Tải bản đầy đủ (.doc) (66 trang)

“Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên vùng đất dốc ở huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.16 KB, 66 trang )

Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Tính cấp thiết của đề tài:
Đất là tài nguyên vô cùng quý giá, là địa bàn phân bố của con người,
là nơi phát triển xây dựng các cơ sở kinh tê – văn hoá – xã hội. Đặc biệt
đất là tài liệu không có gì thay thế được trong sản xuất nông - lâm – ngư
nghiệp. Hầu hết các nước trên thế giới đều xây dựng một nền kinh tế trên
cơ sở phát triển nông nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó
làm cơ sở cho sự phát triển của các ngành khác. Do đó, việc tổ chức sử
dụng nguồn tài nguyên đất hợp lý đầy đủ và đem lại hiệu quả cao theo
quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề cấp
thiết.
Trong mấy thập kỷ gần đây, do sự gia tăng của dân số quá nhanh
cùng với sự phát triển của Khoa học kỹ thuật đã làm cho yêu cầu sử
dụng đất ngày càng cao. Đất không những dành cho nông – lâm – ngư
nghiệp mà còn tham gia vào mục đích khác như công nghiệp, thương
nghiệp, dịch vụ, giao thông, … Việc sử dụng đất vào nhiều mục đích
khác nhau đã làm ảnh hưởng tới đất theo nhiều hướng khác nhau. Trên
thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đặc biệt quan tâm tới vấn đề
phát triển bền vững, trong đó việc sử dụng đất bền vững là một lí do để
FAO đề ra “Hiến chương đất đai “ hợp lí vì sự an toàn lương thực và sự
tồn tại của loài người trên thế giới.
Vấn đề cấp thiết có tính toàn cầu là cần có kế hoạch, biện pháp
bảo vệ và xây dựng đầy đủ, hợp lí tài nguyên đất - nguồn tài nguyên
đang trở nên khan hiếm để phát triển nông nghiệp bền vững. trong đó
việc sử dụng những vùng đất dốc được đặt lên hàng đầu vì việc sử dựng
1
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
vùng đất dốc nếu không được chú trọng quản lí một cách chặt chẽ sẽ gây
ra hiện tượng xói mòn rửa trôi làm thoái hoá đất một cách nhanh chóng.
Đặc biệt, ở Việt Nam là một nước nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa,


nguồn tài nguyên đất phong phú với ¾ diện tích đất tự nhiên là đồi núi
và trong tổng số 61 tỉnh thành thì đất đồi núi có mặt trong 41 tỉnh thành ,
chúng thường tập trung thành những dải liên tục suốt từ Bắc xuống Nam.
Vùng đất dốc ở nước ta có vai trò rất quan trọng cho sản xuất
nông lâm nghiệp và các ngành khác, tuy nhiên việc sử dụng đất dốc gặp
rất nhiều trở ngại do địa hình bị chia cắt, đất dốc dễ bị rửa trôi xói mòn
dẫn đến thoái hóa gây suy kiệt nguồn dinh dưỡng trong đất làm ảnh
hưởng tới vấn đề môi trường và sự tồn tại của các thế hệ trong tương lai.
Chính bởi vậy việc sử dụng tài nguyên đất dốc cần phải được nhìn nhận
một cách khoa học trên cơ sở sử dụng có hiệu quả và bền vững để tránh
những hậu hoạ khôn lường do sử dụng chúng một cách thiếu ý thức và
duy ý chí.
Huyện Nghĩa Đàn tỉnh Nghệ An là một huyện miền núi nằm ở
phía Bắc của tỉnh với diện tích 75.578 ha. Huyện có đồi núi không cao,
thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam bao quanh là các dãy núi cao từ
300 – 400 m. Vùng trung tâm với nhiều dãy đồi bát úp thấp và thoải, xen
kẽ giữa chúng là các thung lũng bằng phẳng với độ cao trung bình từ 50
– 70 m. Với điều kiện địa hình như vậy đã tạo cho huyện có nhiều diện
tích đất canh tác tốt. Tuy nhiên, nhìn chung toàn bộ diện tích đất canh
tác của huyện đều nằm trên địa hình cao nên việc sử dụng đất ở đây cũng
gặp nhiều trở ngại , dễ bị xói mòn gây suy thoái đất. Nghiên cứu thực
trạng, đánh giá hiệu quả sử dụng đất dốc ở Nghĩa Đàn để phát triển các
2
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
yếu tố tích cực và khắc phục các yếu tố hạn chế là rất cần thiết từ đó làm
cơ sở định hướng đối với người quản lí và sử dụng đất ở địa phương.
Xuất phát từ những vấn đề trên và nhằm góp một phần sức mình
trong chiến lược phát triển quê hương, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên vùng đất dốc ở
huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An”

3
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
1.2. Mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu:
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu:
- Đánh giá các loại hình sử dụng đất dốc và lựa chọn các loại hình
sử dụng đất dốc có hiệu quả và bền vững ở huyện Nghĩa Đàn - Nghệ An.
- Đề xuất hướng sử dụng đất hợp lí, bền vững cho vùng đất dốc
trên địa bàn nghiên cứu.
1.2.2. Yêu cầu nghiên cứu:
- Số liệu thu thập phải đảm bảo chính xác, trung thực và có ý nghĩa
đối với mục đích sử dụng đất sản xuất nông nghiệp.
- Các điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của vùng cần được xem xét,
cân nhắc kỹ cho các hướng sử dụng đất hợp lí, hiệu quả và biện pháp.
- Các phương pháp và các hệ thống chỉ tiêu vận dụng trong đánh giá
phải mang tính khoa học phù hợp với thực tiễn.
- Phương hướng, giải pháp đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất dốc của địa phương nghiên cứu phải đảm bảo tính khả thi và phù hợp với
điều kiện thực tế của vùng.
4
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
PHẦN II: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

