Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Tải Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính - Dàn ý + 5 bài bình giảng Tương tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.82 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Bình giảng bài thơ Tương tư của Nguyễn Bính - Ngữ văn 11</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>1. Mở bài</b>


Giới thiệu về nhà thơ Nguyễn Bính và bài thơ Tương tư:


+ Thơ Nguyễn Bính ln chất chứa những ý vị sâu sắc, nồng đượm tình quê,
chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu hút.


+ "Tương tư" là bài thơ điển hình cho tài năng và phong cách của nhà thơ
Nguyễn Bính.


<b>2. Thân bài</b>


- "Tương tư" là mối tình đơn phương của một chàng trai thơn Đồi đem lịng
mến người con gái thơn Đông.


- Tương tư trở thành căn bệnh khi chàng trai trót mang trái tim trao gửi vào mối
tình đơn phương.


- Lỡ đem lịng thương nên nỗi nhớ da diết khơn ngi "chín nhớ mười mong".
- Tình u đâu chỉ có nhớ, có mong thơi đâu, tình u cịn là những lần trách
móc vơ cớ, rất gần mà ngỡ rất xa.


- Lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày từ
hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy.


- Trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì u mà bao nhiêu đêm khơng ngủ.
- Sử dụng hình ảnh này như một sự hy vọng cho mối tình đơn phương được
người đáp trả để nên duyên đôi lứa.



<b>3. Kết bài</b>


- Nêu cảm nghĩ về bài thơ: Đến với "Tương tư" nói riêng và thơ Nguyễn Bính
nói chung, tâm hồn ta như được thành lọc, được trở về với vẻ đẹp chân quê
đằm thắm những ân tình, cảm xúc dạt dào, dịu dàng như dịng sữa mẹ khiến ta
thêm nâng niu, thêm trân trọng những vẻ đẹp của tình q, của hương đồng gió
nội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nguyễn Bính là một nhà thơ lãng mạn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của thơ ca
dân gian Việt Nam. Điều này đã làm nên sự khác biệt của ông với những nhà
thơ đương thời theo phong trào Thơ mới. “Tương tư” là một trong những bài
thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của ơng.


Mở đầu bài thơ đó là nỗi nhớ của người đang u:


<i>“Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng,</i>


<i>Một người chín nhớ mười mong một người</i>


<i>Gió mưa là bệnh của giời</i>


<i>Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.</i>


Nhà thơ xưng “tôi” – không quá trang trọng và cũng khơng q trìu mến – tạo
sự hài hịa, gần gũi mà vẫn có chừng mực. Ý thơ mang đậm chất ca dao dân tộc
tạo sự liên tưởng đến cảnh làng quê yên bình cùng một tình yêu chân thành,
mộc mạc. Lời trách của “tơi” cũng vì thế mà trở nên đáng yêu:


<i>“Hai thôn chung lại một làng</i>



<i>Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”</i>


Mối tương tư của “tôi” kéo dài theo thời gian:


<i>“Ngày qua ngày lại qua ngày</i>


<i>Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”</i>


“Tôi” lại hờn dỗi buông lời:


<i>“Bảo rằng cách trở đị giang,</i>


<i>Khơng sang là chẳng đường sang đã đành.</i>


<i>Nhưng đây cách một đầu đình,</i>


<i>Có xa xơi mấy mà tình xa xơi…”</i>


Đó là bởi “tơi” đã q mong mỏi đọi chờ:


<i>“Tương tư thức mấy đêm rồi,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Thế mà “nàng” lại quá đỗi vô tâm, khiến cho nỗi niềm mong mỏi của “tôi” trở
nên vô vọng


<i>“Bao giờ bến mới gặp đò?</i>


<i>Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau?”</i>



“Bến” với “đò”, “Hoa khuê các” với “bướm giang hồ” – đó là lối nói ước lệ
tượng trưng vốn thường xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Nó thể hiện khát
khao mãnh liệt của “tôi” với “nàng” nhưng đồng thời cũng là nỗi buồn vì tình
yêu chưa đâm hoa kết trái. Bởi vậy, nhà thơ thay đổi cách xưng hô: từ “tôi”
sang “anh”, từ “nàng” sang “em” để ngỏ lời yêu:


<i>“Nhà em có một giàn giầu,</i>


<i>Nhà anh có một giàn cau liên phịng.</i>


<i>Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,</i>


<i>Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?”</i>


Khơng cịn những trách móc vu vơ, thay vào đó là những mong ước chân thật,
mộc mạc. Một nhà có giầu, một nhà có cau, nếu ghép lại thì thật vừa khéo. Lời
ngỏ thể hiện mong ước, chờ đợi về hạnh phúc lứa đôi son sắt, bền lâu.


