Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tải Cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát - 7 bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.11 KB, 24 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Cảm nhận về Bài ca ngắn đi trên bãi cát Ngữ văn 11</b>



<b>Dàn ý chi tiết</b>
<b>I. Mở bài</b>


- Trình bày những nét khái quát về tác giả Cao Bá Quát và tác phẩm Bài ca
ngắn đi trên bãi cát


- Trình bày những cảm nhận khái quát nhất của bản thân về bài thơ: Bài thơ
cho ta cảm nhận sâu sắc sự chán ghét con đường danh lợi tầm thường và niềm
khao khát thay đổi cuộc sống của người sĩ tử


<b>II. Thân bài</b>


(Điểm lưu ý trong bài cảm nhận là cần đưa thêm nhiều những lời bình, những
quan điểm của cá nhân về những điều tác giả gửi gắm trong tác phẩm)


1. Cảm nhận về hình tượng bãi cát


- Mang ý nghĩa tả thực:


+ “Bãi cát dài lại bãi cát dài”


⇒ Điệp từ: gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vơ tận.


- “Phía Bắc núi Bắc núi mn trùng


Phía Nam núi Nam sóng dào dạt”


+ Tả thực: khung cảnh gợi cảm giác ngột ngạt, bó buộc



+ Biểu tượng cho ý niệm: cuộc đời bế tắc, ngột ngạt


- Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp
nhau tượng trưng cho môi trường xã hội, con đường sự nghiệp đầy chông gai,
gian khổ, nhọc nhằn, mù mịt mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu
cầu công danh.


2. Cảm nhận về hình tượng lữ khách


- Hồn cảnh của người lữ khách:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Lúc mặt trời đã lặn, con người
đều tìm chốn nghỉ ngơi, người lữ khách vẫn mải miết trên con đường vất vả
đến nỗi phải tn rơi nuớc mắt.


⇒ Tình cảnh của người đi đường khó khăn, bất lợi


⇒ Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng buồn, đầy chông gai


- Người lữ khách ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hồi bão
của mình với thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái


+ “Không học …lội suối, giận khôn vơi!”: tự cảm thấy giận mình vì
khơng có khả năng như người xưa, mà phải tự mình hành hạ thân xác mình,
chán nản, mệt mỏi vì cơng danh - danh lợi.


+ “Xưa nay… đường đời”: sự cám dỗ của cái bả công danh đối với
người đời, danh lợi khiến con người “tất tả”


⇒ sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với danh lợi, ông không


muốn sa vào con đường ấy, nhưng vẫn chưa tìm ra hướng đi khác cho mình


+ “Đầu gió … tỉnh bao người”: chuyện mưu cầu danh lợi cũng hấp dẫn
như thưởng thức rượu ngon, làm say người, ít ai có thể tránh được sự cám dỗ.


ơng nhận ra sự cám dỗ của danh lợi đối với con người


+ “Bãi cát dài…nhiều, đâu ít?”: Nhận ra sự cám dỗ công danh, nhà thơ
như trách móc, giận dữ nhưng cũng chính lđang tự hỏi bản thân. Ơng nhận ra
tính chất vơ nghĩa của lối khoa cử đương thời nhưng cũng vẫn đang bước trên
con đường ấy Tâm trạng băn khoăn, day dứt, bế tắc, bước trên con đường⇒
cơng danh thì mù mịt mà “đường ghê sợ” thì nhiều khơng ít


+ “Khúc đường cùng”: khúc ca tuyệt vọng đầy bi phẫn của tác giả. Con
đường đi với bãi cát mênh mơng, mịt mùng, cũng chính là con đường cơng
danh nhọc nhằn, bế tắc đây không phải chỉ của tác giả mà cịn của biết bao⇒
trí thức đương thời.


- Hình tượng người lữ khách với lời than bi phẫn, tuyệt vọng


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

⇒ Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính
lịng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.


<b>III. Kết bài</b>


- Cảm nhận về những nét đặc sắc nghệ thuật làm neen thành cơng của tác
phẩm: thơ cổ thể, hình ảnh đối lập, điển tích, điển cố…


- Bài thơ là tiêu biểu cho nỗi lòng của Cao Bá Quát trước con đường cơng


danh, đồng thời cũng là tâm tư của bao trí thức đương thời khác nữa.


<b>Bài Mẫu Số 1:</b>


Cao Bá Quát - một nhà nho chân chính, nhà thơ có tài năng và bản lĩnh, các
sáng tác của ông thường bộc lộ thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến
trì trệ, bảo thủ, đồng thời chứa đựng tư tưởng khai sáng có t/c tự phát, phản ánh
một nhu cầu đổi mới của xã hội lúc bấy giờ. Và Bài ca ngắn đi trên bãi cát
chính là một thi phẩm đặc sắc tiêu biểu cho những suy nghĩ ấy. Thông qua tác
phẩm này, Cao Bá Quát thực sự đã cho độc giả những nhận định đúng đắn về
nhân cách nhà nho chân chính từ chính con người ơng.


Thật vậy, cũng như bao sĩ tử khác, ơng chọn cho mình con đường hành đạo của
của người trí thức xưa, đó là học hành - khoa cử - làm quan để phò vua giúp
nước. Thế nhưng trong bối cảnh nhà Nguyễn đang đi vào giai đoạn suy sụp,
thối nát, bảo thủ, lạc hậu, ông đã nhận ra cái con đường ấy là con đường gian
nan, đường cùng thể hiện chính bằng hình ảnh "bãi cát dài" trong tác phẩm và
ông đang rơi vào sự bế tắc của con đường tiến thân như người "lữ khách đi trên
bãi cát" trong tác phẩm.


<i>Bãi cát dài, lại bãi cát dài</i>


<i>Đi một bước lùi một bước</i>


Ông bắt đầu có cái nhìn mới về con đường khoa cử. Ơng đưa ra hiện thực ln
tồn tại nhan nhản trong xã hội:


<i>Cổ lai danh lợi nhân</i>


<i>Bôn tẩu lộ đồ trung.</i>



<i>Phong tiền tửu điếm hữu mĩ tửu,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>(Xưa nay phường danh lợi</i>


<i>Tất tả trên đường đời</i>


<i>Đầu gió hơi men thơm quán rượu,</i>


<i>Người say vô số, tỉnh bao người?)</i>


Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, thi sĩ họ Cao đã cho người
đọc thấy được bức tranh đời thực. Đó là phần đơng con người - tầm thường,
hám danh hám lợi, phải khốn khổ, phải vội vã, chạy ngược, chạy xuôi, xô bồ
trên con đường danh lợi "Xưa nay phường danh lợi/ Tất tả trên đường đời".
Cũng chính vì cái hám danh hám lợi ấy mà họ dễ bị dụ dỗ, mê hoặc bởi bao
nhiêu thứ "mĩ tửu" dậy hương đưa, họ như người đời thấy qn rượu ngon thì
đổ xơ tới "Đầu gió hơi men thơm quán rượu/ Người say vô số, tỉnh bao người?"