2.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng đất dốc trên thế giới và ở
Việt Nam:
2.1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng đất dốc trên thế giới:
Trên thế giới, đất dốc đã được người dân khai thác và sử dụng cho các
mục đích nông lâm ngư nghiệp từ rất lâu đời. Đất dốc chiếm 14.7% tổng tài
nguyên đất của thế giới.
Nhìn chung, đối với các nước có trình độ phát triển vấn đề sử dụng
đất dốc được người ta nhìn nhận một cách thích hợp trên cơ sở khai thác một

cách hợp lý nhưng đối với các nước đang và chậm phát triển do sức ép về
đảm bảo lương thực và do sự bùng nổ dân số diễn ra trong những thập kỷ
gần đây đã đẩy các quốc gia này phải khai thác một cách triệt để cả những
vùng đất dốc ở mức giới hạn hoặc thậm chí rất ít có khả năng sử dụng được
vào các mục đích sản xuất và điều này đã làm cho phần lớn các diện tích đất
dốc sau khi đã phá rừng, khai thác đất không được bao lâu đã bị thoái hoá
hay thậm chí mất khả năng sản xuất.
Ở vùng Đông Nam Á có tới 1/3 đất canh tác được sử dụng theo kiểu
nương rẫy ﴾ Dobbi 1950,1978﴿. Người ta ước tính khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương có 80 triệu người du canh và sử dụng 120 triệu ha đất nương
rẫy. Ở Philippin nơi mà ¾ đất đai là rừng vào cuối Thế chiến thứ 2 nhưng
đến năm 1970 chỉ còn 38% diện tích là rừng, với việc biến đất rừng thành
đất nông nghiệp tăng với tốc độ 500 km
2
/năm của 350 ngàn người du canh.
Ở Inđônêxia, hàng năm có khoảng 2000 ha đất bị nghèo kiệt dinh dưỡng do
canh rác nương rẫy. Ở Ấn Độ hàng năm có đến 9 - 10 triệu ha rừng bị chặt
đốt để làm nương rẫy…
5
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Hệ thống canh tác trên đất dốc là hệ thống canh tác diễn ra vào mùa
mưa và thường xuyên gặp hạn hán, trong khi đó từ trước tới nay canh tác
trên đất dốc chủ yếu theo kiểu canh tác nương rẫy, đây là biện pháp canh tác
có thể chấp nhận được khi mật độ dân số thưa thớt và thời gian bỏ hoá kéo
dài từ 10 – 30 năm. Đây là kiểu canh tác điển hình có ưu điểm là tiết kiệm
được năng lượng của hoạt động sống, số calo cần thiết để đầu tư cho sản
xuất ra một đơn vị thức ăn là rất thấp. Tuy nhiên kiểu canh tác nương rẫy đã
làm phá vỡ cân bằng của các hệ thống đang tồn tại trong tự nhiên dẫn tới các
tác động tiêu cực và bất ngờ về mặt xã hội – môi trường.[5]
Nhiều tác giả đã công bố những công trình nghiên cứu về sử dụng lâu

bền nguồn tài nguyên đất dốc ở các khía cạnh khác nhau. Một số công trình
nghiên cứu đất dốc, xói mòn trên đất dốc được tiến hành trong 15 năm gần
đây tại Srilanka, Ấn Độ, Oxtraylia, Nhật Bản, Thái Lan… Đã đi đến kết luận
là: Hiện tượng nghiêm trọng xẩy ra ở vùng nhịêt đới là do tính xâm kích rất
mạnh của khí hậu hơn là do tính cảm ứng hay tính bền vững của đất nhiệt
đới. Ngoài các trận mưa làm đất bị rửa trôi và suy thoái còn có một nhân tố
khí hậu khác tác dụng thay đổi tính chất vật lý của đất đó là sự bốc hơi nước
xẩy ra mãnh liệt về mùa khô, làm phần trên của phẫu diện đất bị khô, sự kết
dính tăng mạnh gây bất lợi cho sinh trưởng và phát triển của thực vật. Về sự
rửa trôi, những cơn mưa nhiệt đới có cường độ mạnh đã mang theo những
nguyên tố khoáng kéo chúng xuống sâu vượt khỏi tầm hút của rễ cây. Người
ta nhận thấy rằng tình trạng nghèo chất hoá học do rửa trôi ở vùng nhiệt đới
rất khác nhau tùy từng nơi, đặc biệt khác nhau lớn ở những vùng nhiệt đới
ẩm hoặc xích đạo. Chẳng hạn như dưới rừng chuối ở Azaguize và rừng
chuối ở Versalless ﴾Pháp﴿ tổn thất Ca
2+
tương tự nhau. Nhưng ở Versalless
6
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
tổn thất về đạm cao gấp 5 lần, về Mg
2+
cao gấp 11 lần, K
+
gấp 74 lần so với ở
Azaguize. [ 4 ].
Sản xuất trên đất dốc gặp khó khăn lớn nhất là xói mòn, ở Liên Xô
theo Xô – bô – lép mỗi năm xói mòn đã làm trôi mất 535 triệu tấn đất màu,
gây thiệt hại về kinh tế rất lớn tương đương 4,5 tỷ rúp tại thời những năm
1978 ﴿. Ở Hoa Kỳ, theo H.N Benet, hàng năm xói mòn làm phá hỏng 113
triệu ha đất canh tác và điều này đã làm mất đi trị giá tương đương với 10 tỷ

