mình với con bị vàng. Đặc
biệt con bị của ơng khác lạ là được đeo đạc ngựa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Bài ca ngất ngưởng được viết theo thể ca trù, một lối thơ gần với thơ tự do sau
này. Bài thơ tuy có những dòng “tự thuật” của tác giả, nhưng vần là một tác
phẩm trữ tình, bộc lộ khá rõ tâm hồn, tư tưởng, nhàn cách của Nguyễn Công
Trứ. Cố người xem đây như một “tuyên ngôn” bằng thơ của ông. Bởi vậy, Bài
ca ngất ngưởng có giá trị khá tiêu biểu cho sáng tác của Nguyễn Công Trứ.


Nguyễn Công Trứ viết khá nhiều bài ca trù (trên sáu mươi bài). Trước và sau
ơng trong văn học Việt Nam, cũng có một số người viết, nhưng ca trù của
Nguyễn Công Trứ ở vào hàng xuất sắc. “Nếu như ngâm khúc thể hiện một con
người cơ đơn đau xót đi tìm những giá trị của mình đã bị mất mát thì thể thơ
hát nói, một thể thơng dụng trong ca trù lại thể hiện một con người tài tứ thốt
vịng cương toả, thốt sáo, thoát tục luỵ, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại.


Không chỉ viết ca trù, đương thời nhà thơ Nguyễn Cơng Trứ cịn tham gia sinh
hoạt loại hình nghệ thuật này Giá trị của Bài ca ngất ngưởng là ở chỗ, đây là
bài thơ duy nhất Nguyễn Công Trứ trực tiếp thể hiện thái độ phong cách sống
của mình. Sự thể hiện đó chỉ có thế có được trên cơ sở một sự tự ý thức sâu sắc
về những giá trị của bản thân, về chốn quan trường và rộng hơn là cả xã hội
thời bấy giờ. Điều này, trong văn học trung đại Việt Nam, khá hiếm hoi, nhất là
với những nhà thơ tham gia vào chốn quan trường. Nói rộng hơn, những kiểu
tự ý thức như Nguyễn Cơng Trứ báo hiệu cho sự địi hỏi bức thiết về sự xuất
hiện và khẳng định cái tôi trong văn học cũng như ngoài đời. Hơn nữa, bài thơ
được Nguyễn Công Trứ viết khi đã cáo quan về nghỉ và bước vào tuổi bảy


mươi. Do đó, nó là sự tổng kết, tự đánh giá một cách nghiêm túc, sâu sắc của
một người từng trải, chứ không phải nhất thời, bồng bột khi ở tuổi thanh xuân.


Bài thơ có tên: Bài ca ngất ngưởng. Điểm đáng chú ý là từ ngất ngưởng, chứ
không phải là “bài ca” (cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát cũng
viết nhiều bài ca: Sa hành đoản ca - Bài ca ngắn đi trên cát, Đằng tiên ca - Bài
ca cái roi song...). Từ “ngất ngưởng” vốn diễn tả trạng thái không vững, ở chỗ
cheo leo, dễ đổ, dễ rơi. Đấy là lớp nghĩa thông thường, càng không phải ở trong
trường hợp của Nguyễn Công Trứ. Đáng chú ý hơn, trong bài thơ, tác giả sử
dụng tất cả năm lần (kể cả tiêu đề). Hai lần đầu trong bài, từ ngất ngưởng xuất
hiện ở cuối một khổ thơ, có tác dụng nhấn mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cáo quan, sống cuộc sống bình thường, ơng càng ngất ngưởng. So ra, trong
triều, chẳng có ai ngất ngưởng như ông. Như vậy, ngất ngưởng là một thái độ,
một phong cách sống của Nguyền Cơng Trứ. Nó vượt lên mn vạn người
thường, nó cũng khơng Phật, khơng tiên, khơng vướng tục. Nó là một cá nhân –
cá thể, là bản ngã của chính nhà thơ.