Viết theo thể thơ lục bát với cách dùng từ mang đậm nét ca dao dân gian,
Nguyễn Bính đã đem nét đẹp thơn q thổi hồn vào Thơ mới vốn được xem
như là một phong trào xuất hiện từ Tây phương. Nét mộc mạc, duyên dáng
trong “Tương tư” nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung đã tạo nên những ấn
tượng nhẹ nhàng mà sâu sắc trong lòng độc giả yêu thơ văn.


<b>Bài làm 2</b>


Tương tư là một trong những bài thơ tiêu biểu cho tâm hồn và phong cách nghệ
thuật của Nguyễn Bính. Bài thơ viết về đề tài khá quen thuộc trong đời sống và
văn chương: sự tương tư, tức một trạng thái tình cảm nam nữ khi yêu nhau,
hoặc phải xa cách, hoặc không được đáp lại. Nhà thơ lại sáng tác bằng thể thơ


cũng rất quen thuộc - lục bát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

tâm tình mới của thanh niên thời bấy giờ. Nói cách khác, Tương tư cũng như
rất nhiều bài thơ khác của Nguyễn Bính trước năm 1945, đậm đà chất dân tộc,
trong điệu tâm hồn, cả trong lối diễn đạt, nhưng lại là tiếng thơ của một thời đại
mới. Vì thế, khi bình giảng cần biết rằng Tương tư là nỗi nhớ, là tâm trạng của
một chàng trai đối với một cô gái. Cơ gái ấy vơ tình, hay hữu ấy khơng biết nỗi
lịng ấy. Tình cảm của chàng trai rất đỗi tha thiết. Tương tư là một thứ bệnh của
tình yêu. Chàng trai ấy đang mang bệnh đó. Anh ta buồn, anh ta nhớ, anh ta
thao thức và cả trách móc nữa. nhưng là sự trách móc của một người đang u
nên cũng rất đáng u:


Bảo rằng cách trở đị giang


Khơng sang là chẳng đường sang đã đành
Nhưng đây cách một đầu đình


Có xa xơi mấy mà tình xa xơi
Nhà em có một giàn giầu
Nhà anh có một hàng cau liên phịng


Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng
Cau thơn Đồi nhớ giầu khơng thơn nào?


Khi bình giảng lại lần theo tâm trạng đó. Tuy nhiên, khơng phải là sự diễn
xi, kể lại (vì có gì đáng kể đâu) mà để thấy từng cung bậc tình cảm trong trái
tim chàng trai đang tương tư.


Tương tư là bài thơ tình yêu, bài thơ diễn tả nỗi tương tư. Thành cơng của nó ở
chỗ bao tâm hồn đã tìm thấy ở đó sự đồng điệu, tiếng thơ. Điều này tưởng


chừng bình thường, đơn giản, song thật ra không phải ai cũng làm được. Nhiều
bài thơ tuy rất hay, rất nổi tiếng, nhưng người ta nhận ra trước hết đó là nỗi
lịng rất đơn chiếc của một người, và nếu có chỉ là tiếng lịng rất người, một bộ
phận tương đối hẹp nào đó. Chẳng hạn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Cho vướng víu nợ thi nhân.


(Lưu Trọng Lư - Một mùa đông)
Hoặc:


Chửa biết tên nàng, biết tuổi nàng
Mà sầu trong dạ đã mang mang
Tình u như bóng trắng hiu quạnh
Lạnh lẽo đêm trường, giãi gió sương.


(Lưu Trọng Lư - Một chút tình)
Thơ Nguyễn Bính, ở Tương tư, cũng như nhiều bài thơ khác, không phải vậy.
Rất đông thanh niên, nhất là những người bình thường, thời bây giờ và sau đó
nữa, tìm thấy sự đồng điệu ở thơ ông. Có được như vậy, trước hết là do thơ
Nguyễn Bính có nhiều hình ảnh quen thuộc của thế giới ruộng đồng, dân dã (ở
bài thơ này là bướm, hoa, thơn Đồi, thơn Đơng, đình làng, bến đị, hàng cau,
giàn trầu...) Dường như tiếng nói trong thơ Nguyễn Bính được cất lên từ chính
thế giới thân thuộc đó, là một phần của thế giới ấy, chứ không là sự vay mượn.
Thành ra lối diễn đạt cũng thế. Nó mang dáng vẻ mộc mạc, chân thành, bình dị
(Ngày qua ngày lại qua ngày/ Bao giờ bến mới gặp đò?/ Nhà em có một giàn
giần..) Và dĩ nhiên, đây là hình thức thể hiện của một ai khác, sâu xa hơn, ở thơ
Nguyễn Bính, đó chính là chân q, hồn q thấm đẫm trong tâm hồn nhà thơ.
Chính cái tình, cái hồn ấy làm nên sự quen thuộc, gần gũi và thân thiết của thơ
Nguyễn Bính đối với bao người Việt Nam, dù ở bất cứ thời đại nào.