đô la .
Mặt khác qua nghiên cứu, nhiều công trình trên thế giới đã xác định
dùng cây phân xanh xen với cây trồng chính có tác dụng che phủ chống
được rửa trôi, xói mòn và sự chiếu thẳng của ánh sáng mặt trời. Do đó làm
giảm bớt sự mất chất dinh dưỡng của đất đặc biệt là mùn và đạm. Cây họ
đậu được đưa vào xen canh có thể cải thiện sự hấp thụ Nitơ của các cây ngũ
cốc và cây trồng chính khác làm tăng hiểu quả của phân đạm bón vào đất
﴾Shanchen 1976﴿. Tại đảo Madagarca dùng phân xanh phối hợp với phân
khoáng làm tăng năng suất cây trồng rõ rệt.
Như vậy, vấn đề sử dụng đất dốc đã được rất nhiều quốc gia và các
nhà khoa học đất trên thế giới quan tâm như: những biện pháp công trình
cắt, dẫn dòng chảy, những mô hình canh tác ruộng bậc thang, các mô hình
canh tác trên đất dốc ﴾ SALT1, SALT2, SALT3, SALT4 ﴿, các mô hình
nông - lâm kết hợp, tăng khả năng che phủ đất …đây là những biện pháp kĩ
thuật sử dụng có hiệu quả và bảo vệ chống suy thoái ở điều kiện canh tác
trên đất dốc, rất nhiều các cuộc hội thảo quốc tế nhằm hướng tới mục tiêu sử
dụng và bảo vệ đất dốc đã giúp cho việc xác định các giải pháp canh tác bền
vững trên đất dốc.
7
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
2.1.2 Tình hình nghiên cứu và sử dụng đất dốc ở Việt Nam:
Việt Nam là một nước có lịch sử canh tác trên đất dốc lâu đời với các
tập quán truyền thống như đốt nương làm rẫy để trồng lúa, ngô và các cây
hoa màu ngắn ngày. Hiện tượng chặt phá rừng bừa bãi, kết hợp với canh tác
du canh du cư đốt nương làm rẫy đã làm cho hiện tượng mất rừng và diện
tích che phủ rừng của nước ta bị suy giảm nhanh chóng theo số liệu thống kê
từ 43% năm 1945 xuống chỉ còn 28% vào năm 1993. Tỷ lệ này rất thấp ở
vùng Tây Bắc (đặc biệt ở tỉnh Sơn La) chỉ còn khoảng 9 – 11% do hậu quả
của việc chặt phá rừng, khai thác rừng và canh tác bừa bãi theo kiểu phát
nương làm rẫy. Gần 13 triệu ha đất trống đồi núi trọc ở nước ta là hậu quả

của việc khai thác rừng và sử dụng đất dốc không có kiểm soát dẫn đến đất
bị suy thoái nghiêm trọng do xói mòn, rửa trôi, bạc màu hoá và sau đó là
hiện tượng xói mòn trơ sỏi đá làm cho đất không có khả năng sản xuất và
điều đáng lưu tâm ở đây là khi lớp đất màu mỡ bị phá huỷ thì phải đòi hỏi
một thời gian rất dài mới phục hồi lại được và trong nhiều trường hợp hầu
như không có khả năng phục hồi.
Bảng 2.1: Tỷ đất bị thoái hoá do xói mòn ở vùng đồi núi Việt Nam
Vùng sinh thái
Tỷ lệ đất dốc
( %)
Tỷ lệ đất thoái hoá
do xói mòn ( %)
1. Miền núi phía Bắc 95 80
2. Miền núi khu IV cũ 80 70
3. Miền núi Duyên Hải miền Trung 70 65
4. Vùng cao nguyên Tây Nguyên 90 60
( Nguồn: Thái Phiên, Nguyễn Tử Xiêm, 1999)
Theo Bùi Quang Toản, ở Vùng Tây Bắc nước ta chỉ tính riêng 10 vạn
ha đất canh tác thì hàng năm xói mòn đã cuốn đi khoảng 27 triệu tấn đất
tương đương với khoảng 4 – 6 vạn tấn Đạm, 2 – 3 vạn tấn Lân và hàng chục
vạn tấn Kali. Một trận mưa lớn ﴾ khoảng 100 – 150mm﴿ có thể làm mất đi
8
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
lớp đất dày một đến vài cm, trong khi để tạo ra lớp đất tơi xốp dày 5mm –
2cm thì cần có thời gian khoảng 100 năm.
Diện tích đồi núi nước ta chiếm 2/3 diện tích đất tự nhiên. Do vậy,
việc sử dụng đất đồi núi sản xuất nông - lâm nghiệp chiếm một vị trí quan
trọng trong nền kinh tế. Trong 9 vùng sinh thái thì có 7 vùng thuộc vùng đồi
núi. Trong tổng số 22 triệu ha đất đồi núi thì diện tích đất chưa sử dụng còn
khoảng gần 4.5 triệu ha có khả năng khai thác đưa vào sử dụng.

Bảng 2.2: Phân bố diện tích đất đồi núi trong các vùng sinh thái ở nước ta
TT Tên vùng sinh thái Diện tích ( ha )
1 Vùng Đông Bắc 3.232.252
2 Vùng Tây Băc 5.485.206
3 Vùng Bắc Trung Bộ 4.298.089
4 Vùng Duyên Hải Nam trung Bộ 3.583.482
5 Vùng Tây Nguyên 4.601.848
6 Vùng Đông Nam Bộ 1.753.176
( Nguồn: Số liệu thống kê bộ TN & MT, 2005)
Các nghiên cứu về đặc điểm và hướng sử dụng đất đồi núi nước ta đang
được đặc biệt chú ý. Ngay từ những năm sau hoà bình, các nhà thổ nhưỡng
Việt Nam cùng chuyên gia Liên Xô ﴾cũ﴿ V.M.Fridland đã dày công điều tra
phân tích các loại đất vùng đồi núi, xác định các quá trình hình thành đất đặc
trưng của vùng nhiệt đới nóng ẩm như quá trình Ferralit, Alit, Latertic…
Về sử dụng đất đồi núi, Viện Quy hoạch và thiết kế Nông nghiệp đã
phân cấp độ dày tầng đất và độ dốc của các loại đất phục vụ cho công tác
quy hoạch sử dụng đất có hiệu quả và lâu bền. Từ những năm 60 đã có nhiều
công trình nghiên cứu về biện pháp kỹ thuật chống xói mòn đất, bảo vệ đất
dốc ﴾ Nguyễn Trọng Hà 1976; Bùi Quang Toản 1965; Nguyễn Xuân Cát
9
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
1980; Nguyễn Văn Tiễn 1988; Thái Phiên với chương trình IBSRAM 1900
– 1999; Nguyễn Thế Đặng 1991 - 2000﴿
Theo nhóm biên tập bản đồ đất năm 1995 ở nước ta đất đồi gò trung du
miền núi chiếm 24 triệu ha và phân chia ra:
Bảng 2.3 : Độ dốc và tỷ lệ diện tích trong vùng đất đồi núi nước ta
Độ dốc ﴾
0
﴿ < 15
0