Những câu thơ của Cao Bá Quát như chiếu một góc nhìn trong tâm hồn vừa cơ
đơn, vừa kiêu hãnh. Một con người khơng muốn và khơng thể hịa cùng đám
người hám danh lợi, luôn muốn bon chen mưu cầu danh lợi. Ta thấy được sự
đối lập giữa cái tầm thường với cái thanh cao, giữa cái ồn ã sục sôi từ thiên hạ
với cái bình lặng, cao ngạo từ con người. Ông thể hiện thái độ bất hợp tác, nỗi
chán trường, thất vọng trước sự xuống cấp của khoa cử nhà Nguyễn. Vậy Cao
Bá Quát đã chán ghét cái danh lợi tầm thường ấy, đã nhận ra sự vô nghĩa trong
lối khoa học cử, con đường danh lợi đã cũ nát,. Phải chăng đó chính là biểu
hiện cho nhân cách của nhà nho chân chính?


Hơn thế, bầu cảm xúc dần được nâng lên:



<i>Bãi cát dài, bãi cát dài ơi!</i>


<i>Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt</i>


<i>Đường ghê sợ còn nhiều, đâu ít?</i>


Nỗi trăn trở, băn khoăn trước hiện trạng như bế tắc, bần cùng khi con người đi
đường mà chưa tìm ra đường. Chỉ thấy trước mắt là đường thật nhiều ám ảnh,
ghê sợ mà bước đường bằng phẳng thì mờ mịt, không biết nên đi đâu, về đâu?


<b>Bài mẫu số 2: </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

từng hát: Ngã dục đăng cao sầm - Hạo ca kí vân thủy (Ta mn trèo lên đỉnh
cao ngất - Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước). Nhưng trong bài Sa
hành đoản ca, ông lại viết:


<i>Trường sa, trường sa, nại cừ hà!</i>


<i>Thản lộ mang mang úy lộ đa.</i>


<i>(Bãi cát, bãi cát, ngao ngán lịng</i>


<i>Đường phẳng mờ mịt, đường hiền vơ cùng!)</i>


Sa hành đoản ca (Bài ca ngắn đi trên bãi cát) chỉ có thể có được Cao Bá Qt
viết ra khi ơng đã nếm trải nhiều cay đắng trên con đường công danh, hoạn lộ?
Có thể trên đường từ Huế ra Bắc đi nhận chức Giáo thụ huyện Quốc Oai, tỉnh
Sơn Tây, ông mới viết bài thơ này (?).



"Ca" là một thể loại của thơ cổ: câu thơ dài, ngắn tùy thuộc vào cảm hứng và
âm điệu, vần điệu. Bài thơ của Cao Bá Qt gồm có 16 câu thơ ngũ ngơn và
thất ngơn đan xen vào nhau.


Sa hành đoản ca nói về 'một người đang lặn lội trên bãi cát dài, khi tóc đã ngả
màu sương, suy ngẫm về đường đời và cái bá công danh.


Bôn câu thơ đầu gợi tả bãi cát. Hình ảnh 'trường sa ' điệp lại trong câu thơ
'Trường sa phục trường sa ' gợi lên bãi cát dài và rộng bao la, mênh mông, kéo
dài đến vô tận. Đó là những bãi cát nằm dọc con đường thiên lý thuộc hai tỉnh
Quảng Bình, Quảng Trị dằng dặc nơi khúc ruột miền Trung. Khách lữ hành đi
một bước lại như lùi một bước. Nước mắt lã chã tuôn rơi. Mặt trời đã lặn
nhưng người lữ khách vẫn còn đi. Câu thơ ngũ ngôn với điệp ngữ và tương
phản đã làm nổi bật sự cực nhọc, mệt mỏi của người đang lầm lũi đi trên bãi cát
dài:


<i>Trường sa phục trường sa</i>


<i>Nhất bộ nhất hồi khước</i>


<i>Nhập nhập hành vị dĩ</i>


<i>Khách tử lệ giao lạc.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>Mỗi bước lại như lùi</i>


<i>Mặt trời đã lặn đi chưa nghỉ</i>


<i>Khách bộ hành nước mất tn rơi)</i>



Tám câu thơ tiếp theo nói lên cái giá phải trả đối với hạng người hám danh lợi.
Không học được 'phép ngủ kĩ ' của Tiên ông Hạ Hầu An ngày xưa mà vẫn 'cứ
trèo non, lội nước mãi' cho khổ! Tự hỏi mình rồi lại tự trách mình: Vì hám
danh lợi nên phải 'tất tả' ngược xi:


<i>Cổ lai danh lợi nhân</i>


<i> Bôn tẩu lộ đồ trung.</i>


<i>(Xưa nay phường danh lợi </i>


<i>Bôn tẩu trên đường đời.)</i>


Trên đời, kẻ hám danh lợi khác nào người say rượu. Người say rượu cũng như
kẻ hám cơng danh thì nhiều vơ số, cịn kẻ tỉnh thì ít. Đó là ngun nhân mọi bi
kịch của người đời:


<i>Phong tiền bửu hữu mĩ tửu</i>


<i>Tính giả thường thiểu, túy giả đồng.</i>


Nghệ thuật so sánh giữa 'tỉnh giả thiểu' với 'túy giả đồng” đã làm nổi bật chất
triết lý về sự hám danh lợi của người đời.


Nếu Lý Bạch hơn nghìn năm về trước từng cảm nhận:


<i>Hành lộ nan, hành lộ nan!</i>


<i>Đa kì lộ, kim an tại?'</i>



<i>(Đường đi khó, đường đi khó!</i>


<i>Nhiều ngã rẽ giờ đang ở nơi nào?)</i>


thì trong Sa hành đoản ca, Cao Bá Quát cũng viết:


<i>Bãi cát dài, bãi cát dài, biết tính sao đây?</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Khách lữ hành không chỉ cảm thấy đường đi khó mà cịn cảm thấy đường đời
lắm ngả, biết đi về đâu, biết chọn hướng nào, nẻo đường nào? Giữa bãi cát dài
bao la mênh mông, người lữ khách như bị lạc lối, băn khoăn tự hỏi: 'Biết tính
sao đây?'. Hơn bao giờ hết, lữ khách mới thâm thia con đường đời, con đường
danh lợi 'bằng phẳng thì mờ mịt ', mà 'bước đường ghê sợ thì nhiều '.