<b>Bài làm 3</b>


Trước Nguyễn Bính 150 năm, Nguyễn Cơng Trứ thuở "hàn nho" đã có lần viết:
"Tương tư khơng biết cái làm sao


Muốn vẽ mà chơi vẽ được nào... "


("Tương tư")
Xuân Diệu - Ông chúa thơ tình - người đồng thời với thi sĩ Nguyễn Bính
cũng có bài "Tương tư chiều" (Thơ thơ - 1938) nồng nàn thương nhớ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Anh nhớ em, anh nhớ lắm! em ơi!
Anh nhớ anh của ngày tháng xa khơi,
Nhớ đôi môi đang cười ở phương trời
Nhớ đơi mắt đang nhìn anh đăm đắm".


Năm 1939, Nguyễn Bính viết "Tương tư" in trong tập "Lỡ bước sang ngang”
xuất bản tại Hà Nội, năm 1940. Với 20 câu thơ lục bát, Nguyễn Bính đã có một
cách nói riêng về nỗi nhớ, nỗi buồn tương tư. Chàng trai đa tình, mơ mộng
khắc khoải chờ mong và thương nhớ cơ gái "chung làng" với một tình u chưa
được đáp đền... nên mới tương tư như thế. Nỗi tương tư buồn dịu ấy được đặt
vào một khung cảnh bình dị đáng yêu trong hương đồng gió nội thuần khiết,
trong sáng như một mối tình dan díu xưa cũ trong bài hát giao duyên thuở nào.
Có yêu lắm nhớ nhiều nên mới tương tư. Yêu lắm nhớ nhiều. mà khơng được
"người tình" đáp lại, khơng được gặp mặt người yêu... thì mới tương tư, mang
nỗi buồn tương tư. "Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều - Xăm xăm đè nẻo Lam
Kiều lần sang" ("Truyện Kiều" - Nguyễn Du).


Khổ thơ đầu nói lên nỗi "nhớ", nỗi "mong” của kẻ đang yêu, nỗi nhớ mong
đầy ắp trong lịng, đã thành "bệnh" bởi lẽ "tơi u nàng":



"Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,
Một người chín nhớ mười mong một người.


"Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng".


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

nên nhớ nhiều; càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư là một nét đẹp của
tình yêu nên khác gì "Nắng mưa là bệnh của giời"...


Mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng tương tư "bệnh của tơi yêu nàng".
Trước hết là nỗi băn khoăn thắc mắc. Tuy chẳng được ở gần nhau "bên giậu
mùng tơi", "bên giàn thiên lí", nhưng tơi với nàng gần gũi biết bao "Hai thơn
chung lại một làng". Có mong có nhớ... có đi mà khơng có lại, nên băn khoăn
thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật
là buồn:


"Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này?".


Đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da diết, nôn nao:
"Ngày qua ngày lại qua ngày,


Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng".


Ba chữ "ngày" kết hợp với chữ , “qua" một chữ "lại" diễn tả nỗi buồn triền
miên dằng dặc. Từ mùa xuân, khi lá xanh nay đã cuối thu "cây lá vàng", thế mà
"bên ấy" chẳng sang bên này? Làm sao chẳng mỏi mòn mong nhớ? Làm sao
chẳng tàn úa như lá vàng mùa thu? Nguyễn Bính đã học tập cách nói của dân
gian lấy cây cỏ sắc màu để diễn tả thời gian li cách. Thời gian tâm lí, thời gian
tâm trạng: dằng dặc mong nhớ, triền miên buồn trơng - được nói lên một cách


rất thơ, rất đậm đà, ý vị.


Thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự giày vị mình: "Bao
rằng", "khơng... là chăng... đã đành", "nhưng", "có xa xơi mấy...", hỏi để rồi lại
băn khoăn, hờn dỗi. Và chỉ biết hỏi mình mà thơi, càng hỏi càng cơ đơn lẻ loi,
hờn tủi:


"Có xa xơi mấy mà tình xa xơi?".
"Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?".


Trải qua những "chín nhớ mười mong", hết trách móc hờn đỗi rồi lại trơng
đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành, tha thiết:


"Bao giờ bến mới gặp đò,


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Vận dụng lối nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến, đò) trong thơ văn truyền
thống (hoa khuê các, bướm giang hồ) để thể hiện một nỗi ước mong, một khao
khát về tình yêu hạnh phúc của lứa đôi rất thiết tha. Cái tôi trữ tình của chàng
trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc “của tôi
yêu nàng ", trở thành "cái chung" của nhiều chàng trai, cơ gái khác. Vì thế đã
70 năm qua, tiếng thơ "Tương tư" vẫn được bao thế hệ độc giả trân trọng coi nó
như tâm hồn mình, tiếng lịng mình - Có một số người cho rằng câu thơ "Hoa
khuê các, bướm giang hồ gặp nhau" dường như lạc hệ thống, thiếu sự dung dị
(?) Chàng trai trong "tương tư" đâu phải là anh trai cày "tát nước đầu đình" mà
có thể là một chàng trai đang học trường làng, trường huyện và đã từng đọc
"Hồn bướm mơ tiên"... thích mơ mộng. Nguyễn Bính khơng chỉ làm cho vần
thơ mang vẻ đẹp mộc mạc như ca dao mà lại cũng khác ca dao, là ở chỗ ấy.
Ở phần hai bài thơ, chàng trai lúc thì trách móc, lúc thì nhắn hỏi liên tiếp mà
"nàng" vẫn hững hờ, biệt tăm. Kẻ thì đa tình mơ mộng... mà đối tượng lại mơ
hồ, vơ định, nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Chỉ là


chuyện hão huyền, vơ vọng vì đó đều mơ hồ, vu vơ. Ở đời vẫn có những mối
tình u như thế, lãng mạn như thế: "Ai biết tình ai có đậm đà?" (Hàn Mặc Tử).
Năm 1912 thi sĩ Tản Đà viết trong bài thơ "Thư trách người tình khơng quen
biết":


"Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ


Trông mây trông nước, nay chờ mai mong".
Và năm 1926, ơng cịn viết:


"Mong ai mỏi mắt chân trời,
Nhớ ai, đi, đứng, ăn, ngồi thẩn thơ".
("Thư trách người tình khơng quen biết")


Qua đó, ta giới có thể cảm nhận được tình tương tư "một người chín nhớ
mười mong một người" trong thơ Nguyễn Bính. Và đó chỉ là u vụng dấu
thầm mà thơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

"Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.


Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,
Cau thân Đồi nhớ giầu khơng thơn nào".


"Có một giàn giầu", "có một hàng cau liên phịng", nhà anh, nhà em mới đều
chỉ có "một" nghĩa là cịn lẻ loi, đơn chiếc. Anh và em vẫn đơi nơi: Anh ở thơn
Đồi, em vẫn ở thơn Đơng, vẫn còn xa cách quá chừng, vẫn là một trời mong
nhớ: "Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng". Anh nhớ em, tưởng như: "Cau thơn Đồi
nhớ giầu khơng thơn nào?". Hình ảnh ẩn dụ "giầu - cau" dân dã biểu lộ niềm
mơ ước: duyên trầu cau cũng là duyên đôi lứa sắt son, bền chặt. Câu trúc song


hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của đơi trai gái trong một tình u đẹp: nhà tơi
và nhà em, thơn Đồi và thơn Đơng, trầu và cau. Tình u là chuyện mn đời
của lứa đơi, của trai gái. Nguyễn Bính đã khép lại bài thơ bằng một lối diễn đạt
tinh tế, đậm đà, nhiều man mác, bâng khuâng. Mơ ước về trái ngọt hạnh phúc
sẽ làm lịm môi, mơ ước về con thuyền tình sẽ cập bến bờ hạnh phúc... đó là mơ
ước đẹp rất nhân văn, vần thơ, câu thơ của tác giả "Lỡ bước sang ngang" được
tuổi trẻ thời áo trắng u thích là vì thế.