15 - 25
0
> 25
0
Tỷ lệ ﴾%﴿ 21 14 65
Trước đây, diện tích đất đồi núi sử dụng cho nông nghiệp chỉ vào
khoảng 1,55 triệu ha, cho lâm nghiệp khoảng 9,6 triệu ha ( Nguyễn Khang,
1997) cho đến nay, diện tích đất đồi núi sử dụng cho nông nghiệp lên tới 9,3
triệu ha, cho lâm nghiệp 11,6 triệu ha còn dịên tích đất đồng cỏ và trồng cỏ
để phục vụ chăn nuôi có khoảng 534.000 ha. Đất đồi núi thuận lợi cho việc
mở ra những vùng chuyên canh cây trồng mang tính hàng hoá cao. Ở những
diện tích đã được khai phá ở vùng đồi núi thì diện tích trồng các loại cây lâu
năm mới chỉ khoảng 2,2 triệu ha tập trung chủ yếu các loại cây có giá trị như
cá phê, cao su, chè, hồ tiêu ở Tây Nguyên; cao su, điều ở vùng Đông Nam
bộ; vùng đồi núi phí Bắc được trồng các loại cây chè, trẩu, quế, mía đồi và
các loại cây ăn quả như vải, nhãn, mận, hồng… Theo Nguyễn Tử Siêm,
Thái Phiên 1999 thì ở trung du và đồi núi nước ta có 18 vùng chuyên canh
cây cao su, 13 vùng chuyên canh cây cà phê, 16 vùng chuyên canh cây ăn
quả và 11 vùng chuyên canh cây đặc sản. Những cây trồng này cho thu nhập
cao hơn hẳn so với cây lương thực và mở ra nhiều ngành sản xuất như chế
biến nông sản, dịch vụ tạo thêm công việc cho người lao động, làm thay đổi
bộ mặt kinh tế - xã hội miền núi.[2]
Vùng đồi núi nước ta có độ dốc cao, địa hình chia cắt mạnh, mạng lưới
sông suối dày đặc, sông ngắn dốc, kết hợp với mưa nhiều và tập trung đã tạo
10
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
nên dòng chảy trên mặt, cuốn trôi đi nhiều chất dinh dưỡng làm đất bị chua
nhanh và thoái hoá rất mạnh, năng suất cây trồng giảm nghiêm trọng, thậm
chí nhiều nơi không cho thu hoạch. Theo Lê Trọng Cúc ﴾1991﴿ cho biết tình
trạng rửa trôi xói mòn của việc canh tác nương sắn trên đất dốc như sau:

Bảng 2.4: Tình trạng rửa trôi xói mòn trên nương sắn ở vùng đất dốc
Phương thức canh tác
Tổn thất do xói
mòn ﴾tấn/ha/năm﴿
N, P, K tương ứng ﴾kg/ha ﴿
N P
2
O
5
K
2
O
Đất trống 245 291.55 135.56 154.95
Sắn không luống 147 157.43 74.07 106.22
Sắn có luống 120 122.40 61.20 85.90
Sắn xen cốt khí 20 25.40 5.95 9.52
Sắn xen lạc 30 34.45 7.94 13.26
Sắn xen đậu 28 30.94 7.14 11.90
Một nghiên cứu khác về hiện tượng xói mòn trên đất đỏ Bazan ở vùng Đak
Lak của Thái Phiên và các cộng tác viên ( 1998) đã xác định lượng đất mất
do xói mòn trên đất Bazan trồng lúa nương có thể đạt 72,2 tấn/ha/năm. Nếu
trồng theo đường đồng mức và có băng chắn bảo vệ thì lượng đất mất giảm
48 %, còn 35 tấn/ha/năm.
Mặt khác, so với đất dốc canh tác nông nghiệp, ở đất có rừng lượng đất mất
do xói mòn thường rất thấp. Theo số liệu quan trắc của Bùi Mạnh, Vũ Văn
Mễ, Nguyễn Danh Mô ( 1972 - 1984) cho thấy trên đất sét Hữu Lũng - Lạng
Sơn, ở độ dốc 12 - 15
0
, dưới rừng thứ sinh hỗn giao, mức độ che phủ 0,7 –
0.8 lượng dòng chảy chỉ có 84 m

3
/ha/năm và lượng đất trôi 0,23 tấn/ha/năm.
Với độ dốc cao hơn 25
0
, các trị số tương ứng là 142 m
3
/ha/năm và 0,28
tấn/ha/năm. Như vậy, rõ ràng rừng đóng một vai trò rất lớn trong việc hạn
chế dòng chảy bề mặt và lượng đất bị xói mòn rửa trôi. [ 2 ]
11
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Nhiều tác giả đặc biệt quan tâm đến vấn đề canh tác trên đất dốc,
trước hết là luân canh và xen canh trong hệ thống cây trồng. Theo Lê Trong
Cúc 1991 cho rằng: Trồng xen cây họ đậu và cây lương thực đã cho sản
lượng tổng hợp cao hơn và đặc biệt là cải tạo được tính chất của đất rất tốt.
Theo nghiên cứu về hoạt động quang hợp của sắn trồng xen với cây họ đậu ở
Vĩnh Phú cho thấy: Hàm lượng diệp lục, chất khô, cường độ quang hợp cao
hơn so với trồng sắn thuần. Trong công thức sắn xen lạc năng suất lạc đạt
500 – 800 kg/ha, sắn đạt từ 15 – 17 tấn /ha, lượng thân lá lạc để lại cho đất
từ 8 – 10 tấn/ha. Ở đất dốc lạc chịu hạn hơn đậu tương, sử dụng nước cũng
hữu hiệu hơn trong điều kiện khô hạn, Vũ Công Quỳ ﴾ 1995﴿ .[ 2 ]
Để sử dụng hợp lí tài nguyên đất dốc về khía cạnh nông - lâm nghiệp
nhiều tác giả cho rằng phương thức nông lâm kết hợp phải được coi là
phương thức canh tác chiến lược phổ cập, chỉ có như vậy mới giải quyết
được 3 vấn đề:
- An toàn lương thực và sản phẩm hàng hoá
- Đồng cỏ nơi chăn thả gia súc
- Củi đun và nguyên liệu làm nhà
Một số nghiên cứu tiến hành trên đất dốc ở Yên Lập, Việt Trì ,Vĩnh Phúc
và Bắc Thái đã có kết luận: Kết hợp trồng cây phân xanh lâu năm ﴾ đặc biệt