Có thể nói, bộ phận thơ ngơn chí trong di sản thơ Nguyễn Cơng Trứ là những
bài thơ có giá trị nghệ thuật cao, mà trong đó bài thơ Bải ca ngất ngưởng có
một vị trí quan trọng. Bài thơ mang dáng vẻ một lời tuyên ngơn nhưng thực sự
chính là bản tổng kết cả cuộc đời mình cua Nguyễn Cơng Trứ.


Thật đặc biệt, cả cuộc đời làm quan, nhìn lại, ơng chỉ tự định giá bằng bốn từ:
ngất ngưởng.


Trước hết, đó là ngất ngưởng khi “Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, có nghĩa là
sự ngất ngưởng khi Nguyễn Công Trứ đã bước vào hoạn lộ, ơng đang “đắc
chí”. Làm nên sự ngất ngưởng lúc này là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà
nho dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ lập chí ở việc “kinh bang tế thế” (trị


nước giúp đời). Đó là sự nghiệp, đương nhiên có cơng ắt có danh. Nguyễn
Cơng Trứ đã coi điều đó – cơng danh – là lẽ sống: “Không công danh thà nát
với cỏ cây”; đã làm trai đứng trong trời đất “phải có danh gì với núi sơng”. Với
một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã “vơ” tất cả mọi
việc trong thiên hạ vào phận sự của mình: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Cũng
không mấy nhà nho hào phóng tự tin đến thế trong việc tự nhận trách nhiệm
với đời. Và quả thật trong 28 năm, từ khi thi đỗ đến khi nghỉ quan, Nguyễn
Công Trứ đã chứng tỏ tài thao lược của mình. Ơng đã liệt kê hàng loạt sự việc
lớn:


Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đơng...


Lúc bình Tây, cờ Đại tướng,


Có khi về Phủ dỗn Thừa Thiên.


Tất cả, Nguyễn Cơng Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời” (nói như
ngơn từ đang được lưu hành trong dân gian gần đây):


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lịng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự
khen, thể hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân
mình trong thời gian ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị
tha hoá: quyền cao chức trọng.


Tuy nhiên đối với Nguyễn Cơng Trứ, cơng danh khơng chỉ là vinh mà cịn là
nợ, là trách nhiệm. Vì thế ơng đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do,
tài hoa nhốt vào vịng trói buộc:


Ơng Hi Văn tài bộ đã vào lồng.



Một nhà nghiên cứu đã bình luận “giọng văn hơi khoa trương và khơng gây
khó chịu là bởi nhà thơ rất có ý thức về tài năng và phẩm hạnh vủa mình”;
nhưng có lúc cần nói thêm: chính là nhờ sự giảm đẳng của ngữ khí trào lộng và
cụm từ “tay ngất ngưởng”. Nguyễn Công Trứ đã “ngang trời dọc đất” nhưng
bằng sự từng trải trong cuộc đời nhiều thăng trầm, nhìn lại ơng đã nhận ra tất cả
đều không hẳn là quan trọng, vững bền và dường như cịn khơng hồn tồn
nghiêm chỉnh, cũng gần như một thứ trị đùa. Khơng hẳn là Nguyền Cơng Trứ
phủ định cơng tích của mình nhưng ơng đã nhìn nó với một cái nhìn có phần
khinh bạc.


Thứ hai là trạng thái ngất ngưởng trên lưng bị vàng đeo đạc ngựa khi nghỉ
quan.


Thơng thường, sự kiện cởi mũ áo nghỉ quan là một việc hết sức hệ trọng, một
bước ngoặt trong đời đối với một người iàm quan mà lại là quan to như ơng.
Nhưng với Nguyễn Cơng Trứ thì chuyện đó cũng chẳng làm ơng bận tâm. Ơng
khơng lưu luyến gì và rất muốn “phủi sạch tay trước khi ra về” như giáo sư
Trương Chinh nhận định. Ngày 3 tháng 8 năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) khi xin
về hưu, ông đà làm đơn nộp trả lại hết bằng sắc cho triều đình và ngày “đơ mơn
giải tổ” chỉ cịn đọng lại duy nhất trong ông một sự kiện ngất ngưởng:


Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

cao quý. Tương truyền Nguyễn Cơng Trứ cịn cho buộc mo cau vào đi bị ở
cái chỗ cần che nhất với một tun ngôn ngạo ngược: “để che miệng thế gian”!
Nguyễn Công Trứ đã trêu ngươi, khinh thị cả thế gian kinh kì. Khơng những
riêng ơng mà cả con bị vàng của ơng cũng ngất ngưởng.