Cao Bá Quát coi đó là sự trải nghiệm, chiêm nghiệm. Nổi tiếng thần đồng
nhưng chỉ đỗ cử nhân: mấy lần thi Hội đều hỏng. Dưới chế độ phong kiến,
khơng phải cứ có tài, có chí là cơng thành danh toại. Có lúc Cao Bá Quát cất lời
than: 'Trượng phu ba mươi tuổi, chẳng nên danh gì'. Mãi đến năm 32 tuổi, ông
mới được vua nhà Nguyễn triệu vào kinh bô làm hành tẩu bộ Lễ - một chức thư
lại quèn! Sau đó là những năm tù đày, đi “dương trình hiệu lực' sang đến tận
In-đơ-nê-xi-a... Câu thơ “Dường phẳng mờ mịt, dường hiểm vô cùng” đã được
Cao Bá Quát viết bằng nước mắt, tiếng thở dài và máu.


Khép lại bài thơ là khúc ca 'đường cùng '. Phía Bắc và phía Nam, trước mặt và
sau lưng, núi nhấp nhơ 'mn trùng ', núi lượn sóng 'mn đợt '. Cặp câu song
hành sử dụng hình ảnh biểu tượng đã tơ đậm cái khó của con đường đời. Lữ
khách tự hỏi và khẽ trách mình. Kết thúc bài thơ là một câu hỏi đầy ám ảnh:


<i>Nghe ta ca 'cùng đồ ' một khúc</i>



<i>Phía Bắc núi Bắc, núi mn lớp!</i>


<i>Phía Nam núi Nam, sóng mn đợt!</i>


<i>Sao mình anh cịn trơ trên bãi cát?</i>


Người lữ hành đã và đang sống trong tâm trạng buồn cô đơn và mệt mỏi. Biết
đi đâu về đâu khi mặt trời đã lặn, lặn từ lâu rồi! Biết tìm hướng nào khi tóc đã
ngả màu sương.


Sa hành đoản ca là lời than của người lữ khách về sự gian truân trên đường đời,
về sự mờ mịt ghê sợ của con đường danh lợi. Bài thơ là một bài học, một triết
lý về con đường danh lợi và cái giá của khách danh lợi trên mọi nẻo đường gần
xa.


Hình tượng bãi cát dài và người đi trên bãi cát lúc mặt trời đã lặn, nước mắt
chảy ra cứ ám ảnh mãi hồn người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Nửa đầu thế kỉ XIX, ở Việt Nam, Cao Bá Quát được ca ngợi là con người đa
tài: học giỏi, thơ hay, chữ đẹp. Người ta ngợi ca ông: "Văn như Siêu quát vô
tiền hán". Quả thực, thơ ca của ông mang đậm một phong cách tư tưởng tự do,
phóng khống với bản lĩnh kiên cường trước cường quyền. "Sa hành đoản ca"
-"Bài ca ngắn đi trên bãi cát" là một trong số những bài thơ thể hiện rất rõ tư
tưởng phong cách của nhà thơ.


"Sa hành đoản ca" được viết trong lúc đi thi Hội - khi ông đang muốn đem tài
năng của mình ra để thi thố, thực hiện chí hướng, hồi bão giúp đời cứu nước.
Cũng có ý kiến cho rằng bài thơ được làm trong thời gian tập sự ở bộ Lễ.


Bốn câu thơ đầu là hình ảnh bãi cát và người đi trên bãi cát:



<i>"Trường sa phục trường sa,</i>


<i>Nhất bộ nhất hồi khước.</i>


<i>Nhật nhập hành vị dĩ,</i>


<i>Khách tử lệ giao lạc."</i>


Bài thơ mở ra với không gian và thời gian đặc biệt. Không gian "Trường sa
phục trường sa" - "Bãi cát dài lại bãi cát dài", mênh mông hoang vắng đến rợn
ngợp. Thời gian về chiều, nắng tắt. Nắng tắt và gió khiến bãi cát mênh mơng
khơng để lại vết đường mòn, khiến người đi đường dễ mất phương hướng. Trên
nền khơng gian thời gian đó có người đi đường "Đi một bước như lùi một
bước". Hình ảnh chân thực, giàu sức gợi tả. Cách ngắt nhịp 2-3 liên tiếp như vẽ
ra bước đi đầy trầy trật, trúc trắc. Mặt trời sắp lặn mà một ngày vẫn chưa đi hết
quãng đường dài. Câu thơ gợi tả hình ảnh bãi cát mênh mơng, bất tận, nóng
bỏng, trắng xố đến nhức mắt. Đó là hình ảnh thiên nhiên đẹp dữ dội, khắc
nghiệt và cũng thể hiểu, bãi cát dài là con đường phải vượt qua để vào kinh thi
Hương hay cũng chính là con đường cơng danh sự nghiệp mờ mịt phía trước.
Người đi trên con đường ấy tn rơi những giọt lệ. Đó là nước mắt của đau
khổ, một cõi lịng đầy ốn hận.


Sáu câu thơ tiếp theo là tâm sự của người đi đường:


<i>"Quân bất học tiên gia mỹ thụy ơng,</i>


<i>Đăng sơn thiệp thuỷ ốn hà cùng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Bôn tẩu lộ đồ trung.</i>



<i>Phong tiền tửu điếm hữu mỹ tửu,</i>


<i>Tỉnh giả thường thiểu, tuý giả đồng."</i>


Tâm sự u uất của kẻ đi trên bãi cát dài bật ra với lời tự ốn trách mình đầy chua
chát "Khơng học được tiên ông phép ngủ". Tác giả thấy giận mình vì khơng có
khả năng như người xưa - khơng thể thờ ơ trước sự đời mà phải tự mình hành
xác theo đuổi đường công danh. Cao Bá Quát bất hoà sâu sắc với thực tại cát
bụi mờ mịt nhưng dứt khốt từ chối kiểu tiên ngủ. Đó là cái đáng nể trọng
trong nhân cách kẻ sĩ lạc lồi cơ đơn giữa cuộc đời bế tắc.