là cốt khí﴿ theo đường đồng mức để cắt dòng chảy, trồng xen cây đậu đỗ và
sắn, sử dụng cây họ đậu sau khi thu hoạch vùi làm phân cho sắn, sử dụng
phân hoá học với lượng 30 kg N, 30 kg P
2
O
5
, 60 kg K
2
O/ ha cho cả tổ hợp
cây trồng là biện pháp có hiệu quả cao trên đất dốc ít màu mỡ ở miền núi
﴾ Nguyễn Dậu, Võ Minh Khang, Nguyễn Văn Tiễn 1984 ﴿
Vì những lí do trên đây, trong sử dụng đất dốc việc hạn chế và chống xói
mòn luôn là công việc quan trọng hàng đầu khi có ý định khai phá mở rộng
12
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
và canh tác trên đất dốc, phải chủ động sử dụng các biện pháp phòng chống
xói mòn bảo vệ đất mới tiến hành các dự án mở rộng và canh tác trên vùng
đất dốc.
Như vậy, chắc chắn vùng đất dốc sẽ tham gia tích cực vào quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước với sản xuất nông – lâm nghiệp, miền
núi sẽ nhanh chóng trở thành một vùng được mở mang phát triển cho sản
xuất nông nghiệp xứng đáng với vị trí chiến lược cả về kinh tế, xã hội và
môi trường trong tương lai.
2.2. Nghiên cứu một số vấn đề chung về hiệu quả và hiệu quả sử dụng
đất:
2.2.1. Hiệu quả và phân loại hiệu quả sản xuất nông nghiệp:
Mọi hoạt động của con người đều có mục tiêu chung là kinh tế, tuy
nhiên kết quả hoạt động đó không chỉ duy nhất đạt được về mặt kinh tế mà
đồng thời tạo ra nhiều kết quả liên quan đến đời sống kinh tế xã hội của con
người, như là cải thiện điều kiện sống, môi trường làm việc, cải tạo môi

trường sinh thái, nâng cao đời sống tinh thần của người lao động. Đặc biệt
sản xuất nông nghiệp ngoài ngoài những hiệu quả chung về kinh tế xã hội
còn phải quan tâm rất nhiều đến hiệu quả về môi trường để khai thác sử
dụng quỹ đất một cách bền vững.
Nếu chỉ xem xét hiệu quả trên phạm vi cá biệt, mọi hoạt động kinh tế
có thể mang lại hiệu quả kinh tế cho một cá nhân, một đơn vị nhưng xét trên
phạm vi toàn xã hội nó có thể ảnh hưởng xấu đến hiệu quả chung chính vì
vậy đánh giá hiệu quả cần phân định và làm rõ mối quan hệ giữa cái chung
và cái riêng để đưa ra một phương hướng đúng đắn nhất.
13
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Xem xét về mặt thời gian, hiệu quả đạt được cần phải đảm bảo được lợi ích
trước mắt và lâu dài. Tức là hiệu quả đạt được trong từng thời kỳ không
được làm ảnh hưởng tới thời kỳ tiếp theo.
Về mặt không gian, hiệu quả chỉ có thể đạt được một cách toàn diện
khi hoạt động của các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất, hoạt động kinh tế
đều mang lại hiệu quả và không ảnh hưởng chung đến nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, đánh giá hiệu quả cần phải xem xét một cách toàn diện cả về
mặt không gian và thời gian trong mối liên hệ biện chứng về mặt hiệu quả
chung của toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả đó bao gồm: Hiệu quả kinh tế, hiệu
quả xã hội và hiệu quả môi trường, chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau
như một thể thống nhất và không tách rời nhau.
* Hiệu quả kinh tế:
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế. Mục đích của sản xuất và phát triển kinh tế - xã hội là
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất và tinh thần của toàn xã hội, khi
nguồn lực sản xuất của xã hội ngày càng khan hiếm, việc nâng cao hiệu quả
kinh tế là một yêu cầu khách quan của mọi nền sản xuất xã hội.
Tính hiệu quả theo Cácmác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản
xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế

hoạch thời gian lao động theo các ngành sản xuất khác nhau. Ông cho rằng:
Nâng cao năng xuất lao động, vượt qua nhu cầu cá nhân của người lao động
là cơ sở của hết thảy mọi xã hội.
Như vậy theo quan điểm của Cácmác, tăng hiệu quả phải được hiểu rộng và
nó bao hàm cả tăng hiệu quả kinh tế và xã hội.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một
đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất
14
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội. Vì thế
hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được các vấn đề sau:
- Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật tiết kiệm thời
gian, đó là động lực cho lực lượng sản xuất và là điều kiện quyết định sự
phát triển văn minh xã hội, nâng cao đời sống con người.
- Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt đông kinh tế mà quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ cho
lợi ích của con người.
Tóm lại, bản chất của hiệu quả kinh tế, đặc biệt là phạm trù kinh tế sử dụng
đất là: Với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất lớn nhất với một chí phí bỏ ra ít nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng về vật chất của xã hội.
* Hiệu quả xã hội:
Hiệu quả xã hội có liên hệ mật thiết đến hiệu quả kinh tế và thể hiện
mục tiêu hoạt động của con người như tạo công ăn việc làm ổn định, nâng
cao thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư, phát triển xã hội, nâng
cao dân trí, duy trì được những truyền thống tốt đẹp vốn có của nhân dân
trong địa phương...
* Hiệu quả môi trường:
Đất đai là một yếu tố hình thành môi trường và chịu tác động của môi
trường. Con người tác động vào đất đai nhằm thông qua đất đai để thu sản