Thứ ba là ngất ngưởng trong “dạng từ bi” đến nỗi Bụt cũng phải nực cười.



Nguyễn Công Trứ nghi quan, cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi,
mà thay đổi sâu sắc: một ông tướng quyền sinh quvền sát “tay kiếm cung” đã
trở thành một ông già mang dáng từ bi. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả
một thời vùng vẫy ngang dọc, còn phía trước, chờ đón ơng, dường như là một
sự trống vắng: chỉ có núi Đại Nại q ơng với những tầng mây trắng phau:


Kìa núi nọ phau phau mây trắng.


Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khng, thống ý vị chua chát. Hình ảnh
những làn mây trắng – rất trắng – trên đỉnh núi gợi nhiều liên tưởng. Nó biểu
tượng cho những gì rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định.
Tất cả sẽ là hư vô chăng, “bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó
xanh) chăng?


Tuy nhiên Nguyễn Cơng Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khng triết
học đó khơng dừng lại lâu trong ơng. Ơng đã nhanh chóng chọn lối sống phá
cách đủ để “thích ý”:


Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.


Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì,


Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

cô gái trỏ. Đó quả là một hiện tượng “trái mắt” nhưng nó chỉ đủ để biểu thị sự
trêu ngươi, bất cần của tác giả chứ không thể đủ để lên án ơng “đắm say tửu
sắc”. Chính vì thế Bụt cùng phải bật cười – một nụ cười vừa như khoan dung
vừa như chấp nhận.


Cuối cùng kết luận, Nguyễn Công Trứ tự coi sự ngất ngưởng là nét độc đáo,


khác đời cứa nhân cách ông.


Ở các đoạn trôn Nguyễn Công Trứ đà định nghĩa con người mình từng giai
đoạn: một tay ngất ngưởng ở quan trường, một cách làm ngất ngưởng khi nghỉ
quan và một cách sống ngất ngưởng khi đả là một là một hưu quan. Đoạn này,
Nguyễn Công Trứ đánh giá con người mình một cách tổng qt, tồn diện. Ông
là một người không quan tâm đến chuyện được mất, khơng bận lịng về sự
khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu con hát, nhưng rốt cuộc lại
ông không phải là người của Phật, của tiên mà vẫn là một con người của cuộc
đời, duy có điều: không vướng tục. Người như thế thật là một nhân cách, một
bản lình cao, đã “chấp” tất cả, đã khơng để luỵ và khinh thị tất cả những gì của
thói thường. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà nho, mặc dù
các bậc “phương diện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ,
ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với hộ song trong phấn sâu thẳm của
tâm hồn, lí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thế nào từ bỏ vẫn là lòng
trung quân, giúp đời:


Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú


Nghĩa vua tôi chơ vẹn đạo sơ chung.


Tống kết cuộc đời mình, Nguyễn Cơng Trứ tự cho rằng hai điều quan trọng
nhất đối với kẻ nam nhi là trách nhiệm “kinh bang tế thế” và đạo nghĩa vua tôi.
Ong đã giữ được trọn vẹn, đã thực hiện một cách xuất sắc, sánh được với
những danh tướng thời xưa. Chính vì vậy, Nguyễn Cơng Trứ dám ngơng ngạo
bng một câu khẳng định chắc nịch đầy vẻ thách thức:


Trong triều ai ngất ngưởng như ông!


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

những đặc sắc nghệ thuật của nó mà hậu thế định hình một chân dung Nguyễn


Công Trứ: con người ngất ngưởng.