<i>"Xưa nay hạng người danh lợi,</i>


<i>Vẫn tất tả ở ngoài đường sá.</i>


<i>(Hễ) quán rượu ở đầu gió có rượu ngon,</i>


<i>(Thì) người tỉnh thường ít mà người say vơ số!"</i>


Đối lập hình ảnh người đi đường là hình ảnh đơng đảo phường danh lợi. Vì
cơng danh, danh lợi mà con người phải bôn tẩu. Từ chuyện danh lợi, người đọc
nhận ra trăn trở của tác giả về chuyện công danh. Công danh tự khi nào bị biến
tướng, có sức mê hoặc ghê gớm đến con người. Danh lợi phải chi cũng chỉ là
thứ rượu ngon dễ cám dỗ lịng người.Nó khiến con người say sưa tranh giành,
hưởng thụ mà quên đi trách nhiệm với cuộc đời. Hai câu thơ tác giả tạo ra
nhiều đối lập giữa số đông kẻ hám lợi tầm thường với một người cơ đơn, lạc
lồi, bơ vơ trên con đường cát bụi. Từ đó ta nhận ra sự đối lập giữa tá giả và
phường chạy theo danh lợi khẳng định nhân cách tự trọng của mình.



Trước những khó khăn trăn trở, người đi đường rơi vào bế tắc.


<i>"Trường sa, trường sa nại cự hà"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Người đi đường nhận ra mình không chỉ cô đọc trên đường đời mà đi trên
đường cùng.


<i>"Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",</i>


<i>Phía bắc núi Bắc núi mn trùng,</i>


<i>Phía nam núi Nam sóng mn đợt.</i>


<i>Anh cịn đứng làm chi trên bãi cát?"</i>


Nhìn mọi phía đều thấy mênh mông bát ngát, đường cùng mất rồi. Tiếp tục đi
trên con đường danh lợi, chắc chắn không bao giờ, quay trở về ẩn mình giữ
trong sạch là điều khơng thể và không muốn. Người đi đường đành đứng chôn
chân trên bãi cát. Câu hỏi chính mình "Anh cịn đứng làm chi trên bãi cát?"
diễn tả một khối mâu thuẫn lớn đè nặng tâm trí.


Bài ca thể hiện niềm thất vọng và bi phẫn của nhà thơ trước đường đời trắc trở,
bế tắc và vô vọng, phản ánh cảm quan của Cao Bá Quát về thời đại đen tối của
những người trí thức tài hoa trên con đường cơng danh truyền thống.


<b>Bài mẫu số 4</b>


Trong nền văn học Việt Nam có những nhà văn để lại một khối lượng tác phẩm
đồ sộ với nhiều thể loại phong phú nhưng cũng có những tác giả chỉ để lại rất ít
tác phẩm tuy nhiên những tác phẩm ấy lại được đánh giá cao và giàu ý nghĩa.


Tiêu biểu đó là bài thơ Sa hành đoản ca của Cao Bá Quát. Bài thơ mang đầy sự
phản kháng và giàu ý nghĩa sâu xa. Có thể nói đó là những lời nói hay dịng
tâm sự của Cao Bá Quát muốn thổ lộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

so sánh hai nền giáo dục hai nơi và những người nho sĩ hay chính là Cao Bá
Quát thấy bất bình trước nền giáo dục nước nhà.


Ta hãy cùng đi tìm hiểu về thể hành ca. Có thể thấy hành ca thuộc một thể
thơ cổ thể, khơng có gị bó vào luật, vần gieo tương đối tự do. Đặc biệt bài thơ
có những câu thơ dài tạo cảm giác phóng túng, lời thơ đa dạng khơng bị gị bó.
Nhịp điệu nhanh gấp, khẩn trương và lưu lốt khơng bị ngưng trệ. Đó chính là
thể hành ca.


Đi vào phân tích bài thơ trùng trùng như một lời thuật nên sẽ khơng thể phân
tích như kết cấu thông thường. Những câu thơ nối liền nhau nói lên một hình
tượng, một hình ảnh, một tâm trạng nên khơng thể chia kết cấu vì thế cho nên
ta sẽ đi theo những ý trên. Đó là hình tượng con người, hình ảnh bãi cát và tâm
trạng của con người khi đi trên bãi cát đó.


Trước hết là hình ảnh con người và hình ảnh bãi cát trong bài thơ. Đó là hình
ảnh bãi cát dài vô tận, mênh mông, bao la một màu vàng trắng. Tác giả một
mình đi trên đó suy ngẫm về cuộc đời mình và từ đó hai hình ảnh làm nổi bật
nhau lên thành những ý nghĩa biểu tượng:


“Bãi cát dài lại bãi cát dài,


Đi một bước như lùi một bước.


Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,



Lữ khách trên đường nước mắt rơi.


Không học được tiên ông phép ngủ,


Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!. ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cát kia. Ngun nhân đi khó khăn như vậy khơng phải do đường đi khó khăn
mà lịng người thêm nản mà do chính tâm trạng của tác giả. Giận vì khơng học
được tiên ông phép ngủ để giờ trèo đèo, lội suối mà giận khơn ngi. Có lẽ tác
giả đang giận chính mình tại sao lại theo đuổi vịng danh lợi để bây giờ chọn
con đường mịt mù khó khăn này.


Tiếp theo nhà thơ nói lên quy luật phổ biến lúc bây giờ khi con người đua
nhau đi vào vòng danh lợi:


Xưa nay, phường danh lợi,


Tất tả trên đường đời.


Đầu gió hơi men thơm quán rượu,


Người say vô số, tỉnh bao người?”


Phường danh lợi là thứ mà ai cũng mong ngóng và cố gắng đạt đến trong xã
hội ngày xưa nói riêng và xã hội ngày nay nói chung. Sức hấp dẫn của nó như
hơi men trong quán rượu kia, tác giả đặt ra câu hỏi say cả tỉnh được bao người,
câu hỏi hay chính là câu khẳng định về quy luật con người tìm đến phường
danh lợi. Đã dấn thân vào con đường ấy thì phải chấp nhận bơn ba trên đường
đời, con đường ấy là vơ cùng khó khăn và cách trở. Biết vậy nhưng có biết bao
nhiêu người vẫn sống vì nó, làm mọi việc để đạt lấy nó, giống như nó là hạnh


phúc của họ vậy. Hình ảnh bãi cát lại hiện lên. Điệp từ bãi cát thể hiện sự mênh
mang quá sức khiến cho người đi trên bãi cát ấy ngao ngán nản lòng.


Thế rồi hình ảnh bãi cát tiếp tục hiện lên mênh mơng cùng với đó là hình ảnh
đường cùng đầy sức gợi và giàu ý đồ nghệ thuật của nhà thơ:


“Bãi cát, bãi cát dài ơi!


Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt,


Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?