phẩm phục vụ cho lợi ích của mình. Tất cả những tác động đó của con người
vào đất đai phải luôn lấy bảo vệ, cải tạo bồi dưỡng đất và bảo vệ cải thiện
môi trường làm mục tiêu.
Mọi hoạt động sản xuất được coi là có hiệu quả khi hoạt động đó
không có những tác động xấu đến môi trường, đó là đất, nước, không khí và
15
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
sinh vật. Đây là mục tiêu quan trọng mang tính quyết định đến sự hoạt động
lâu bền trong quá trình sản xuất nông – lâm nghiệp. Nó đảm bảo được các
yếu tố bảo vệ đất, chống xói mòn đất, nâng cao độ phì cho đất, mang lại hiệu
quả cao cho cả hiện tại và tương lai.
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
16
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Đối tượng nghiên cứu là các điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội liên quan đến
địa bàn nghiên cứu cùng với các loại hình sử dụng đất có hiệu quả nhất ở
vùng đồi núi độ dốc từ 8
0
– 20
0
. Trong đó:
- Đối tượng đất nghiên cứu là vùng đồi núi thấp và trung bình
- Đối tượng sản xuất nông nghiệp là các loại cây trồng như: cây nông nghiệp
ngắn ngày ( lúa, đậu, ngô...), cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày ( sắn,
mía, ca su, cà phê...), cây lâu năm ( cây ăn quả)...Do huyện có diện tích dành
cho trồng cỏ là rất ít ( chiếm 0,08% diện tích đất nông nghiệp cả huyện) nên
tôi xin không xet đến.
3.2. Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu đánh giá điều kiện tự nhiên – kinh tế và xã hội của vùng

- Nghiên cứu đặc điểm đất trong vùng nghiên cứu ( Phân loại, đặc
điểm, tính chất đất).
- Đánh giá thực trạng sử dụng đất dốc
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất dốc.
- Xác định lựu chọn các LUT sử dụng bền vững trên đất dốc ở huyện
Nghĩa Đàn - Nghệ An.
- Định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất dốc
tại địa phương.
3.3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thu thập số liệu thứ cấp: thu thập trên cơ sở
các tài liệu, số liệu đã có sẵn từ các cơ quan nhà nước như phòng nông
nghiệp huyện, phòng thống kê huyện, phòng TN & MT huyện…
- Điều tra phỏng vấn trực tiếp người sử dụng đất theo phương pháp PRA để
thu thập các nguồn số liệu sơ cấp phục vụ đánh giá đất.
17
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Dựa theo sự phân chia thành các tiểu vùng , tôi chọn 3 xã chính để điều tra
gồm:
+ Xã đại diện cho tiểu vùng I có diện tích canh tác trong nông nghiệp lớn,
kinh tế tương đối phát triển và có hướng sử dụng đất chủ yếu vào cây ăn quả
là xã Nghĩa Khánh.
+ Xã được coi là có diện tích đất canh tác lớn, có nền kinh tế phát triển với
loại hình sử dụng đất chính là cây công nghiệp phân bố chủ yếu ở vùng đất
có độ dốc từ 10 - 15
0
là xã Nghĩa Phú đại diện cho tiểu vùng II.
+ Xã thứ ba được lựa chọn làm điểm điều tra là xã Nghĩa Mai đại diện cho
tiểu vùng III có nền kinh tế phát triển trung bình với loại hình sử dụng đất
chính là cây hàng năm như ngô, sắn, khoai, mía và lúa... phân bố chủ yếu ở
loại đất có độ dốc từ 5 – 10

0
.
Mỗi xã được chọn ngẫu nhiên 30 hộ nông dân để điều tra phỏng vấn theo
mẫu phiếu có sẵn.
- Phương pháp phân tích, so sánh: Hiệu quả sử dụng đất dốc được đánh giá
thông qua hệ thống các chỉ tiêu kinh tế - xã hội – môi trường sau:
Các chỉ tiêu chung đánh giá hiệu quả kinh tế sử dụng đất:
Ở phạm vi giới hạn của đề tài tôi lựa chọn một só chỉ tiêu kinh tế cơ
bản sau:
* Tổng giá trị sản xuất hay là tổng thu nhập chung:( GO )
Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một
thời kỳ nhất định thường là một năm hay một vụ. Đối với hệ thống cây
trồng, tổng giá trị sản xuất chính là giá trị sản lượng trên một đơn vị diện
tích canh tác (ha) .
GO = ∑ Di . Ni . Gi
18
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Trong đó: GO: Giá trị sản xuất cây trồng loại i
Di: Diện tích cây trồng loại i
Ni: Năng suất cây trồng loại i
Gi: Đơn giá tương ứng
* Chi phí trung gian: ( IE )
Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường xuyên bằng tiền mà chủ
thể bỏ ra để mua và thuê các yếu tố đầu vào và chi phí dịch vụ trong thời kỳ
sản xuất tạo ra tổng sản phẩm đó.
IE = ∑ Ci . Gi
Trong đó: Ci: Số lượng chi phí cuả loại đầu tư thứ i
Gi: Đơn giá của loại đầu tư thứ i
* Tổng chi phí vật chất:
Là toàn bộ khoản chi phí vật chất bằng tiền bao gồm cà khấu hao tài