<b>Bài làm 5</b>


Nguyễn Cơng Trứ sinh năm 1778, mất năm 1858. Ơng có tự là Tồn Chất, hiệu
là Hi Văn. Cha ông là Nguyễn Cơng Tấn, từng làm tri phủ Tiên Hưng (Thái
Bình), được phong Đức Nghi Hầu .Ông là nhà thơ lớn của dân tộc, được lưu
danh sử sách. Cuộc đời ông trải qua vô vàn thăng trầm với lúc là một hàn sĩ,
lúc đi chinh chiến, lúc làm lính, khi làm quan…Ông quê ở Hà Tĩnh, 42 tuổi đậu
Giải Nguyên. Cá tính độc đáo : Sống là cống hiến hết mình, tơn trọng sở thích
cá nhân.


Ơng có sự nghiệp văn chương phong phú với 60 bài ca trù, 50 bài thơ. Ơng đưa
thể hát nói lên tầm cao mới


Bài thơ được sáng tác năm 1848 khi ông cáo quan về hưu. Bài thơ được viết
theo thể hát nói. Đó là thể thơ phát triển vô cùng mạnh vào đầu thế kỉ XIX, do
các tác giả người Việt sáng tạo nên. Hát nói là thể tự do về câu chữ, nhịp, gieo
vần và đối.


Bài thơ là sự tổng kết về cuộc đời, tài năng, cá tính của Nguyễn Cơng Trứ.


“Ngất ngưởng” được xuất hiện bốn lần. Nghĩa đen là chỉ độ cao , không vững,
dễ đổ. Ở đây được hiểu là quan niệm sống khác đời, khác người, thể hiện
phong cách và bản lĩnh cá nhân.


Khổ đầu là tiếng nói của người nam nhân “đầu đội trời, chân đạp đất” và có
“chí tang bồng”. Mọi việc trong vũ trụ khơng có việc nào khơng có phận sự của
người qn tử. Ơng là một người có tài năng và chí nam nhi mang tầm vóc vũ
trụ. Học hành thi cử ông đều từng, cái nợ cầm thư đã trả xong. Ông làm quan


võ, giữ chức Tham tán, làm quan văn thì giữ chức Tổng đốc Đơng, “tiếng tăm
lẫy lừng”.


Câu thơ ngắt nhịp 3-3, 1-3-3-2 tạo nên một âm hưởng hào hùng , thể hiện cốt
cách phi thường của Nguyễn Công Trứ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Khi cáo quan về quê, ông không cưỡi ngựa mà lại cưỡi bị đeo lục lạc thật khác
người. Ơng vui vẻ ngắm cảnh thiên nhiên, thanh tao giữa cuộc đời. Khi vào
chùa, ông lại “ dắt theo ả đào” khiến cho “bụt cũng bật cười”. Tìm đến cõi Phật
nhưng ơng khơng đi tu khổ hạnh mà thảnh thơi, vui vẻ dạo chơi. Ông sống một
cuộc đời vui tươi, hạnh phúc. Từ láy “đủng đỉnh” là nhịp đi của các ả đào hoặc
chính là tiếng chuông.


Cách ngắt nhịp 2-2-2 cùng nghệ thuật hòa thanh bằng trắc, lối diễn, lối đặc tả
trùng điệp tạo nên tính nhạc cho những câu thơ và tạo ra phong thái đủng đỉnh ,
ung dung, khơng dính chút bụi trần.


Ngất ngưởng là cốt cách, là bản chất của Nguyễn Cơng Trứ. Ơng tự hào vì
nghĩa vua tơi “trọn đạo sơ chung” Ông tự khẳng định lối sống ngất ngưởng ấy
chính là bản lĩnh, khí phách và giá trị nhân văn vượt thời gian. Quả là rất
ngông, rất cao ngạo và đầy khinh bạc, quả là rất “Nguyễn Cơng Trứ”.