Hãy nghe ta hát khúc "đường cùng",


Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,


Phía nam núi Nam, sóng dào dạt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Dẫu là đường phẳng nhưng mịt mờ nguy hiểm. Chính những con đường cát
phẳng ấy tưởng chừng n bình phẳng lặng thế nhưng lại đầy dãy những nguy
hiểm đang rình dập đợi vồ lấy con người đi trên nó. Hình ảnh con đường cùng
hiện lên đầy ý nghĩa. Nó thể hiện sự bế tắc của chính nhà thơ. Con đường
khơng thể khơng đi trên nó dẫu biết rằng rất gian nan và vất vả thế nhưng
không tránh khỏi quy luật của xã hội. Những hình ảnh của núi non trùng điệp
hiện lên như muốn nói tới sự khó khăn hiểm trở sóng gió trên con đường đi đến
danh lợi. Giữa mn trùng núi non đường ghê sợ cịn nhiều chứ khơng ít.


Cuối cùng ta đi tìm hiểu tâm trạng của tác giả khi viết bài thơ cũng như đi
trên bãi cát kia. Đó là một tâm trạng buồn chán nản, chán không phải ngại
đường đi khó khăn hiểm trở mà chán vì chính sách giáo dục thời bấy giờ không


phù hợp chút nào:


“Bãi cát dài lại bãi cát dài,


Đi một bước như lùi một bước.


Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,


Lữ khách trên đường nước mắt rơi.


Không học được tiên ông phép ngủ,


Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!”


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Như vậy, qua bài thơ ta thấy được hành trình thi cử đỗ đạt của nhà thơ vô
cùng gian nan và nguy hiểm. Trên bãi cát mênh mông ấy con người hiện lên
nhỏ nhoi đơn lẻ. Bãi cát ấy càng đi càng như lùi, một bước đi mà như lùi một
bước. Con đường danh lợi làm cho nhà thơ cảm thấy chán nản, chúa ghét và
ơng biết rằng sự hấp dẫn của nó làm cho nhiều người mê mẩn say thì nhiều mà
tỉnh thì ít. Ngay cả tác giả cũng biết điều đó nghĩa là mình nửa tỉnh nửa say thế
nhưng vẫn đứng hồi làm chi trên bãi cát dài lại bãi cát dài ấy. Qua đây nhà thơ
bộc lộ tâm trạng cùng những thái độ của mình về nền giáo dục nước nhà. Phải
chăng ơng đã góp cho nền văn học Việt Nam một bài thơ hay đồng thời là một
ý kiến cho đất nước về sự nghiệp khoa cử.


<b>Bài mẫu số 5</b>


Cao Bá Quát đã từng viết: “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê
thủ bái mai hoa” – suốt cả đời ông chỉ cúi đầu trước vẻ đẹp thanh nhã, cao sang
của hoa mai, chứ nhất quyết không cúi đầu trước cường quyền. Sinh thời vào


buổi loạn lạc, nhiễu nhương dù mang trong mình cái hùng tâm cống hiến cho
đời nhưng ơng phải chịu nhiều bất cơng. Nỗi ốn ghét thực tại, phường danh
lợi đã được ông thể hiện biết bao xúc động trong bài thơ “Bài ca ngắn đi trên
bãi cát”.


Tác phẩm ra đời khi tác giả nhiều lần đi vào kinh đô Huế dự thi, phải
băng qua những bãi cát dài, mênh mông khơng biết đích đến. Chính trong hồn
cảnh đó ơng đã sáng tác “Sa hành đoản ca” thể hiện thái độ trước hiện thực đời
sống và phương danh lợi tầm thường.


Mở đầu bài thơ là hình ảnh bãi cát dài nuối tiếp nhau đến tận chân trời
và trên nền không gian rộng lớn ấy người lữ khách đang từng chút cố gắng
vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt:


Bãi cát dài lại bãi cát dài,


Đi một bước như lùi một bước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

khách khơng cịn làm chủ, mà bị nuốt trọn, lọt thỏm giữa không gian mênh
mông, vô tận. Họ bé nhỏ trong cái rộng lớn của vũ trụ, những bước đi ngày một
kiệt quệ, mệt mỏi nhưng vẫn phải tiếp tục gắng gượng: “Mặt trời đã lặn, chưa
dừng được/ Lữ khách trên đường nước mắt rơi”. Những giọt nước mắt nhọc
nhằn, cay đắng, không thể dừng lại, bởi vậy khi mặt trời đã xuống núi kẻ tìm
cơng danh vẫn phải mải miết bước tiếp. Giọt nước mắt ấy còn thể hiện nỗi đau,
sự bất lực, chán nản, bế tắc của người lữ khách. Liệu có con đường nào khác
cho ơng và những chí sĩ như ơng khơng? Rồi chính người lữ khách lại tự trả
lời: “Khơng học được tiên ông phép ngủ/ Trèo non, lội suối, giận khôn vơi”.
Phường danh lợi vẫn là một lực hút quá lớn với người lữ khách, làm sao đê
thoát khỏi chúng, làm sao để có một tâm hồn thư thái, thanh thản như ông tiên
để lánh xa danh lợi tầm thương. Vì sao mãi phải nhọc nhằn trèo đèo, lội suối


khi biết rõ chúng là tầm thường, giả dối, bởi vậy lữ khách tự giận với chính
mình.


Xưa nay phường danh lợi


Tất tả trên đường đời


Đầu gió men thơm quán rượu,


Người say vô số tỉnh bao người.


Danh lợi cũng như một thứ hơi men, tuy nhẹ mà ngấm sâu, khiến người
ta khó lịng có thể tỉnh táo để nhận định phải trái, đúng sai. Bởi vậy, ai đã lỡ
vướng vào phường danh lợi thường khó có thể dứt ra, người say thì vơ số,
người tỉnh cịn được mấy ai. Không chỉ vậy, gắn với lợi danh con người ta sẽ
mất đi sự thanh tĩnh trong tâm hồn, phải đua chen vất vả, phải tranh giành, hãm
hại lẫn nhau để đảm bảo lợi ích cho bản thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

đại trí thức về con đường cơng danh mờ mịt, nhiều gian truân trong xã hối rối
ren, bất ổn.


Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng


Phía nam núi Nam, sóng dào dạt


Bốn phía đều là hiểm nguy bủa vây, đó là một khơng gian tù hãm,
khơng lối thốt. Đó cũng chính là số phận của biết bao tri thức Nho học cuối
mùa khi họ khơng tìm thấy đường đi cho mình, rẽ lối nào cũng là tăm tối,
đường cùng. Còn với Cao Bá Quát ông dứt khoát hơn, mạnh mẽ hơn, thoát ra
khỏi con đường tăm tối, tìm cho mình lối đi riêng: “Anh đứng làm chi trên bãi


cát?”. Câu hỏi tu từ cuối bài vừa là lời khẳng định của tác giả về việc từ bỏ con
đường danh lợi tầm thường, vừa như một lời cổ vũ, thúc giục với những người
khác hãy vững tâm, tự tin bước ra khỏi con đường đấy, tìm cho bản thân một
con đường khác. Cũng chính bởi tư tưởng đó đã dẫn đến cuộc khởi nghĩa của
Cao Bá Quát vào năm 1854, mặc dù thất bại, mặc dù bị đàn áp nhưng đã thể
hiện được tầm vóc tư tưởng lớn lao của một con người vĩ đại.