"Tương tư" vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái tim, tâm
hồn bao chàng trai, cô gái. Ngôn ngữ và chất thơ dung dị, hồn nhiên, dân dã và
không kém phần lãng mạn thơ mộng. Một hệ thống ẩn dụ - ước lệ: thơn Đồi,
thơn Đơng, bến - đị, hoa - bướm, cau - trầu... - với cách nói ví von bình dị đã
tạo nên một khơng gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê nhà, là
"hồn xưa đất nước". Cái mới trong thơ lục bát của Nguyễn Bính là chất biểu
cảm nồng nàn, là niềm khao khát về tình u hạnh phúc, là cái tơi trữ tình, là
"của tơi u nàng", là cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Phong trào thơ mới để lại cho văn học nước nhà những thành tựu rực rỡ với
những tên tuổi lớn. Đó là Xuân Diệu với tâm hồn rạo rực khát khao về tình yêu,
tuổi trẻ và cuộc sống, là một Lưu Trọng Lư với những hồn thơ mơ màng mà
tha thiết với vạn vật với cuộc đời, đó cịn là một Hàn Mạc Tử "điên" trong từng
vần thơ nhỏ, một Huy Cận buồn ảo não một mối sầu dằng dặc, mênh mơng. Và
có một nhà thơ cũng đặc biệt không kém, ở ông luôn chất chứa những ý vị sâu
sắc, nồng đượm tình quê, chất quê dung dị mà vô cùng gợi cảm, hấp dẫn và thu
hút đó là thi sĩ Nguyễn Bính. Ơng để lại cho đời nhiều nhiên bài thơ đẹp và
"Tương tư" chính là một trong số đó.


Cũng viết về tình yêu, nhưng "Tương tư" mang màu cảm xúc rất riêng, rất đặc
biệt mà chỉ có trong thơ tình Nguyễn Bính. Bài thơ viết về mối tình đơn
phương của một chàng trai thơn Đồi đem lịng mến người con gái thơn Đơng,


và khi yêu người ta đem lòng thương, đem lòng nhớ và đem lịng "tương tư",
mối tình ấy có vẻ như thầm lặng đấy nhưng lại chứa chan đầy tâm sự và vơ
cùng mãnh liệt.


"Thơn Đồi ngồi nhớ thơn Đơng
Một người chín nhớ mười mong một người


Nắng mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tơi u nàng"


Bằng lối nói hốn dụ, tác giả đã vẽ nên chuyện tình của đôi trai gái hai thôn.
Chàng trai lúc này đây dường như đang ngồi thẩn thơ mong nhớ về người trong
mộng. Lỡ đem lịng thương nên nỗi nhớ da diết khơn ngi "chín nhớ mười
mong". Thành ngữ dân gian được vận dụng để miêu tả nỗi nhớ vơ cùng đặc
sắc, đó là một niềm nhớ vô bờ, một niềm thương mong da diết. Nếu thời tiết
thất thường, khi nắng khi mưa ấy là "bệnh trời", một căn bệnh vốn có và vốn
như thế khơng ai có thể thay đổi được thì tình yêu của chàng trai cũng kiên
định như thế. Và khi đã yêu thì nỗi "tương tư" trở thành một lẽ tự nhiên, một
căn bệnh do tôi yêu nàng mà có. Bệnh tương tư làm sao ai có thể chữa được
ngoại trừ người mà chàng trai thương thầm nhớ trộm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Hai câu thơ đi vào lòng người thật nhẹ nhàng, tình yêu được diễn tả thật ý nhị
và tinh tế. Có hai câu thơ ấy thơi mà nó khiến bao người phải thổn thức, bao kẻ
tình si đến bây giờ vẫn chọn nó để bày tỏ tình cảm của mình với người thương.
Tự tận đáy lịng ấy của những chàng trai đang u, ln là bóng hình người con
gái nhỏ mà họ dành trọn vẹn tình cảm yêu thương, bởi vậy mà căn bệnh tương
tư cứ thế nảy sinh cũng hợp lẽ vậy thơi. Song, tình u đâu chỉ có nhớ, có
mong thơi đâu, tình u cịn là những lần trách móc vơ cớ khi mối hị hẹn
chẳng thành, cũng là khi rất gần mà ngỡ như rất xa:



"Hai thôn chung lại một làng
Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này"