Hát nói là thể loại tổng hợp giữa nhạc và thơ, đầy phóng khống, tự do. Thơ
hát nói của Nguyễn Công Trứ đã đạt đến đỉnh cao. Sự uyên bác được thể hiện
qua các câu thơ chữ Hán cùng cách phối hợp hài hòa chất thơ, chất nhạc, chất
tài tử hịa hợp với chí khí anh hùng. “Bài ca ngất ngưởng” đích xác là tiếng nói
từ đáy lịng của Nguyễn Công Trứ, là bản ngã riêng biệt của ông.


<b>Bài làm 6</b>



Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cũng như giữa rừng hoa văn thơ của nước nhà
trước đây, chưa có nhân vật danh tiếng nào ý thức sâu sâu sắc về bản thân mình
cũng như lớn tiếng nói với đời về khát vọng cá nhân cũng như phong cách sống
của mình như Nguyễn Cơng Trứ.Điều đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ”
Ngất Ngưởng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

lối sống độc đáo, một vẻ đẹp ngang tàng,phóng túng của một tâm hồ lớn, nhân
cách lớn, nhà thơ lớn.


Những điều trên được thể hiện rất rõ qua câu mở đầu của bài thơ, ông viết: ”Vũ
trụ nội mạc phi phận sự” (mọi việc trong đời chẳng có việc gì khơng phải phận
sự của ông), câu thơ mở đầu cũng đã thể hiện cái cốt của bài thơ đó là cái tôi
“Ngất Ngưởng”. Câu thơ vang lên trang trọng, đầy kiêu hãnh và một ý thức
trách nhiệm rất sâu sắc của chính mình. Dường như khi đọc thơ của Nguyễn
Cơng Trứ, ta đều bắt gặp một điểm chung đó là ơng đều nói tới “Chí nam nhi”,
ơng có quan niệm về nam nhi rất rõ ràng: làm người thanh niên phải cố gắng
lập công với đời, trả nợ núi sông.Nếu không được thế là nhục, là hèn, chẳng
đáng sống nữa!. Phải chăng đây chính là lẽ sống tích cực của một nhà nho chân
chính. Trong bài tho này đã thể hiện rõ cái tơi ngất ngưởng, ngang tàng đầy khí
phách cũng như ý thức của ông về trách nhiệm của ông về nam nhi, thì ở câu
tiếp theo thì ơng lại khẳng định rõ hơn cái ngất ngưởng của mình, điều đó được
thể hiện qua việc ơng tự xưng mình là “Ơng văn Hi”, ơng tự thấy mình là người
có tài lớn và xem như việc ra làm quan “đã vào lồng”, như đã được định sẵn.
Qua điều này cũng đủ cho chúng ta nhận rõ được thái độ của người viết, nó vừa
trang nghiêm nhưng cũng mang yếu tố hài hước.


Thái độ ngất ngưởng của ơng cịn được thể hiện rõ khi ơng cịn đang ở chốn
thao trường


Khi thủ khoa, khi tam tán, khi tổng đốc đông



Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng


Lúc bình tây có đại tướng


Có khi về phủ doãn Thừa Thiên.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

là một phong cách ngược đời, khác người, điều đó được thể hiện qua: ”Đạc
ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng, người ta thì cưỡi ngựa trong khi đó ơng lại
cưỡi bị trong tư thế:


Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi


Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi gì


Bụt cũng nói cười ơng ngất ngưởng.


Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng tới nỗi mà ông bụt cũng phải nực cười, khơng
chỉ thế ơng cịn ngất ngưởng, thể hiện qua quan niệm được mất, cùng với sự lạc
quan và bình thản của cuộc đời:


Được mất dương dương người tái thượng


Khen chê phơi phới ngọn đơng phong


Ơng quan niệm được mất ở đời là lẽ thường tình,là chuyện tự nhiên,may rủi,
sướng khổ là chuyện bình thường khơng có gì phải vội vã, hốt hoảng. Cũng
như khen chê là cuyện bình thường có gì phải bi quan sầu muộn, hãy cứ vui lên
mà sống, hãy “quảng gánh lo đi mà vui sống” (Lâm Ngũ Đường).