Với hình tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa, tác phẩm đã để lại cho mỗi
người đọc những bài học ý nghĩa trong cuộc sống. Không chỉ vậy, với tác phẩm
này Cao Bá Quát đã thể hiện nỗi chán ghét sâu sắc với hiện thực đời sống tầm
thường, với chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát. Đồng thời còn thể hiện tư
tưởng, nhân cách cao đẹp của ông trước “bả công danh” tầm thường.


<b>Bài mẫu số 6</b>


Cao Bá Quát tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, Mãn Hiên, người làng
Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc quận Long Biên, Hà Nội).
Là người nổi tiếng học giỏi, có tài văn thơ và viết chữ Hán rất đẹp nên Cao Bá
Quát được người đời tơn vinh là thánh (Thần Siêu, thánh Qt). Khí phách, bản
lĩnh và hồi bão lớn lao của ơng vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của chế độ
phong kiến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt
Nam trước nguy cơ bị xâm lược bởi thế lực thực dân phương Tây. Có người
cho rằng hình tượng nhân vật Huấn Cao trong truyện ngắn Chữ người tử tù của
Nguyễn Tn chính là bóng dáng của Cao Bá Qt.


Bài ca ngắn đi trên bãi cát được sáng tác sau những lần Cao Bá Quát
vào kinh đơ Huế thi hội. Hình ảnh những bãi cát trắng chạy dọc các tỉnh miền
Trung khiến tác giả liên tưởng và hình dung ra con đường danh lợi nhọc nhằn


đáng ghét mà ông buộc phải theo đuổi, cũng như sự ngột ngạt, bế tắc của xã hội
đương thời. Một giả định khác là bài thơ ra đời khi Cao Bá Quát đã làm quan
cho triều đình nhà Nguyễn, bắt đầu cảm thấy thất vọng về lí tưởng mà mình
theo đuổi bấy lâu nay và âm thầm tìm kiếm một lí tưởng khác đúng đắn hơn.


Nội dung bài thơ phản ánh tình cảnh tù túng, khơng lối thốt của tầng
lớp trí thức trong thời kì khủng hoảng của chế độ phong kiến. Đồng thời thể
hiện niềm bi phẫn trước thực trạng xã hội, thái độ khinh bỉ phường danh lợi và
khát khao của những kẻ sĩ chân chính muốn sống một cuộc sống thực sự có ý
nghĩa.


Chủ đề bài thơ được tác giả thể hiện qua ba hình ảnh: bãi cát dài, con
đường đi trên bãi cát và người đi trên bãi cát.


Bài thơ vẽ ra trước mắt người đọc hình ảnh bãi cát dài mênh mơng
khơng có điểm dừng, gợi ra một con đường bất tận, mờ mịt: Bãi cát lại bãi cát
dài; … Bãi cát dài, bãi cát dài ơi. Hình ảnh bãi cát dài có ý nghĩa nghệ thuật
độc đáo vì nó mang tính sáng tạo, khơng vay mượn từ văn học Trung Quốc như
nhiều hình tượng thơ khác mà được lấy từ hiện thực là những cồn cát trẳng
hoang vu, rợn ngợp mà tác giả đã từng vượt qua nhiều lần trên con đường vào
kinh ứng thí. Dải đất miền Trung, đặc biệt là hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị
bề ngang rất hẹp, phía Tây là dãy Trường Sơn, phía Đông là biển. Trước mắt
người đi chỉ thấy cát, núi và sóng biển mà thơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Tác giả cảm nhận rằng con đường vượt bãi cát dài có những nét tương
đồng với con đường cơng danh khoa cử nhọc nhằn, thất bại thì nhiều, thành
cơng thì ít, nhưng đã lỡ bước vào nên khơng biết tính sao đây?


Bản thân Cao Bá Quát đã nếm trải đủ mùi cay đắng của việc thi cử. Đi
thi từ năm 13 tuổi (1822), đến lần thứ tư (1831) mới đậu cử nhân, lại bị đánh


tụt xuống tận chót bảng. Sau đó ơng cịn lận đận thêm ba lần thi Hội nữa mà
vẫn không đỗ. Ngay khi bước chân lên con đường danh lợi gắn với lí tưởng của
tầng lớp Nho sĩ trong xã hội phong kiến, nhà thơ đã nhận thấy sự bế tắc và mâu
thuẫn không giải quyết nổi. Nên đi tiếp hay dừng lại ? Dừng lại cũng khơng thể
được. Cịn đi tiếp thì khơng biết sẽ dẫn đến đâu ?


Hình ảnh con người đì trên bãi cát dài thật nhỏ bé và vất vả;


Đi một bước như lùi một bước.


Mặt trời đã lặn, chưa dừng được,


Lữ khách trên đường nước mất rơi.


Người đi đường có nhiều loại, mỗi loại mang một tâm trạng khác nhau.
Vơ số kẻ say vì men thơm quán rượu thoảng từ đầu gió. Phải chăng hơi men
thơm tượng trưng cho sự lôi cuốn, dẫn dụ ghê gớm của công danh?! Trước ma
lực ấy, liệu mấy người cịn giữ được sự tỉnh táo, sáng suốt?!


Khơng học được tiên ồng phép ngủ,


Trèo non, lội suối, giận khôn vơi!


Xưa nay, phường danh lợi,


Tất tả trên đường đời.


Đầu gió hơi men thơm quán rượu,


Người say vồ số, tĩnh bao người?



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

ngáy mà ông vẫn bước đều không hề trượt vấp. Vì thế nên thiên hạ mới gọi ơng
là tiên ngủ. Cao Bá Quát ước ao có được phép ngủ như tiên ơng, sống mà
khơng nhìn thấy, nghe thấy gì hết trong cuộc đời.