Cả hai người đang sống chung một làng ấy thôi, cùng chung quê hương, chung
những con đường ngày ngày qua lại, chúng cả không gian ấy vậy mà chẳng gặp
được nhau bởi" bên ấy" đâu có chịu sang "bên này". Lời trách móc sao mà dễ
thương đến thế, người trách cũng não lịng vì người mình mong khơng tới,
người bởi trách cũng đâu có biết được cảm tình của chàng trai dành cho mình
nên có lẽ nếu nàng có muốn sáng cũng chẳng đặng một lý do cho hợp tình vẹn
lý. Và có lẽ, bởi chẳng gặp được "bên ấy" nên chàng trai cứ kéo dài thêm nỗi
mong chờ, kéo dài thêm dòng tâm trạng nhớ, đợi, thương, mong:


"Ngày qua ngày lại qua ngày
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"


Thời gian cứ thế vơ tình trơi qua "ngày qua ngày" chẳng đợi một ai cả duy chỉ
có lòng chàng trai ngày một thiết tha, trăn trở. Nỗi nhớ ấy qua bao tháng ngày
từ hạ sang thu vẫn vẹn nguyên và đong đầy như thế. Cách kết hợp láy chữ đầy
tài tình mà lại vơ cùng tự nhiên "ngày qua ngày lại qua ngày" không chỉ tạo nên
âm hưởng mà còn đặc tả nỗi nhớ người trong mong vơ cùng ân tình, tha thiết.
Một nỗi nhớ đằng đẵng ngập tràn cả khơng gian và thời gian. Lịng chàng rõ
vậy nhưng nơi kia thiếp có thấu chăng sao lại khiến tâm tư thêm tự vấn, lắng lò
bồn chồn quá:


"Bảo rằng cách trở đị giang


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Có xa xơi mấy mà tình xa xơi"


Tình u xưa thường cách trở đị giang bởi sơng rộng, đường dài. Bởi vậy mà
cả dao xưa thường có câu:



"Ước gì sơng rộng một gang
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi"


Và cũng bởi cách trở khó khăn mà cịn đường tìm đến gặp nhau cũng chẳng
mấy dễ dàng, đó là điều chấp nhận. Nhưng trong mối tình này, chàng trai và cơ
gái cách có một đình nhỏ thì sá gì lại chẳng thể gặp gỡ, hò hẹn. Càng nghĩ
chàng càng lo lắng cho mối tình này, bởi có lẽ chỉ "tình xa xơi" người ta mới
ngại gặp gỡ, ngại đến tìm chàng mà thơi.


"Tương tư thức mấy đêm rồi
Biết cho ai hỏi ai người biết cho"


Trong ca dao xưa, các tác giả thường mượn từ "ai" như một sự phiếm chỉ cho
đối tượng trữ tình được nhắc đến. Ở đây, từ "ai" cũng được dùng như thế, sự
lặp lại có ý đồ tạo nên ý tứ vừa trách móc vừa mong đợi người mình ngày đêm
tương tư hiểu cho nỗi lòng này, trái tim này đang bồi hồi, thổn thức vì yêu mà
bao nhiêu đêm khơng ngủ. Những dịng thơ cuối nghe sao mà buồn vương đến
thớ, nỗi chực chờ được gặp lại chẳng thể gặp, gieo trong mình tia hy vọng cho
tương lai, ngày tương phùng gặp gỡ nhưng biết đến bao giờ nhỉ:


"Bao giờ bến mới gặp đò


Hoa khuê các, bướm giang hồ gặp nhau"


Những hình tượng bến, đị, hoa, bướm được dùng nhiều trong văn học dân
gian, đặc biệt ở ca dao hai hình tượng này chiếm rất lớn. Đó là những hình ẩn
dụ biểu tượng cho đơi lứa trai gái trong tình u. Và trong bài thơ, đơi lứa ấy
chưa thể gặp nhau để kết duyên trăm năm chồng vợ.



"Nhà em có một giàn giầu
Nhà tơi có một hàng cau liên phòng


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Trầu cau là những vật chung đơi, là biểu tượng cho mối tình trăm năm kết tóc
se duyên chẳng đổi dời. Trầu - cau có ý nghĩa vô cùng đặc biệt trong mỗi cuộc
vui hạnh phúc, vì vậy, Nguyễn Bính là sử dụng hình ảnh này như một sự hy
vọng cho mối tình đơn phương này có một cái kết hạnh phúc viên mãn. Đó là
nỗi nhớ, nỗi tương tư chứa đầy niềm yêu, niềm hy vọng.