Khi ca, Khi tửu, Khi khảo, khi tùng


Không nhạc không tiên không vướng tục.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

cảnh đất nước cuối Lê đầu Nguyễn đang rất cần những người vì đất nước.
Hồn cảnh lịch sử ấy là nền tảng cho mọi nhà nho chuẩn bị bước vào thời kì
mới lẽ sống mới để vươn lên trong cuộc sống.Chính nguyễn Cơng Trứ cũng đã
tự nhủ:


Đã sinh ra trong đất trời


Phải có danh gì với núi sơng.


Và ơng đã làm được hơn thế, tên tuổi của ông đã được nhiều người biết đến,
phong cách sống của ông được thể hiện rõ nét qua những trang thơ mà ông đã
để lại.


Kết thúc bài thơ ông viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”, câu thơ vừa
muốn hỏi, vừa muốn khẳng định lại chính mình và đây cũng là lời tự bạch của
chính nhà thơ


Trong bài thơ, Nguyễn Cơng Trứ đã nhiều lần nhắc tới hai từ “ngất ngưởng”,
và qua bài thơ trong chúng ta ai cũng hiểu về cái ngất ngưởng của ơng, đó
chẳng phải là cái gì q xa xơi mà đó chính là thái độ cách sống của một nhà
nho tài tử. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải là cái tiêu cực mà là sự
khẳng định bản ngã của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời và một phong cách
sống tài hoa tài tử.


<b>Bài làm 7</b>



Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là nhà thơ lớn cua dân tộc kinh bang tế thế, lưu
danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm
lính thú, lúc làm đại quan, vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào
ông cũng hăm hở chí nam nhi, sịng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát
vọng phi thường:


Đã mang tiếng ở trong trời đất,


Phải có danh gì với núi sơng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân
tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.


Nguyễn Cơng Trứ về trí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với triều
Nguyễn. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng được ơng viết sau khi đã về trí sĩ tại quê
nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ơng Hi Văn tự
hào về tài năng và cơng danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách
sống tài tử, phóng khống ở đời.


Ngất ngưởng nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển
tiếng Việt). Trong bài thơ này nếu hiểu ngất ngưởng là một con người khác đời,
một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được
Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cồ niềm tự
hào và sự say sưa hiếm thấy.


Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tun ngơn của đấng nam nhi, đấng
làm trai. Rất trang trọng và hào hùng: Vũ trụ nội mạc phi phận sự - mọi việc
trong vũ trụ chẳng có việc nào khơng là phận sự của ta. Một cách nói phủ định
để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần?
Lúc thì ơng viết: Vũ trụ giai ngơ phận sự (Những việc trong vũ trụ đều thuộc


phận sự của ta - Nợ tang bồng); Vũ trụ chứa phận nội (Việc trong vũ trụ là
chức phận của ta - Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy chính vì Ơng Hi Văn tài
bộ đã vào lồng. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Tài bộ là tài năng
lớn, nhiều tài năng. Chữ lồng trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Vào
lồng là vào khuôn phép vua chúa nhưng vẫn là chật hẹp, tù túng trái với cái tài
bộ đội trời đạp đất của óng. Có người lại giải thích: lồng là trời đất, vũ trụ.
Nguyễn Cơng Trứ đã nhiều lần nói: Đã mang tiếng ở trong trời đất, hoặc Chẳng
cơng danh chi đứng giữa trần hồn (trần hồn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ
hai hợp lí hơn, vì có lồng vũ trụ thì mới có ý chí đua tranh như ơng nói.


Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế của mình, tài bộ của
mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

bởi có văn võ tồn tài, bởi có gồm thao lược, và chính lúc đó ơng Hi Văn mới
trở thành tay ngất ngưởng, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với
ngắt nhịp (3-3- 1-3-3-2), ba lần điệp lại chữ khi đã tạo nên một giọng điệu hào
hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vơ cùng mạnh mẽ:


Khi Thủ khoa/ khi Tham tán/ khi Tổng đốc Đông


Gồm thao lược/ đã nên tay/ ngất ngưởng.


Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình
là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xơng pha trận
mạc, giữ trọng trách trước ba quân: Bình Tây cờ Đại tướng. Thời bình thì giúp
nước giúp vua, làm Phủ dỗn Thừa Thiên. Đó là năm 1847, Nguyễn Cơng Trứ
đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: Lúc làm Đại tướng, ta
chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục. Sau
30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về trí sĩ ở q nhà, năm đó, ơng vừa trịn
70 tuổi (1848):



Đơ mơn giải tơ chi niên


Đạc ngựa bị vàng đeo ngất ngưởng.


Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình
như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào ngựa ngựa xe
xe nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất
ngưởng. Như một sự thách đố với miệng thế gian. Cho đến nay dân gian vẫn
cười và truyền tụng bài thơ để vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:


Xuống ngựa, lên xe, nọ tướng nhàn,


Lợm mùi giáng chức vơi thăng quan,


Điền viên dạo chiếc xe bò cái,


Sẵn tấm mo che miệng thế gian.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Kia núi nọ phau phau mây trắng,


Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi,


Gót tiên theo đủng đỉnh một đơi dì


Bụt cũng nực cười ơng ngất ngưởng...


Ơng đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. Bụt cũng nực cười ơng ngất
ngưởng là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào nhiều hóm hỉnh. Bụt cười hay
thiên hạ cười? Hay ơng Hi Văn tự cười mình? Đã thốt vịng danh lợi rồi, thì


chuyện được, mất là lẽ đời, như tích Thất mã tái ơng mà thơi, cũng chẳng bận
tâm làm gì? Chuyện khen, chê của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió
đơng (xn) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới
có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết
Nguyễn Cơng Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình,
một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào các tính cốt
cách khác đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng và tài tình hiếm thấy
của ông. Không quan tâm đến chuyện được, mất. Bỏ ngoài tai mọi lời thị phi,
khen chê, ông đã sống một cách hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy
ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong Bài
ca ngất ngưởng:


Khi ca/ khỉ tửu/ khi cắc/ khi tùng


Không phật/ không tiên/ không vướng tục.


Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhân, lối diễn tả trùng
điệp (khi ... không...) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một
phong thái ung dung yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần.
Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu,
ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hòa quyện trong những vần thơ đẹp như
thế! Ngất ngưởng và tài hoa, tài tử.


Khổ xếp của bài hát nói chỉ có ba câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có sáu từ.
Nên ghi đúng như văn bản Tuyển tập thơ ca trù - NXB Văn học 1987 mới đúng
thi pháp:


Chẳng Trái, nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Đời ai ngất ngưởng như ông!



Nguyễn Cơng Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thủy chung, trọn
vẹn nghĩa vua tôi - ông đã viết trong bài Nợ tang bồng.


Chí tang bồng hẹn với giang san,


Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác.


Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân
có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những anh tài đời Hán, đời
Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương
Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng ông đĩnh đạc, hào hùng:
Đời ai ngất ngưởng như ông!. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phơ
bày cực độ.


Tóm lại, với Nguyễn Cơng Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải vẹn đạo
vua tôi mới trở thành tay ngất ngưởng, ông ngất ngưởng được. Và cách sống
ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc,
khơng vướng tục, cũng khơng thốt li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.


Cái nhan đề, thi đề Bài ca ngất ngưởng của ông Hi Văn độc đáo. Cách bộc lộ
bản ngã của nhà thơ rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều
bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất ngông. Một đàng ngất ngưởng
mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.


Thơ hát nói của Nguyễn Cơng Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ
chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi
cuôn, hấp dẫn.


Trong nền thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.. Dương


Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, là nhũng nhà thơ cự phách để lại một số bài
hát nói tuyệt tác. Nguyễn Cơng Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào
hùng, chất tài tử hịa nhập với Chí anh hùng, Nợ tang bồng, Chí nam nhi. Đó là
phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Cơng
Trứ. Bài ca ngất ngưởng đích thực là bài ca từ đáy lịng của ơng Hi Văn cho ta
nhiều thú vị.


</div>

<!--links-->

×