Những câu thơ tiếp theo phần nào giải thích lí do vì sao người ta cứ
phải trèo non, lội suối. Đó chính là do cái bả cơng danh cám dỗ. Những kẻ ham
danh lợi xưa nay đều tất tả chạy ngược chạy xuôi, cũng giống như người đời
thấy quán rượu ngon ở đâu là tranh nhau đổ xô đến, mấy ai tỉnh táo để thoát
khỏi sự cám dỗ của rượu. Danh lợi cũng là một thứ rượu mê hoặc con người.
Cao Bá Quát tỏ thái độ khinh rẻ phường danh lợi chi biết say sưa với bả vinh
hoa phú quý và ông bắt đầu cảm thấy sẽ là vô nghĩa nếu vẫn tiếp tục đi trên con
đựờng ấy. Những câu thơ chất chứa tâm trạng day dứt, băn khoăn: nên đi tiếp
hay từ bỏ? Mà câu trả lời thì khơng dễ dàng gì. Nhà thơ nhận rõ sự vơ nghĩa
của con đường cơng danh khoa cử trong hồn cảnh thực tại, nhưng nếu đi tiếp
thì sẽ phải đi như thế nào đây?


Người đi trên bãi cát dài bỗng nhiên dừng lại. Nỗi chán ngán, tuyệt
vọng chốn đầy tâm hồn bởi vì: Đường bằng mờ mịt, Đường ghê sợ cịn nhiều,
đâu ít ? Có lẽ đã đến bước đường cùng? Nếu khơng đi tiếp thì đi đâu?! Tâm
trạng bế tắc và tuyệt vọng bao phủ lên cả người đi, cả bãi cát dài. Bức xúc đến
thế thì người đi chĩ cịn cách là cất lên tiếng hát buồn thảm về con đường cùng
của mình:


Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”,


Phía bắc núi Bắc, núi mn trùng,


Phía nam núi Nam, sóng dào dạt



Anh đứng làm chi trên bãi cát?


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

tìm chân lí gian truân, mờ mịt. Tâm trạng phức tạp của nhân vật dự báo một
hành động bứt phá, một sự phản kháng âm thầm với trật tự hiện hành. Tư tưởng
tiến bộ của Cao Bá Quát thể hiện ở cho ông đã nhận rõ tính chất vơ nghĩa của
lối học khoa cử và con đường tiến thân theo lề lối cũ.


Trong bài thơ, tác giả đã đặt mình ở nhiều vị trí khác nhau để bộc lộ
tâm trạng và đối thoại với chính mình. Cao Bá Qt sử dụng nhiều đại từ xưng
hơ khác nhau, Có khi ông dùng từ khách (khách là một danh từ đối lập với
chủ), có khi lại dùng từ quân (anh, ông – đại từ nhân xưng ngôi thứ hai số ít),
có chỗ lại dùng từ ngã (tơi, ta – đại từ nhân xưng ngơi thứ nhất số ít). Tuy
nhiên, tất cả đều để chỉ bản thân tác giả. Khi gọi là khách, nhà thơ nhìn mình
như nhìn một người khác. Khi gọi là anh, nhà thơ như đối thoại với mình. Khi
xưng ta, tác giả muốn trực tiếp thổ lộ tâm sự. Các cách xưng hô trên đều thể
hiện thái độ trăn trở, bức xúc của nhà thơ trên con đường tạo lập công danh, sự
nghiệp.


Vậy là hình tượng người đi trên bãi cát dài được tác giả thể hiện không
đơn nhất mà đa chiều. Khi thì được miêu tả như một khách thể, khi lại như một
người đối thoại, khi lại như một chủ thể tự thể hiện. Thậm chí có khi tác giả
cho chủ thể ẩn đi. Mục đích là nhằm bày tỏ những tâm trạng, thái độ khác
nhau, trước những hoàn cảnh khác nhau.


Nội dung Bài ca ngắn đi trên bãi cát phần nào lí giải nguyên nhân tại
sao Cao Bá Qt đã đứng về phía nơng dân khởi nghĩa chống lại triều đình
phong kiến nhà Nguyễn.


Trước hết, bài thơ cho thấy thái độ chán ghét danh lợi và nhận thức
đúng đắn của tác giả về sự bế tắc của lối học hành khoa cử theo kiểu cũ. Diễn


biến tâm trạng của tác giả là từ băn khoăn, phân vân đến gay gắt tự hỏi: Anh
đứng làm chi trên bãi cát.


Bài thơ là tâm sự chân thành của một kẻ sĩ có tầm tư tưởng lớn, ý thức
rất rõ về sự trì trệ, bế tắc của thời đại. Đây cũng là cảm giác thất vọng của tác
giả trước lí tưởng mà mình tơn thờ. Sự bế tắc, tuyệt vọng trước đường cùng đã
được đẩy đến đỉnh điểm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

một kẻ sĩ chân chính với thói cầu an hưởng lạc của người đời giữa lí tưởng phò
vua giúp nước của một đấng nam nhi với những khó khăn gian khổ khó vượt
qua trên con đường tiến thân.


Bài ca còn thể hiện cảm xúc bi phẫn và cảm quan nhạy bén của Cao Bá
Quát về một thời đại đen tối, đầy nghịch cảnh đối với những bậc trí thức tài
hoa; đồng thời đánh dấu sự thức tỉnh của một số kẻ sĩ trước con đường công
danh truyền thống. Phải chăng điều đó đã gợi cho chúng ta một suy nghĩ và
nhận xét: xã hội phong kiến đương thời không thể dung nạp được lí tưởng của
Cao Bá Quát. Con người ấy nhất định không chịu đứng chôn chân trên bãi cát
mà đang nung nấu thái độ phản kháng âm thầm nhưng quyết liệt với trật tự hiện
hành. Cao Bá Quát đã nhận thấy cần phải làm một việc gì đó lớn lao hơn, có
ích cho đời hơn. Đó cũng là lí do đưa ông đến với cuộc khởi nghĩa của nông
dân, chọn con đường phản kháng chống lại triều đình nhà Nguyễn, để rồi cuối
cùng phải chịu kết thúc bi thảm.


Bài thơ được viết theo thể hành, khá tự do về kết cấu, vần và nhịp điệu.
Các câu thơ dài ngắn khác nhau (câu 5 chữ, 7 chữ, 8 chữ), nhịp ngắt của mỗi
câu thơ cũng đa dạng phù hợp với việc phản ánh tâm trạng phức tạp đầy băn
khoăn, dạy dứt của người đi trên bãi cát dài (nhịp 2/3: Trường sa / phục trường
sa; nhịp 3/5: Quân bất học / tiên gia mĩ thụy ông; nhịp 4/3: Phong tiền tửu điếm
/ hữu mĩ tửu). Nhiều câu có ngữ điệu cảm thán: (Đăng sơn thiệp thủy oán hà


cùng), ngữ điệu hỏi: (Trường sa, trường sa nại cừ hà? Quân hồ vi hồ sa thượng
lập?).