Nguyễn Bính - một thi sĩ đồng quê dạt dào tình u q hương đất nước. Bao
hình ảnh thơn q, bến đò, trầu cau, cũng những chất liệu dân gian được nhà
thơ vận dụng vào bài đầy sáng tạo. Đó là một tư duy nghệ thuật vô cùng văn
minh, một tư tưởng mới được bộc lộ quá những tinh hoa, cốt cách văn học dân
tộc, ngôn ngữ giản dị mà ý tứ sâu lắng, cảm xúc chân thành. Đến với "Tương
tư" nói riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung, tâm hồn ta như được thanh lọc,
được trở về với vẻ đẹp chân quê đằm thắm những ân tình, cảm xúc dạt dào, dịu
dàng như dòng sữa mẹ khiến ta thêm nâng niu, thêm trân trọng những vẻ đẹp
của tình quê, của hương đồng gió nội dân tộc.


<b>Bài làm 5</b>


Tình u thật khó định nghĩa, khơng ai có thể định nghĩa được tường tận về
tình u. Và trong tình u có rất nhiều những cung bậc và trạng thái khác
nhau. Có thể thấy được rằng trong khi yêu ai ai chẳng có sự nhớ thương lưu
luyến, cảm giác nhớ mong đêm ngày được gọi tên đó chính là tương tư. Nhà
thơ Nguyễn Bính đã có” thơ thật hay khi nói về cảm xúc, trạng thái này đó
chính là thi phẩm “Tương tư


Và ta như thấy được chính khổ thơ đầu nói lên nỗi “nhớ”, nỗi “mong” của kẻ
đang yêu, nỗi nhớ mong đầy ắp trong lòng, đã thành “bệnh” bởi lẽ “tơi u


nàng”:


“Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,
Một người chín nhớ mười mong một người.


“Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

mong” làm cho lời thơ trở nên hình dị mà hồn nhiên, đằm thắm. Qủa thực trong
tình yêu thì khi xa cách thì nỗi “chín nhớ mười mong một người” khơng chỉ
đầy ắp, da diết trong lịng chàng trai đa tình u tha thiết này mà cịn tràn ngập
cả xóm thơn, cả thơn Đơng lẫn thơn Đồi. Và chàng trai đã u nàng tôi tương
tư đã thành “bệnh”, thật đáng thương,… thật độc đáo khi căn bệnh này cũng
như bệnh nắng mưa của trời vậy. Ta dường như thấy được chính cách so sánh
“bệnh giời” với bệnh “tương tư “của tôi yêu nàng”, nhà thơ Nguyễn Bính thạt
tài tình khi đã diễn tả một cách hồn nhiên, cũng như thật là thi vị về nỗi buồn
tương tư trong tình yêu là lẽ tự nhiên, là tất yếu. Và ta như thấy được yêu thì
mong được gần nhau, mà xa nhau thì nhớ; yêu lắm nên nhớ nhiều, và có thể nói
ta như càng nhớ mong thì càng tương tư. Tương tư được biết đến đó chính là
một nét đẹp của tình u nên khác gì “Nắng mưa là bệnh của giời”…


Khơng dừng lại ở đó ta như thấy được mười hai câu tiếp theo nói lên tâm trạng
tương tư “bệnh của tơi u nàng”. Đầu tiên đó cũng chính là những nỗi băn
khoăn thắc mắc. Tuy nhiên nó như chẳng được ở gần nhau “bên giậu mùng
tơi”, “bên giàn thiên lí”, nhưng dường như khi mà tôi với nàng gần gũi biết bao
“Hai thơn chung lại một làng”. Tình u đó chính là có mong có nhớ… có đi
mà khơng có lại, nên băn khoăn thắc mắc biết ngỏ cùng ai bây giờ? Ta dường
như thấy được đó chính là một câu hỏi cất lên nghe thật là thương, thật là buồn:


“Cớ sao bên ấy chảng sang bên này?”.



Dường như cũng đã bao lâu rồi chưa được gặp nàng, nỗi buồn tương tư càng da
diết, nôn nao:


“Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Tình yêu là vậy cứ thắc mắc rồi trách móc, rồi hờn tủi. Băn khoăn tự hỏi, tự
giày vị mình đó chính là những câu theo mơ-tip “Bao rằng”, “khơng… là
chăng… đã đành”, “nhưng”, “có xa xơi mấy…”, và ta như thấy được hỏi để rồi
lại băn khoăn, hờn dỗi. Và dường như điều đó chỉ biết hỏi mình mà thơi, càng
hỏi càng cơ đơn lẻ loi, hờn tủi:


”Có xa xơi mấy mà tình xa xơi?”.
“Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?”.