sản cố định tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm đó. Trong sản
xuất trồng trọt, chi phí vật chất thường bao gồm chi phí trung gian cộng với
chi phí khấu hao tài sản cố định và các khoản thuế.
*Thu nhập : ( NVA )
Là chỉ tiêu phản ánh phần thu nhập của lao động tự làm và lao động
quả lý cùng một khoản lãi thu được trong quá trình sản xuất kinh doanh.
NVA = Tổng thu - ( Thuế + Khấu hao tài sản cố định + Thuê lao động)
* Giá trị gia tăng: ( VA)
Là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó,
phản ánh hiệu quả đầu tư các yếu tố chi phí.
VA = GO – IE
Trong đó: GO: Tổng giá trị sản xuất
IE: Chi phí trung gian
19
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
* Tỷ suất sử dụng đồng vốn: (Hv )
Là tỷ lệ giữa thu nhập hỗn hợp và chi phí vật chất
* Giá trị thu nhập/công lao động:
Là giá trị được tính bằng tỷ lệ giữa thu nhập của một năm hay một vụ và
tổng số công lao động.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế đều có thể tính toán định lượng một cách tương
đối chính xác phản ánh kết quả của các quá trình sản xuất.
Các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội và môi trường:
Các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội và môi trường chỉ mang tính chất định tính,
khó xác định cụ thể. Theo phạm vi của đề tài tôi chọn một số chỉ tiêu sau:
* Chỉ tiêu về hiệu quả xã hội:
+ Số ngày công/ LUT hay mô hình
+ Hiệu quả xóa đói giảm nghèo hay tổng thu nhập dựa vào các đối tượng
cây trồng cao hay thấp.
* Chỉ tiêu về hiệu quả môi trường:

Dựa vào địa bàn nghiên cứu, tôi đánh giá hiệu quả môi trường theo các
chỉ tiêu:
+ Khả năng che phủ hạn chế xói mòn.
+ Khả năng giữ ẩm hạn chế bốc hơi nước
- Phương pháp đánh giá sử dụng đất bền vững.
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
A. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU:
20
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Nghĩa Đàn là một huyện có khá nhiều tiềm năng và lợi thế về đất đai, lao
động cũng như các nguồn lực đầu tư từ ngoài vào cùng với truyền thống
đoàn kết, tinh thần lao động sáng tạo cần cù của nhân dân trong huyện,
Nghĩa Đàn đang từng ngày được đổi mới, nâng cao về tất cả mọi mặt trong
cuộc sống. Tuy nhiên, huyện vẫn còn gặp phải nhiều khó khăn thách thức do
là một huyện miền núi, trình độ dân cư phát triển vẫn chưa được đồng đều,
còn có khá nhiều xã nghèo và khó khăn ở vùng sâu xa, khả năng tiếp cận với
sự phát triển chung của xã hội còn thấp. Hiện nay, huyện vẫn đang cố gắng
tập trung mọi nguồn lực để chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, nâng cao
trình độ dân số, để dần giảm hộ nghèo – đói, nâng cao thu nhập cho người
dân trong huyện. Sau đây là một số kết quả tôi nghiên cứu và thu thập được
về địa bàn nghiên cứu:
4.1. Điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội của huyện:
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của huyện:
a. Vị trí địa lý:
Huyện Nghĩa Đàn có toạ độ địa lý 105
0
15
'
- 105
0

35' kinh độ Đông và
19
0
13'- 19
0
33' vĩ độ Bắc. Diện tích tự nhiên 61.785 ha, dân số (đến
1/10/2008) là 130.140 người, gồm 3 dân tộc Kinh, Thái và Thổ. Nghĩa Đàn
có đường giáp ranh chung với các huyện:
- Huyện Như Xuân (Thanh Hoá) phía Bắc.
- Huyện Tân Kỳ phía Nam.
- Huyện Quỳnh Lưu phía Đông.
- Huyện Quỳ Hợp, Quỳ Châu ở phía Tây.
Và nằm ở giữa huyện là Thị xã Thái Hoà vừa mới thành lập.
21
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Với vị trí địa lý của mình, huyện Nghĩa Đàn giữ vai trò rất quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
b. Địa hình:
Nghĩa Đàn thuộc huyện vùng núi thấp, địa hình ít phức tạp. Bao vòng
quanh huyện từ Tây Bắc sang Bắc, vòng sang Đông và Đông Nam là những
dãy núi cao nối nhau liên tiếp, có cao độ từ 300 - 400 m, dạng địa hình này
chiếm khoảng 27% diện tích tự nhiên. Khu vực phía Tây Nam và vùng giữa
có địa hình đồi thoải, có độ cao từ 70- 200 m, chiếm diện tích lớn nhất,
khoảng 65% diện tích tự nhiên và nằm xen giữa các vùng đồi thoải là những
thung lũng thoải, có độ cao 40- 70 m, chiếm khoảng 8% diện tích.
c. Thổ nhưỡng:
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 61.785 ha. Trong đó, diện tích
sông suối, mặt nước chuyên dùng và núi đá 4.460 ha, diện tích đất còn lại
57.325 ha, phân bổ trên 6 nhóm đất:
- Nhóm đất Phù sa : Diện tích 9.708 ha, chiếm 17,06% đất toàn

huyện.
- Nhóm đất nâu vàng: diện tích 3.400 ha, chiếm 5,93% đất toàn
huyện.
- Nhóm đất lúa vàng đồi núi: Diện tích 3.410 ha, chiếm 5,95% đất toàn
huyện.
.- Nhóm đất Feralít đỏ vàng vùng đồi núi (170-200m): Diện tích
30.207 ha, chiếm 52,69% đất thổ toàn huyện.
- Nhóm đất đen: Diện tích 3.870 ha, chiếm 6,75% đất toàn huyện.
- Nhóm đất Feralít đỏ vàng vùng núi thấp (200-1.000m): Diện tích
6.730 ha, chiếm 11,62% đất toàn huyện.
22
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Với đặc điểm địa hình, đất đai trên, Nghĩa Đàn có thế mạnh phát triển đa
dạng các loại cây trồng: địa hình đồi dốc, cao trồng rừng; vùng đồi thoải
trồng cây lâu năm, cây công nghiệp hàng năm, màu các loại; nơi thung lũng
thấp có thể sản xuất lúa nước, rau màu…Do vậy, hiện tại phần lớn quỹ đất ở
Nghĩa Đàn đều đã được khai thác sử dụng, trong đó đến 80,6% cho phát
triển nông nghiệp, 13,7% cho phi nông nghịêp, chỉ còn 5,7% diện tích chưa
sử dụng.
d. Khí hậu:
Huyện Nghĩa Đàn chịu ảnh hưởng của khí hậu vùng Bắc Trung bộ và
vùng Tây Bắc Nghệ An, có khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa. Theo tài liệu trạm
khí tượng Tây Hiếu (trung tâm vùng), Nghĩa Đàn có những đặc trưng khí
hậu sau:
- Nhiệt độ trung bình năm 23,3
0
C; trung bình tháng cao nhất 28- 29
0
C
ở các tháng 6,7; trung bình dưới 20