Nhịp điệu của Bài ca ngắn đi trên cát là nhịp gập ghềnh, trúc trắc của
những bước đi khó nhọc trên bãi cát dài, trên con đường công danh khoa cử
gian nan, vất vả và đáng chán. Đặc biệt, câu thơ cuối cùng là một câu hỏi day
dứt và ám ảnh. Lời ca mang âm hưởng u buồn, ngầm chứa thái độ phản kháng
của tác giả đối với trật tự xã hội hiện hành và cảnh báo sự đổi thay tất yếu trong
tương lai.


<b>Bài văn mẫu 7</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

đổi mới xã hội đương thời. “Bài thơ ngắn đi trên bãi cát” là một bài thơ tiêu
biểu cho lối suy nghĩ ấy, thể hiện rõ tư tưởng và phong cách của nhà thơ.


Cũng như bao sĩ tử thời bấy giờ, Cao Bá Quát chọn con đường khoa cử để
phò vua giúp nước. Thế nhưng xã hội đương thời lại quá nhiều rối ren, phức
tạp. Chế độ phong kiến nhà Nguyễn đi vào thời kì suy yếu với những thối nát,
bảo thủ, lạc hậu. Cao Bá Quát nhận ra con đường danh vọng gian nan bằng
hình ảnh “bãi cát dài”. Ơng rơi vào tình cảnh bế tắc, chán nản giống như người
lữ khách đi trên bãi cát dài:


“Bãi cát dài, lại bãi cát dài


Đi một bước lùi một bước


Mặt trời đã lặn, chưa dừng được


Lữ khách trên đường nước mắt rơi”



Một không gian và thời gian thật đặc biệt, mênh mông hoang vắng đến
rợn ngợp. Bãi cát dài vơ tận, mịt mờ và khó xác định. Từ “lại” nhấn mạnh sự
nối dài tít tắp của những bãi cát cho thấy sựu chán chường, ngán ngẩm của
nhân vật trữ tình. Thời gian đã về chiều, những ánh nắng cuối ngày cũng đã tắt.
Nắng tắt và gió lộng khiến cho bãi cát mênh mơng khơng để lại vết đường
mịn, người đi trên bãi cát trở nên mất phương hướng. Trên cái nền khơng gian
và thời gian ấy, hình ảnh con người hiện lên “Đi một bước như lùi một bước”.
Một hình ảnh chân thực và giàu sức gợi tả về sự vất vả, gian truân của con
người. Hình ảnh bãi cát và hình ảnh người đi trên cát khơng chỉ là hình ảnh
thực mà cịn mang ý nghĩa biểu tượng. Bãi cát dài là con đường công danh,
đường đời vô cùng xa xơi, mịt mù. Hình ảnh người đi trên cát chính là hình ảnh
biểu tượng cho con người đi tìm chân lí giữa cuộc đời. Chưa thể tìm ra con
đường nào khác nhưng tác giả đã nhận ra được những khó khăn, gian nan, thử
thách. Nhân vật trữ tình với tâm trạng mệt mỏi, kiệt sức “nước mắt rơi” nhưng
vẫn cố gắng để bước tiếp.


Sắc sảo trong cách nhìn và tỉnh táo trong phán xét, tác giả đã nhận ra thực
tế cuộc đời đầy đắng cay, vô vị:


“Không học được tiên ông phép ngủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Tâm sự u uất của kẻ đi trên bãi cát dài bật ra với lời tự trách bản thân mình
khơng có khả năng như người xưa – không thể thờ ơ trước cuộc đời mà phải
hành xác để theo đuổi con đường công danh. Phần đơng con người khơng thể
thốt khỏi sức cám dỗ của danh lợi, chạy ngược xuôi, vội vã, xô bồ trên con
đường công danh “ Tất tả trên đường đời”. Chính vì thế mà họ dễ bị hấp dẫn
bởi những thứ “mĩ tửu” dậy hương đưa, hưởng thụ mà quên đi trách nhiệm với
cuộc đời. Những câu thơ thể hiện một tâm hồn vừa cô đơn, vừa kiêu hãnh của
một nhà nho chân chính. Ta nhận ra sự đối lập giữa những kẻ hám danh lợi và
một người không muốn bon chen mưu cầu danh lợi. Đó là sự đối lập giữa cái


tầm thường và cái thanh cao, giữa ồn ã và bình lặng. qua đây, tác giả cũng bày
tỏ sự chán trường, thất vọng trước sự xuống cấp của khoa cử nhà Nguyễn. Ơng
nhận ra sự vơ nghĩa trong lối học khoa cử cũ nát, chán ghét danh lợi tầm
thường. Đó là biểu hiện cho nhân cách cao cả của một nhà nho chân chính.


Trước những khó khăn ấy, người lữ khách rơi vào bế tắc. Cảm xúc được
tác giả đẩy lên cao trào:


“Bãi cát dài, lại bãi cát dài ơi!


Tính sao đây? Đường bằng mờ mịt


Đường ghê sợ cịn nhiều, đâu ít?”


Tác giả đặt câu hỏi nên đi tiếp hay dừng lại. Tâm trạng người đi đường
đầy trăn trở, băn khoăn và có phần rơi vào bế tắc. Chỉ thấy trước mắt là con
đường đầy ám ảnh, ghê sợ mà đường bằng phẳng thì mờ mịt, xa tít tắp, chẳng
biết nên đi đâu, về đâu.


Người lữ khách nhận ra mình khơng chỉ cơ độc trên đường đời mà còn
đang đi trên đường cùng:


“Hãy nghe ta hát khúc “đường cùng”


Phía bắc núi Bắc núi mn trùng


Phía Nam núi Nam sóng mn đợt


Anh cịn đứng làm chi trên bãi cát?”



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Câu hỏi cuối bài thơ thể hiện một tâm trạng u uất, băn khoăn. Cao Bá Quát
muốn tìm ra con đường khác, một sự đổi mới cuộc sống trong hoàn cảnh xã hội
đương thời. Đây phải chăng là biểu hiện trong nhân cách của nhà nho chân
chính?


Bài thơ thể hiện sự chán ghét và bi phẫn của nhà thơ trước con đường vinh
hoa hão huyền, con đường đời nhiều trắc trở, gian nan. Qua đây, ta cũng thấy
được nhân cách cao cả của Cao Bá Quát với nhận thức sâu sắc về lối mòn của
khoa cử cũng như khát khao đổi mới trong xã hội đương thời. Bài thơ khơng
chỉ có giá trị nội dung mà cịn đặc biệt thành cơng ở nghệ thuật với những hình
tượng thơ độc đáo, sáng tao, những hình ảnh vừa tả thực vừa mang giá trị biểu
tượng sâu sắc.


</div>

<!--links-->

×