Ta như thấy được để có thể mà trải qua những “chín nhớ mười mong”, hết
trách móc hờn đỗi rồi lại trơng đợi cầu mong. Thật chân tình, thật chân thành,
tha thiết:


“Bao giờ bến mới gặp đò,


Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?”.


Tác giả dường như cũng đã vận dụng lốì nói ước lệ ẩn dụ trong ca dao (bến,
đị) trong thơ văn truyền thống đó chính là “hoa khuê các, bướm giang hồ”.
Như cũng đã để thể hiện một nỗi ước mong, một khao khát về tình u hạnh
phúc của lứa đơi rất thiết tha. Có thể thấy được rằng chính cái tơi trữ tình của
chàng trai đa tình, nỗi buồn tương tư, nỗi khát khao ước mong về hạnh phúc
“của tôi yêu nàng “, trở thành “cái chung” của nhiều chàng trai, cô gái khác. Và


bài thơ như đã nói được nỗi lịng của chàng trai và những người đang yêu, đang
mắc cắn bệnh “tương tư”.


Và khi đến với phần hai bài thơ, chàng trai dường như lúc thì trách móc, lúc thì
nhắn hỏi liên tiếp mà “nàng” vẫn hững hờ, biệt tăm. Ta như cảm thấy được kẻ
thì đa tình mơ mộng… mà đay buồn đó chính là đối tượng lại mơ hồ, vơ định,
nhớ thương mong đợi, có đi mà chẳng bao giờ có lại. Qủa thật đây cũng chỉ là
chuyện hão huyền, vô vọng vì đó đều mơ hồ, vu vơ. Ta dường như thấy được ở
đời vẫn có những mối tình u như thế, lãng mạn như thế


“Nhớ mình ra ngẩn vào ngơ


Trông mây trông nước, nay chờ mai mong”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Bốn câu thơ cuối bài nói lên niềm mơ ước muôn đời của lứa đôi. Và ở đây là
của “anh”. u nhau đâu chỉ có “chín nhớ mười mong”, đâu chỉ có tương tư
mà cịn ước mơ hạnh phúc:


“Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phong.


Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng,
Cau thân Đồi nhớ giầu khơng thơn nào”.


Hình ảnh “Có một giàn giầu”, “có một hàng cau liên phòng”, nhà anh, nhà em
mới đều chỉ có “một” nghĩa là cịn lẻ loi, đơn chiếc. Và hơn hết đó chính là
Anh và em vẫn đơi nơi đó là Anh ở thơn Đồi, em vẫn ở thơn Đơng, vẫn cịn xa
cách q chừng, vẫn là một trời mong nhớ, nhớ thương biết bao nhiêu đó chính
là “Thơn Đồi thì nhớ thơn Đơng”. Anh nhớ em, tưởng như: “Cau thơn Đồi
nhớ giầu khơng thơn nào?”.



Người đọc cũng có thể ngầm hiểu hình ảnh ẩn dụ “giầu – cau” dường như cũng
đã lộ niềm mơ ước: duyên trầu cau cũng là dun đơi lứa sắt son, bền chặt.
Chính với cấu trúc song hành gợi tả mối quan hệ gắn bó của đơi trai gái trong
một tình u đẹp biết bao nhiêu.


Thi phẩm “Tương tư” vượt lên thời gian, đã sống trong lòng người, trong trái
tim, tâm hồn bao chàng trai, cô gái. Ta như thấy được ngôn ngữ và chất thơ
dung dị, hồn nhiên, dân dã và không kém phần lãng mạn thơ mộng. Đó chính là
một hệ thống ẩn dụ – ước lệ đó chính là thơn Đồi, thơn Đơng, bến – đị, hoa –
bướm, cau – trầu… -. Ta dường như có thể thấy được với cách nói ví von bình
dị đã tạo nên một khơng gian nghệ thuật gần gũi, thân quen là làng xóm, quê
nhà, là “hồn xưa đất nước“. Có lẽ rằng chính cái mới trong thơ lục bát của
Nguyễn Bính là chất biểu cảm nồng nàn, như đồng thời cũng chính là niềm
khao khát về tình u hạnh phúc, là cái tơi trữ tình, là “của tơi u nàng”, đồng
thời cũng nói lên được cảm xúc của tuổi trẻ bấy lâu nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

hiện hồn thơ Nguyễn Bính đó chính là sự lãng mạn mà chân quê, man mác
hương đồng gió nội một thời quá vãng.


</div>

<!--links-->

×