0
C chỉ xuất hiện ở 3 tháng 12, 1 và 2. Có
6 tháng (từ tháng 4- tháng 10) nhiệt độ trung bình vượt qua 25
0
C. Tháng có
nhiệt độ trung bình thấp nhất (tháng 1) 18
0
C. Biên độ nhiệt độ ngày đêm các
tháng mùa hè từ 8- 11
0
C, mùa đông từ 6- 8
0
C.
Trong các tháng mùa đông do nhiệt độ xuống thấp nên thường xuất
hiện sương mù, có năm bị sương muối nhưng ít ảnh hưởng đến sản xuất.
- Lượng mưa trung bình 1.633 mm (bình quân chung lượng mưa Nghệ
An khoảng 1.600 mm), trong đó có đến trên 70% lượng mưa tập trung từ
tháng 5- 10. Lượng mưa bình quân cao nhất 2.784 mm (1978), bình quân
thấp nhất 1.016 mm (1969).
- Tổng lượng bốc hơi bình quân năm 825 mm
- Ẩm độ trung bình nhiều năm phổ biến 80- 86%, chênh lệch giữa các
tháng trong năm không đáng kể.
23
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Trong thời gian dài qua, tần suất bão ít xuất hiện và ảnh hưởng không
lớn đến sản xuất ở Nghĩa Đàn.
Nhìn chung, khí hậu thời tiết ở Nghĩa Đàn phù hợp cho cây trồng, vật
nuôi phát triển, tuy nhiên trong sản xuất cần lưu ý:
- Vào mùa hè có gió Lào khô nóng, lượng bốc hơi lớn, nhiệt độ tăng,
dễ gây hạn đất, hạn không khí, rất cần có các giải pháp thuỷ lợi tưới, hoặc

giữ ẩm, che tủ gốc cây đối với cây lâu năm…
- Mùa đông kèm theo gió mùa Đông Bắc gây lạnh, đôi khi gây sương
muối, biện pháp khắc phục là tưới hoặc giữ ẩm cho cây.
e. Thuỷ văn, nguồn nước:
Nghĩa Đàn nằm trong lưu vực Sông Hiếu, là nhánh sông lớn nhất của
hệ thống Sông Cả, phát nguồn từ biên giới Việt - Lào, qua Quế Phong, Quỳ
Châu, Quỳ Hợp về Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, chảy ra Sông Cả tại Cây Chanh
(huyện Anh Sơn). Sông Hiếu dài 217 Km, đoạn chảy qua Thị xã Thái Hoà
và huyện Nghĩa Đàn dài 44 Km (từ ngã ba Dinh đến Khe Đá). Tổng diện
tích lưu vực 5.030 Km2, tính đến Thị xã Thái Hoà có diện tích lưu vực
3.900 Km
2
.
Cùng Sông Hiếu còn có 48 sông suối lớn nhỏ, trong đó có 5 nhánh
chính, đó là Sông Sào dài 34 Km, Khe Cái dài 23 Km, Khe Hang dài 23 Km,
Khe Diên dài 16 Km, Khe Đá dài 17 Km, các sông suối lớn nhỏ có nước
quanh năm và địa hình thích hợp tạo cho Nghĩa Đàn nhiều thuận lợi trong
công tác đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi, với trên 100 hồ đập có trữ
lượng hàng trăm triệu m3. Trong đó có 2 công trình lớn là hồ Sông Sào và
hồ Khe đá.
24
Luận văn tốt nghiệp SV: Hồ Thị Hồng Hạnh - KHĐ51
Nghĩa Đàn có 3.582 ha sông suối và mặt nước chuyên dùng, là tiềm
năng cung cấp nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt, đồng thời là nguồn lợi
khai thác NTTS, phát triển du lịch sinh thái,…
Nguồn nước ngầm ở Nghĩa Đàn chưa có tài liệu khảo sát, đánh giá
đúng mức, nhưng qua khảo sát từ các giếng khơi cho thấy khá dồi dào, mực
nước ngầm bình quân 6- 7 m, mùa khô hạn 10- 15 m, mùa mưa 4-5 m, có
nơi dưới 2 m. Nước ngầm ở Nghĩa Đàn có nhiều tạp chất của khoáng vật.
f. Tài nguyên thực vật và rừng:

Thực vật ở huyện Nghĩa Đàn khá đa dạng và phong phú với nhiều loại
cây khác nhau. Trong đó tập trung chủ yếu là các loại cây ăn quả như: mít,
xoài, cam, nhãn, vải .... và các loại cây công nghiệp như: mía, cà phê, cao
su... Một số vùng tập trung các loại cây lương thực và cây rau, màu ngắn
ngày như: lúa, ngô, khoai, sắn, các loại đậu ....
Nghĩa Đàn không phải là huyện có nhiều tiềm năng phát triển rừng
của tỉnh. Theo số liệu năm 2008, huyện nghĩa Đàn có 22.862 ha đất lâm
nghiệp (chiếm 37 % diện tích tự nhiên của huyện, khoảng 5,2 % diện đất
lâm nghiệp của tỉnh).
Trong đó:
+ Rừng tự nhiên: 12.440 ha, chiếm 54,4 %. Rừng trồng: 8.907 ha,
chiếm 39.0 %. Đất trống đồi núi trọc: 1.515 ha, chiếm 6,6 %.
+ Phân theo 2 loại rừng: rừng phòng hộ 4.706 ha, rừng sản xuất
18.156 ha.
Nhìn chung tài nguyên rừng ở Nghĩa Đàn không lớn, diện tích đất có
rừng 21.347 ha, độ che phủ rừng đạt khoảng 35,6 % diện tích tự nhiên.
25

×